Chương 20 PHỐ THIÊN ĐƯỜNG
Zefiro rút đạn ra khỏi súng, cất chúng vào túi chiếc áo dài màu nâu của mình rồi vứt vũ khí lên cỏ.
Trước mặt ông, Vango vẫn quằn quại trên đất. Cậu cố gắng ngẩng đầu lên, chống khuỷu tay. Mặt trời chói chang rọi vào mặt cậu.
Linh mục không nhìn cậu. Ông nhặt một quả vả phía sau mình, ngồi xuống gốc cây và khi cắm ngón tay cái vào sâu trong lớp thịt quả màu đỏ, ông bắt đầu nói.
“Nghe ta này, Vango. Ta sẽ kể con nghe một câu chuyện.
Con sẽ hiểu tất cả nếu con nghe hết câu chuyện này.
Năm ba mươi tuổi, ta là cha tuyên úy chiến trường trong quân đội Pháp.
Cũng khá tình cờ.
Năm 1914, khi ta đang là tu sĩ, ở miền Tây nước Pháp, thì chiến tranh nổ ra. Trước đó hai năm, ta được giao quản lý khu vườn tu viện, ở cuối một hòn đảo ngoài khơi. Ta từng bị hai tu viện Ý từ chối rồi mới đặt chân lên nơi ấy. Người ta dành riêng cho ta một chỗ trong cộng đồng gồm năm mươi nữ tu. Người đàn ông duy nhất bên cạnh những bà xơ. Ta thật hạnh phúc trong khu vườn của mình. Ta là một tu sĩ không thể thuần hóa nhưng là tu sĩ và ta không muốn cuộc sống nào khác ngoài cuộc sống đó. Ta thường làm việc cùng nông dân vùng đầm lầy. Ta là bạn của thợ xay bột, thợ làm muối, của tất cả đám thủy thủ trên cảng. Ta có một khu vườn đẹp nhất Đại Tây Dương.
Đầu tháng Chín năm 1914, tất cả thanh niên trên đảo đều lên đường ra trận. Đức xâm chiếm Bỉ. Nước Pháp lâm chiến.
Ta cùng độ tuổi với họ, ta cũng muốn theo họ.
Đấng bề trên của tu viện là mẹ Elisabeth. Bà cho phép ta đi. Bà tin rằng như vậy có thể giúp ta dạn dày hơn.
Ta đi tàu đến Challans. Ta gặp giám mục tại Paris. Ta nói trước với giám mục chuyện ta là người Ý. Ông đáp đó không phải là tội lỗi.
Ông cần những người đàn ông, vậy nên ông chọn ta.
Người ta cứ ngỡ chiến tranh xảy ra nhanh thôi và ta còn nghĩ sẽ được ở Rome vào hè năm sau để nghỉ vài ngày, leo lên các ngọn đồi, dạo chơi giữa vườn cam của villa Bonaparte, nơi có những người bạn của ta. Ta còn mong được trở lại tu viện Trắng, nhìn ra đại dương, giữa đám sồi xanh biếc, tiếng cầu kinh và những cánh đồng khoai tây.
Vậy mà hai năm sau, chiến tranh vẫn dai dẳng trong những đường hào Verdun, ở Lorraine. Và ta cầu niệm cho các tử thi nhiều hơn cho các chiến binh. Mọi người sống dưới lòng đất, với đạn pháo rơi xuống như mưa lẫn vào bùn đất, dịch bệnh lan tràn, còn đàn ông thì râu ria lồm xồm, già đi cả trăm tuổi, gào khóc như trẻ con.
Ta trở thành cha tuyên úy của lũ chuột.
Khi làm lễ trong đường hào, ta không biết liệu cánh tay của một trong số những con chiên kia có bị lựu đạn cắt đứt lìa trước khi làm dấu thánh giá lần cuối cùng hay không. Chiến tranh như vậy đó, Vango.
Ngày 15 tháng Tám, đường hào nơi ta trú ẩn bị bom bịt kín. Bịt kín, Vango à, con có hiểu không? Cả tiểu đoàn của ta biến mất. Ta thoát nạn. Ta đi cùng một bác sĩ trẻ mà ta rất quý. Anh ấy tên là Esquirol. Anh ấy vác trên vai một người lính da đen, Joseph, lính biệt kích, bụng bị đạn pháo xé rách. Chiến tranh là vậy đó, Vango.
Có một khu rừng nhỏ gần làng Falbas, một bãi rừng trống ở giữa, với một cây sồi cổ thụ năm trăm tuổi.
Cả ba chúng ta dừng lại.
Trên cành cây, một chiếc máy bay đậu vắt vẻo trông như đồ chơi trẻ con. Máy bay của Đức. Phần cánh thậm chí không hề bị vỡ. Ta leo lên cây để xem tay phi công còn sống không. Hắn không ở đó nhưng động cơ hãy còn ấm.
Bác sĩ đặt cậu lính biệt kích Joseph xuống mặt cỏ. Trời rất đẹp. Những tiếng nổ dường như xa xăm. Esquirol lấy đồ nghề ra để khâu cho anh lính.
Nửa giờ sau, Joseph ngất lịm dưới chân bọn ta. Cậu ấy đã được cứu. Ta và Esquirol đưa cậu ấy lại nơi có bóng mát. Bọn ta nằm xuống ngủ cách đó hai mươi bước chân.
Một gã đánh thức bọn ta dậy. Đó là một sĩ quan Đức trong bộ đồng phục không quân, phi công của chiếc máy báy nằm trên cái cây kia. Hắn gí súng vào từng người bọn ta. Hắn không nhìn thấy Joseph.
Tên người Đức bị thương. Đùi hắn mở ngoác ngay trên đầu gối.
- Tên này, mày là bác sĩ, hắn nói với Esquirol bằng tiếng Pháp. Hãy chữa trị cho tao.
- Vứt vũ khí đi.
- Không.
Esquirol lau dụng cụ. Anh ấy phẫu thuật chân cho tên phi công, trong khi vẫn cảm nhận được nòng súng đang gí vào trán mình. Chiến tranh giống như vậy đó, Vango.
Nhưng nhờ Esquirol, tên người Đức nhanh chóng đứng lên được.
Buổi tối, chính cậu lính Joseph, vòng từ đằng sau, đã tay không trấn được vũ khí của tên người Đức. Cậu ấy, Joseph Puppet, có nắm đấm cứng như đạn pháo, sau chiến tranh, cậu ấy có sử dụng đến nó. Cậu ấy từng đấu quyền Anh với những đối thủ nặng ký nhất.
Bốn người chúng ta đã gặp nhau như vậy đó, một người Đức, một người Bờ Biển Ngà, một người Ý mặc chiếc áo thầy tu đi chiến đấu và một bác sĩ người Pháp, nằm dài dưới cây sồi, ngốc nghếch, mệt mỏi, nửa què cụt, không biết điều gì đã dẫn họ tới đây và không biết sẽ làm gì tiếp.
Đêm đến, một người đã mạnh dạn mở mồm. Đó là tay sĩ quan người Đức. Hắn tên là Mann. Werner Mann. Hắn nói tiếng Pháp rất chuẩn.
- Tôi tìm một con phố ở Paris sau cửa ô Saint-Denis, các anh có biết không?
Không ai trả lời.
- Con phố có một quán cà phê nhỏ tên là Nhà Jojo.
Câu hỏi dường như rơi xuống từ hành tinh khác. Một hành tinh với những quầy hàng bằng đồng bóng loáng và thơm mùi cà phê xay, nơi anh chàng Jojo có thể vừa nói chuyện về thời tiết đẹp cùng khách, vừa lau chùi những chiếc tách.
- Nhà Jojo, phố Thiên Đường, Esquirol buột miệng.
- Đúng rồi. Đúng đấy. Phố Thiên Đường.
Không còn nghe thấy tiếng ồn ào của trận địa nữa. Mann và Esquirol im lặng hồi lâu. Nhưng vì không ai ngủ được nên Werner Mann lại tiếp tục:
- Trong con phố đó, có một cô gái bán hoa. Khi đến học ở Paris, tôi thuê một căn phòng trên phố Xanh, ngay bên cạnh và tôi rất quý cô gái ấy. Có ai ở đây biết cô ấy không?
Con người là vậy đó. Nếu bạn sinh ra ở New York và bạn đang đi đâu đó rất xa, người ta sẽ hỏi bạn xem có quen một anh chàng Mike tóc vàng nào đó, cũng sống ở New York không. Và người ta sẽ hỏi bạn tin tức của anh ta…
Esquirol lại có vẻ muốn nói gì đó. Ta nghĩ anh ấy đang tự hỏi liệu luật pháp có cho phép anh ấy nói chuyện với một người Đức về một cô gái bán hoa cạnh Nhà Jojo không.
Đàn ông còn chết dưới họng súng vì những điều cỏn con hơn thế. Người ta gọi đó là “kết thân với kẻ thù”. Đó là một trọng tội.
Vì thế anh ấy định giữ im lặng, nhưng sau ba mươi phút, Esquirol không thể giữ miệng được nữa:
- Cô gái ấy, cô ấy tên là Violette.
Chính nhờ những từ đó, nhờ có Violette, tất cả đã thay đổi.
Trong chốc lát, dường như cả bốn bọn ta đều cảm thấy sự phi lý của chiến tranh. Nếu những người lính có thể gặp nhau ngay sát chiến trường bị cày xới như nghĩa địa, và cùng chia sẻ một ký ức nhẹ nhàng, thoáng qua như gương mặt của một cô gái, thì mọi thứ đều có thể.
Chiến tranh không phải là định mệnh.
Chúng ta đã nói chuyện suốt đêm.
Đến sáng, kế hoạch Violette ra đời.
Mỗi người trở lại với chiến tuyến của mình. Mann về phe Đức, còn bọn ta về phe Pháp. Bọn ta đã đi hết chiến tranh với vai trò là những người lính, không hề gặp lại nhau. Và khi hòa bình được chính thức tuyên bố, ngày 11 tháng Mười một năm 1918, ta trở lại tu viện Trắng của mình trên đảo Noirmoutier.
Ta trở nên quá yếu đuối, Vango ạ, quá sốc bởi những năm tháng ở chiến trường, đến nỗi đêm đêm, tiếng sóng sau tu viện làm ta hoảng sợ y như tiếng súng đại bác. Rồi ta dần dần bình phục. Những nữ tu tốt bụng làm bánh hồ đào phết bơ mặn cho ta ăn.
Trước Giáng sinh năm 1918, hãy còn mất cân bằng một chút, ta xin phép nghỉ ba ngày đi Paris. Mẹ Elisabeth để ta đi.
Vậy nên tối 25 tháng Mười hai, ta mới trở lại phố Thiên Đường, bước đi trong tuyết lạnh. Ta đến Nhà Jojo sớm hơn giờ hẹn một chút.
Hai năm trước đó, trong bãi rừng trống Verdun, bọn ta đã hẹn nhau đến nơi này. Đó sẽ là Giáng sinh đầu tiên sau khi chiến tranh kết thúc, bọn ta còn chưa biết năm nào, trong quán cà phê mà nhờ đó, mọi chuyện bắt đầu.
Nhà Jojo, phố Thiên Đường.
Joseph Puppet đến đầu tiên, cậu ấy ăn mặc như hoàng tử với chiếc áo gi lê bằng lụa bên trong lớp áo vest.
Ta huýt sáo gọi. Cậu ấy nhìn bộ quần áo thời Trung cổ của ta. Cậu ấy cười ầm ĩ nói với ta rằng nếu vẫn còn đang tìm kiếm thì khỏi đi, cậu ấy vẫn may tại tiệm Michel gần chợ Le Carreau du Temple [4] .
Bọn ta ôm chầm lấy nhau.
Người đàn ông bên cạnh chìa ra một tờ báo.
- Đây có phải ông không?
Anh ta chỉ bức ảnh bên dưới, trang nhất.
Chính là cậu ấy, J.J. Puppet, mới hôm qua vừa hạ knock-out Kid Jackson, nhà vô Liverpool, tại vòng bảy.
Joseph vừa cười vừa ký lên bức ảnh.
Esquirol cũng đã đến. Anh ấy ôm bọn ta. Ta khó mà nhận ra anh ấy với chiếc áo khoác len cổ dựng và chiếc mũ màu ghi.
Và từng người kể về những tháng cuối cùng của mình trong chiến tranh.
Esquirol nhìn đồng hồ liên tục. Mann không đến. Joseph cố đùa:
- Hắn đang trong vòng tay cô nàng Violette rồi, trên phố bên cạnh kìa, chắc chắn đấy. Hắn chẳng muốn ghé qua thăm cô ấy còn gì, hắn sẽ đến thôi.
Nhưng tất cả đều biết điều đó có nghĩa gì.
Hắn không đến.
Một người đàn ông đến thay hắn. Ông ấy chừng bốn mươi lăm tuổi. Ông ấy từng là sĩ quan huấn luyện Mann.
Máy bay của Mann bốc cháy vào ngày cuối cùng của cuộc chiến. Ngày hôm sau, hắn chết vì bỏng quá nặng, ngay cạnh người đàn ông ấy.
Bọn ta suy sụp. Người bạn của bọn ta đã chết.
Kế hoạch Violette đã giúp ta đứng vững trong chiến tranh. Chẳng gì có thể đứng vững nếu không có một người Đức trong bọn ta.
Người đàn ông nói:
- Werner đề nghị tôi thay cậu ấy. Nếu các anh muốn, tôi sẽ đồng hành cùng các anh. Tôi tên là Hugo Eckener.
Một chút ngờ vực dấy lên trong chúng ta.
Ta nhìn Eckener vẫn chưa cởi chiếc mũ bon nê dính đầy tuyết ra. Esquirol là người đầu tiên bắt tay ông ấy rồi nói:
- Willkommen… Xin chào mừng…
Bọn ta ở lại quán Nhà Jojo đến tận đêm.
Khi chỉ còn một mình trên phố, ta nghĩ đến Mann. Ta muốn ghé thăm cửa hàng của Violette. Tấm ri đô đóng kín. Ta hỏi người gác cổng cô bán hoa dạo này ra sao. Ông ta bảo cô ấy chết vì bệnh lao hồi trước mùa thu rồi.
Đúng, Joseph có lý. Mann đang trong vòng tay của Violette, ở một nơi nào đó…”
Vango lắng nghe. Cậu từ từ lết dưới cây vả để có thể gượng dậy trong bóng râm.
Cậu không thấy mối liên hệ giữa câu chuyện và sự có mặt của viên cảnh sát trưởng người Pháp trên đảo Arkudah hơn mười lăm năm sau những sự kiện ấy. Nhưng cậu xúc động. Bỗng nhiên, cậu hiểu rõ hơn chiến tranh là gì. Cậu mới chỉ biết đến nó qua những tượng đài đầy hoa, những huân huy chương, những người phụ nữ mất đi đứa con trai duy nhất, những hồi trống vang lên mỗi năm một lần, những người đàn ông mất một tay hoặc một chân.
Chiến tranh… Những ký ức của Zefiro đã đắp thịt, đắp máu cho cụm từ ấy.
“Bọn ta gặp lại nhau hai tháng sau đó.
Về kế hoạch Violette, tất cả đều bắt đầu rất tệ.
Đó là một ý tưởng trẻ con nhất thời, một kế hoạch đơn giản và ngây thơ… Nó chứa đựng trong hai từ: chấm dứt. Chống chiến tranh trước khi nó bắt đầu. Tấn công vào gốc rễ trước khi nó trồi lên mặt đất. Chỉ còn việc thực hiện kế hoạch ấy.
Vậy mà có chuyện gì đó đang xảy ra. Đầu con rồng lại mọc lên đúng cái nơi người ta vừa cắt nó đi. Những kẻ buôn bán vũ khí và một số kẻ khác hoan hỉ. Ngay đầu năm 1919, nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh tiếp theo hiển hiện trước mắt chúng ta. Hiệp ước sắp ký tại Versailles như lời mời cho những trận chiến khác. Hình phạt đối với Đức quá nặng, đến nỗi nảy sinh thù hận và ý muốn trả thù.
Hugo Eckener giúp bọn ta đánh giá tình hình. Ông ấy chỉ cho bọn ta trên bản đồ những đường biên giới mới trông giống như ruộng mìn. Bọn ta thậm chí chẳng kịp phản ứng. Bốn gã ngây ngô thì có thể làm được gì trước cỗ máy chiến tranh ấy cơ chứ?
Kế hoạch Violette sẽ chết yểu thôi.
Bọn ta viết thư hoặc viết xã luận cho các tờ báo, gặp gỡ nghị sĩ, họ cười và coi chúng ta như những kẻ theo chủ nghĩa hòa bình nguy hiểm.
Ta còn nhớ là Puppet muốn thuyết trình vào cuối trận thắng lợi của cậu ấy, nhưng những tiếng kêu gào của đám đông át hết giọng cậu ấy. Esquirol ngồi xem ở hàng ghế đầu bảo cậu ấy thôi đi. Lúc nào cũng vậy, công chúng tung hô nhà vô địch, không để anh ta nói nổi một lời. Ngày hôm đó, khi nhìn những bức ảnh trên báo, tất cả mọi người cứ ngỡ cậu ấy đang khóc vì sung sướng.”
Zefiro ngừng kể chuyện một lúc. Ai không lưu luyến cái ngày phải từ bỏ giấc mơ đẹp nhất đời mình chứ? Ông kể đoạn sau như đang đọc cáo phó.
“Giáng sinh 1919, quây quần bên suất sô cô la nóng tại quán Nhà Jojo, kế hoạch Violette bị chôn vùi bởi ba phiếu chống và một phiếu thuận.
Một cơn gió lạnh buốt thổi vào Paris. Hugo Eckener, với chiếc mũ lông thú không vành, trông như một con gấu bắc cực đang ủ rũ trên ghế. Ta đấu tranh mất mấy phút, rồi bảo ta còn niềm tin vào kế hoạch đó và ta có một phương án hẳn hoi.
Ngày hôm đó, bọn ta hầu như không dám nhìn nhau. Esquirol vừa mở một phòng khám rất đẹp ở Paris. Eckener đã an cư bên bờ hồ Constance. J.J. Puppet vừa đấm vỡ mũi Joe Beckett một cách tài tình. Còn ta, trở thành thầy tu dạn dày đúng như người ta muốn, tên ta được nhắc đến trên thánh đường Saint-Père ở Rome.
Bốn người cùng nhìn suất sô cô la. Joseph nhìn đồng hồ. Bọn ta tạm biệt nhau. Ta nghĩ đến lời phán đoán của Mann về cả bốn người. Bọn ta đi bộ cùng nhau một lát, trên phố Thiên Đường. Và khi ngang qua cửa hàng ngũ kim thay thế cửa hàng hoa của Violette xinh đẹp, ta thấy Esquirol, xấu hổ, đi sang vỉa hè bên kia.
Có thể chính vì nhìn thấy thế mà ta quyết định không từ bỏ gì cả. Ta đơn độc tiến hành kế hoạch. Ta lần theo manh mối tìm được và mười một tháng sau, ta trở thành linh mục nghe xưng tội của Voloï Viktor, một kẻ buôn lậu vũ khí và làm việc cho những thế lực xuất khẩu chiến tranh xấu xa nhất.
Châu Âu và toàn thế giới làm ra vẻ truy lùng hắn nhưng vẫn ký hợp đồng làm ăn với hắn.
Hắn thay đổi danh tính ba tháng một lần, thay hình đổi dạng và quốc tịch. Hắn từng là quý tộc Anh, thương gia Tây Ban Nha, giám đốc rạp xiếc và thậm chí, như người ta nói, một nữ ca sĩ hạng sao tại một phòng trà ở Istanbul. Nhiều người cho rằng hắn không tồn tại.
Viktor chỉ có một nỗi sợ: bị thiêu dưới địa ngục sau khi chết. Vì thế hắn tìm một linh mục nghe xưng tội để trấn an hắn. Ta giúp hắn là để tiếp cận hắn.
Hắn hẹn ta trong những nhà thờ vắng vẻ, thường thì mỗi lần một nơi, ở một gác chuông trên núi tại Ý hay ở một nhà thờ trên vùng núi Alpilles nước Pháp. Hắn đến một mình.
Thời gian đó, Voloï Viktor chừng hai lăm, ba mươi tuổi gì đó. Hắn gần như rất khó bị nhận diện. Hắn nói với thứ giọng trẻ con ngoan ngoãn. Hắn phàn nàn về một ông chủ lớn mà hắn gọi là Lão già. Hắn nói Lão già quá tàn nhẫn với hắn và hắn sợ lão. Hắn huyên thuyên.
Hắn chỉ tiết lộ với ta những tội lỗi nhỏ nhất: một con ruồi bị hắn dìm chết trong mật ong lúc ăn sáng, một từ bậy bạ hắn lỡ mồm. “Cha ơi, con thật độc ác, vừa nói hắn vừa đánh vào ngực mình.”
Hắn bật khóc, bấu tay vào chấn song phòng xưng tội. Ta làm ra vẻ từ bi khi nghe hắn nói nhưng bên trong ta, nỗi tức giận dâng trào.
Ta chuẩn bị phương án của mình.
Tháng Mười một năm 1920, ta viết thư cho Esquirol. Ta đề nghị anh ấy báo cho cảnh sát trưởng Boulard, ở Quai des Orfèvres, rằng năm ngày nữa, Voloï Viktor sẽ có mặt tại nhà thờ Saint-Marguerite, ngoại ô Saint-Antoine, lúc ba giờ chiều.
Họ không thể để hắn thoát.
Một trăm người đã được huy động. Các phố được rải quân theo chiến thuật bàn cờ, đến tận ngục Bastille. Có cả lính bắn tỉa trên mái nhà.
Ba giờ mười lăm, ta xá tội cho Voloï Viktor xong, và hắn đi ra. Sau mỗi cây cột là một cảnh sát. Nhà thờ bị bao vây. Nhưng họ không tóm được hắn. Đúng thế, Vango ạ, họ đã để hắn thoát.
Kể từ ngày đó, Voloï Viktor treo giải thưởng để tiêu diệt ta. Những kẻ buôn lậu muốn ta chết. Bọn chúng sẵn sàng trả rất đắt cho cái mạng của ta.
Ta không có cơ hội nào thoát được chúng.
Ta đi bộ qua những dãy núi đến Rome, ta đề nghị được tiếp kiến Đức Giáo hoàng.
Và ngày hôm sau, báo chí Pháp và Ý đăng trên nền đen cáo phó thông báo cái chết của cha Zefiro, linh mục, thầy tu, thợ làm vườn, thợ nuôi ong, chết ở tuổi ba mươi bảy. Lễ an táng sẽ diễn ra trong phạm vi thân tình. Không hoa, không vòng hoa.
Cái ngày an táng ấy, trong khi Puppet, Esquirol và Eckener cùng vài tu sĩ nữa khiêng một chiếc quan tài nhẹ tênh thì ta đặt chân lên hòn đảo Alicudi nhỏ bé này, ta đã đặt lại cho nó cái tên Ả Rập cũ: Arkudah.
Ta dựng lên tu viện để tiếp tục sống. Và đối với phần còn lại của thế giới, ta đã chết.
Ngay cả Joseph và Esquirol cũng không biết vị trí của tu viện. Ta chỉ cho mỗi Eckener biết. Chắc chắn chính ông ấy đã chỉ cho Boulard đến gặp ta…”
- Còn những người khác?
- Ai?
- Thầy dòng John, Marco, Pierre, tất cả những thầy tu khác của tu viện thì sao? Vango hỏi. Họ ở đâu ra?
- Những người ở đây, với chúng ta, là những tu sĩ có lý do chính đáng để ở đây. Họ đến từ khắp nơi.
Rồi Zefiro bắt đầu kể những câu chuyện của họ. Câu chuyện của những con người sống cùng Vango hằng ngày, câu chuyện của thế kỷ họ đang sống.
Một số tu sĩ thoát khỏi chế độ phát xít của Mussolini, số khác thoát khỏi chế độ của Hitler hay của Staline ở Mátxcơva. Có những người là kẻ thù của tất cả bọn mafia, là gián điệp, là người hoàn lương. Thậm chí có cả hai tu sĩ Cơ Đốc giáo từng đương đầu với đàn chó sói vùng Siberi sau khi thoát khỏi một trại cải tạo. Họ đến gần một tu viện của các nhà tu khổ hạnh trong rừng ở Phần Lan, giải thích tình cảnh của họ. Người ta lắng nghe chuyện của họ rồi chỉ đường cho họ đến thiên đường nhỏ của Zefiro, nơi họ vẫn hành đạo của mình, đồng thời sống cùng tất cả các tu sĩ khác.
Một số người thoát khỏi địa ngục trần gian Lipari, hòn đảo kế bên, nơi giam giữ những phần tử đối lập của chính quyền phát xít.
Một người nữa, John Mulligan, là linh mục người Alien, từng rửa tội cho con trai của Al Capone, ông trùm mafia Chicago. Trong phòng làm việc của Al Capone, Mulligan đã phát hiện ra một chi tiết không nên thấy: hai cái xác được bọc trong khăn trải bàn kẻ sọc ca rô đỏ trắng. Ông bị buộc phải mất tích.
- Tất cả thầy dòng ở đây đều không còn tồn tại với thế giới bên ngoài hòn đảo này, Zefiro kết luận. Tất cả họ đều chết hoặc mất tích. Vậy nên chúng ta mới gọi là tu viện vô hình. Đây là nơi trú ẩn của những bóng ma.
Vị linh mục xúc động. Ông khẽ lắc đầu.
- Đúng, những bóng ma.
Ông nhìn Vango.
Còn cậu bé? Thực sự cậu ấy là ai? Cậu ấy đang chạy trốn điều gì?
Mặt trời đã lên cao. Cây vả tỏa mùi đường ngòn ngọt phía trên họ.
- Thế còn Boulard, sáng nay? cuối cùng Vango hỏi.
- Boulard đến bảo ông ta đang giữ một tên Voloï Viktor nào đó, hắn bị bắt tại biên giới Tây Ban Nha. Ta phải đi Paris để nhận diện hắn. Không thể lột mặt nạ của con người này trên ảnh được. Hắn là một con tắc kè. Nhưng ta sẽ nhận ra được dù chỉ là động tác nhỏ nhất của hắn. Ta chỉ cách hắn có hai mươi xăng ti mét khi ta gặp hắn ở các nhà thờ.
- Cha đi Paris ư? Vango hỏi.
- Đúng. Ta chắc chắn đó không phải là hắn.
Vango quay về phía Zefiro.
- Đó là một cái bẫy để khích ta ra khỏi hang đây mà, linh mục giải thích. Viktor muốn xác minh là ta vẫn còn sống. Hắn muốn ta chết.
- Vậy cha đến đó làm gì?
- Vì nếu ta không đi, Boulard đã thề sẽ đưa quân đến tìm bắt ta vì tội không tố giác tội phạm, thông đồng với kẻ gian và tòng phạm buôn bán vũ khí, với tư cách là bạn và cha nghe xưng tội của Viktor trong hai năm 1919 và 1920. Nếu cảnh sát đến đây, tất cả các thầy dòng cũng sẽ mất mạng như ta.
Cả hai im lặng và lũ ong cũng thế.
- Còn con, Vango? Sao con biết cảnh sát trưởng Boulard? Con sợ gì ông ta?
Cậu cũng muốn được kể về cuộc đời mình như Zefiro. Một cuộc đời anh hùng trong đó mọi thứ đều có thật, ngay cả những vùng tối cũng có thể được soi sáng bằng vài từ ngữ.
Nhưng nếu có thể kể ra được, câu chuyện của Vango sẽ rơi tõm như những bó đuốc rơi xuống một cái giếng không đáy.
Zefiro chìa tay ra đỡ cậu dậy.
- Tạm biệt nhé, Vango. Ta đi đây. Ta sẽ sớm quay lại.
- Con đi với cha.