← Quay lại trang sách

Chương 23 NGÀY TẬN THẾ CỦA LŨ CHUỘT

Trung úy Avignon nhảy bổ vào phòng.

Khi nhìn thấy Ethel, anh ta cố lấy lại bình tĩnh. Anh ta quay về phía Boulard.

- Cảnh sát trưởng… Cảnh sát trưởng, ông ấy ở dưới…

- Ai cơ?

- Người… người… Người diệt chuột…

Ethel đứng dậy.

Boulard cố gắng giải mã. Ông nheo mắt.

- Người diệt chuột?

- Người… Người mà ông đang đợi…

Avignon nhìn chăm chăm viên cảnh sát trưởng. Cuối cùng ông ấy có hiểu ra không đây?

- Đúng, người mà ông đang đợi… Người mà ông yêu cầu…

- Lạy Chúa tôi, ông vừa nói vừa nhảy cẫng lên. Tôi đến ngay đây.

Ông đi ra cửa. Ethel sững sờ. Người thợ diệt chuột ấy không chỉ tạo quá nhiều ấn tượng với riêng cô.

- Việc khẩn. Tôi xin lỗi, cô gái. Tạm biệt nhé.

Ông nhờ Avignon tiễn cô. Rồi ông biến mất.

Khi đã ở bên ngoài, Ethel đi dọc theo bến đến tận cầu Mới, cô dừng lại giữa cầu, phía bên cửa hàng Samaritaine, dưới cây đèn đường. Cô trèo lan can và nhảy ra cái bờ nhỏ nhô ra sông Seine.

Cô ngồi thụp xuống.

Ethel buồn rười rượi nhìn nước chảy phía dưới. Gần cây cầu Nghệ thuật, đằng kia, mọi người đang bơi.

- Kể em nghe đi, Cá Nhám đề nghị, cô bé đợi cô ở đó.

- Chẳng có gì để kể cả.

Trong hầm ngầm ở Quai des Orfèvres, người thợ diệt chuột được đưa vào một căn phòng nhỏ, được chiếu sáng bởi cánh cửa tầng hầm.

Boulard bước vào rồi khóa cửa sau mình lại.

Họ nhìn nhau.

- Cảm ơn ông đã đến, cha Zefiro.

- Tôi không làm điều đó vì ông đâu.

- Tôi biết.

- Hắn đâu?

- Cuối hành lang, đi theo tôi.

- Chờ đã. Tôi muốn mọi chuyện rõ ràng. Một người duy nhất, ở đây, ngoài ông ra, biết tôi là…?

- Augustin Avignon. Tôi tin tưởng anh ta.

- Đó đã là một người thừa rồi đấy.

Boulard nhìn chiếc hòm Ngày tận thế của lũ chuột. Ông ấp úng:

- Ông sẽ không loại bỏ cậu ta chứ, Avignon ấy?

- Không. Nhưng tôi không muốn một nhân chứng duy nhất nào khác. Không một ai. Đối với tất cả mọi người, tôi vẫn là thợ diệt chuột.

- Đồng ý.

- Nơi chúng ta đến sẽ là trong bóng tối chứ?

- Đúng.

- Voloï Viktor không được biết tôi còn sống.

- Kẻ tình nghi bị đèn chiếu làm lóa mắt không nhìn thấy gì đâu. Không có rủi ro nào cả. Đó là trách nhiệm của tôi.

- Không. Đó là trách nhiệm của tôi. Tôi nắm trong tay cuộc sống của hàng chục con người. Nếu bọn chúng nhìn thấy tôi, tu viện của tôi sẽ bị đe dọa.

- Bọn chúng sẽ không nhìn thấy ông.

- Tôi sẽ chỉ nói với ông đó có phải Viktor không. Sau đó, tôi sẽ ký biên bản nhận dạng bằng một dấu thập và trở ra như lúc tôi đến.

- Bằng đường nào?

- Bằng cửa ra vào, thưa ngài cảnh sát trưởng. Chẳng lẽ những người thợ diệt chuột đều bay qua cửa sổ hết hay sao?

- Ông có lý, đúng đấy.

- Tôi muốn mọi thứ phải hoàn toàn bình thường. Thậm chí, các ông hãy mang tiền diệt chuột đến trả cho công ty Ngày tận thế của lũ chuột, Nhà Aurouze, phố Halles. Chúng ta không bao giờ biết được. Nhưng bọn người mà chúng ta đối đầu thì biết tất đấy, chúng theo dõi tất cả, bóc tách mọi giấy tờ, sổ sách.

- Đồng ý.

Zefiro tóm áo vest của Boulard và nói một cách nghiêm trọng:

- Nghe tôi nói này, ngài cảnh sát trưởng. Cha Zefiro chưa bao giờ đến đây, nhất trí nhé? Ông ấy chưa bao giờ qua đây vì ông ấy đã chết và đã được mai táng ngay trước đại dương, dưới những cây sồi xanh rì của tu viện Trắng. Thậm chí trong mộ còn có xương mua ở bảo tàng Nhân chủng học để chứng minh điều đó. Tôi không để bất kỳ điều gì tình cờ xảy ra được.

- Hiểu rồi, Boulard nói, ông bắt đầu nhận ra tính nghiêm trọng của vấn đề.

Trước đó ông cũng chỉ hình dung nó phức tạp đến mức bị chết là cùng.

Vị linh mục mở cái hòm ra và rắc một thứ bột hôi thối dọc tường.

- Ông làm gì đấy?

- Tôi diệt chuột, thưa ngài cảnh sát trưởng. Chứng tỏ ông đã hiểu gì đâu!

- Vâng, chắc chắn rồi, xin lỗi.

Zefiro thu dọn đồ nghề.

- Đi thôi. Trước tiên hãy kiểm tra xem hành lang có ai không. Rồi kiểm tra cái phòng mà chúng ta sẽ vào. Sau đó, quay lại tìm tôi.

Zefiro ở lại một mình một lúc. Ông hít thở thật sâu. Ông nhớ lại những cuộc hẹn với Voloï Viktor. Ông đã lừa được hắn suốt sáu tháng trời. Nhưng lần nào cũng vậy, khi ngồi trong cái lồng nhỏ của phòng xưng tội, trong nhà thờ Dolomites hay Bretagne và khi chờ đợi kẻ xưng tội gớm ghiếc của mình đến, ông chỉ chực cảm thấy một mũi tên cắm phập vào tim mình qua song cửa. Ông đang đùa với tính mạng mình trong từng phút giây.

Ông đã ngỡ sẽ không còn phải sống lại cái cảm giác ấy nữa và rằng những mũi tên duy nhất đe dọa ông lúc này chính là mũi tên của những nàng ong vàng Arkudah.

- Lại đây, không có ai đâu, Boulard vừa nói vừa đẩy cửa.

Zefiro xách chiếc hòm đi theo cảnh sát trưởng. Khi đến sau tấm kính, ông nhìn thấy ngay lập tức gã đàn ông bị trói vào ghế. Ông cảm thấy như có một loạt đạn lạnh toát găm dọc sống lưng.

Ông chỉ chờ đợi nhìn thấy một con mồi, một gã đàn ông được đưa đến thay Viktor để nhử ông.

Nhưng đúng hắn rồi. Đích thị hắn rồi.

Voloï Viktor đã quyết định đích thân trở thành con mồi.

Trong bóng tối như bưng, Auguste Boulard không thể phát hiện gì về phản ứng của linh mục.

- Đúng hắn chứ? Boulard thì thào.

Trên ghế, Viktor vẫn giữ nụ cười đáng sợ.

- Chính hắn, Zefiro trả lời.

Họ bất động mất bảy hay tám giây gì đó. Những giây ngắn ngủi đó Zefiro sẽ tiếc nuối mãi mãi. Nếu trở ra ngay, nếu ông rời đi, có lẽ mọi thứ sẽ khác.

Trước khi vị thầy tu và cảnh sát trưởng kịp làm gì, Voloï Viktor đã ưỡn người, hất gáy ra đằng sau, và bằng một cú đánh đầu mạnh như quái vật, hắn đập vào cái chao đèn chiếu sượt tóc hắn. Chùm ánh sáng vọt lên trước mặt hắn theo chiều thẳng đứng y như một chiếc đu quay và ngẫu nhiên quét qua bóng tối. Nó xoay tròn và khi lắc đến lần thứ hai, chiếc đèn chiếu sáng khuôn mặt của Zefiro, với độ chính xác như ánh đèn flash của một tay thợ chụp ảnh.

Hình ảnh khuôn mặt bị ánh sáng làm lóa ấy in trong mắt Voloï Viktor.

Hắn bất động. Một chút máu chảy ra từ chân tóc hắn.

Môi Viktor mấp máy. Và nếu chiếc đèn chiếu soi vào hắn, người ta có thể đọc được trên môi hắn lời một bài ca được Nina Bienvenue hát ở Monmartre và được tất cả hát theo vào năm đó:

Chào mừng bạn đến Paris…

Hạnh phúc thay khi biết bạn còn sống…

Đó là một bài hát kể lại cuộc trở về từ chiến tranh của một người lính được mọi người yêu mến, nhưng từ miệng của Viktor, đó lại là lời kết tội chết dành cho Zefiro.

Cha Zefiro kêu lên, ông chộp lấy cổ Boulard và lôi xềnh xệch ra ngoài hành lang.

Zefiro gí Boulard vào tường gạch lắp bắp:

- Ông đã thề với tôi… Ông đã thề sẽ không gây ra cho tôi bất kỳ rủi ro nào cơ mà…

Boulard trắng bệch.

- Tôi không hiểu những gì đã xảy ra. Thật thế. Avignon đã kiểm tra tất cả.

Zefiro thả Boulard ra.

- Đi đi, Boulard nghẹt thở nói. Ông đừng lo. Chúng tôi giam hắn mà. Chúng tôi sẽ không thả hắn ra. Sẽ không có ai liên lạc với hắn. Không ai biết ông còn sống đâu.

- Đó là những gì ông nói thôi.

- Hắn sẽ chết rũ cả đời trong ngục tối, ông…

Tiếng chuông inh ỏi vang lên.

- Cái gì vậy? Zefiro hỏi.

- Tín hiệu báo động. Tôi… Tôi không còn hiểu gì nữa. Có lẽ ai đó đã đột nhập trái phép vào sở. Họ sẽ phong tỏa hết các cửa ra vào.

Điên tiết, Zefiro đá một phát vào chiếc vali Ngày tận thế của lũ chuột, rồi nói với Boulard:

- Tôi khuyên ông không nên để Viktor thoát. Nếu không, ông sẽ phải trả giá suốt đời vì điều đó.

Ông bỏ chạy. Ông không còn là người thợ nhỏ bé đáng kính, sẵn sàng ra bằng cửa chính nữa. Ông lại là Zefiro, một kẻ lén lút.

Ông sẽ phải rời hiện trường như một con chuột.

Khi đi qua trước chợ chim, Ethel và Cá Nhám dừng lại. Ethel vừa nhìn thấy chiếc xe nhỏ màu đen của công ty Ngày tận thế của lũ chuột, thành lập năm 1872. Cô lại gần, nhìn vào bên trong qua cửa kính đóng im ỉm. Không có ai.

Cô rất muốn gặp lại người đàn ông trong phòng chờ.

- Chị làm gì đấy? Cá Nhám hỏi.

- Chị muốn chào một người bạn.

Chiếc ô tô hòm hơi vướng lối đi. Những người giao hàng trong chợ để lại trên kính che gió một loạt câu chửi được viết ra bằng chữ vì họ không có cơ hội nói bằng miệng… Một truyền thống lâu đời của người Paris, lâu đời như phát minh ra bánh xe vậy.

Ethel cầm tờ giấy, gạch một đường và, cô tủm tỉm cười viết lên câu hỏi mà cô đã nhắc lại ba lần. “Người là ai?”.

Rồi cô ký tên mình: “Ethel.”

Cá Nhám nhìn cô để tờ giấy vào chỗ cũ.

Rốt cuộc, Cá Nhám cũng gặp được một người còn khó lường hơn cả mình. Lúc nào Ethel cũng làm cô ngạc nhiên. Sự có mặt nhiều lần của cô gái người Scotland bên cạnh khiến cô bỗng nhiên cảm thấy mình thật có lý khi đã so sánh. Cảm giác này làm cô thích thú. Cá Nhám cảm thấy mình đúng mực nhất trong nhóm hai người này. Điều này làm cô lớn lên trông thấy.

Cô thậm chí còn kể với Ethel rằng cô có một vị hôn phu tên là André. Cô không nói thêm nữa để khỏi phải khai cụ thể rằng anh ta thậm chí còn chẳng biết đến sự tồn tại của Cá Nhám, rằng trên thực tế anh ta tên là Andreï, rằng anh ta làm theo mệnh lệnh của Boris Petrovitch.

Hai cô gái trẻ quyết định đồng tâm hợp lực để tìm cho ra người đã làm cho hai con đường của họ giao nhau: Vango.

Trung úy Avignon tìm thấy sếp của mình đang sắp lên cơn thần kinh.

Boulard vừa đi qua sân vừa ợ hơi.

- Ai bật báo động?

Khách ngoài phòng đợi bị tập trung vào một nhà kín để kiểm tra lần nữa. Không ai được ra ngoài. Cả những người làm vệ sinh đang thu gom thùng rác ở căng tin cũng bị nhốt lại. Mùi hôi thối bốc lên trên vệ tường, lan tỏa vào phòng làm việc. Đúng là ô nhiễm.

- Tôi hỏi ai đã bật báo động!

- Là tôi… Avignon nói.

- Cậu á? Avignon?

- Có ai đó trong phòng của ông, viên trung úy vừa tiếp tục vừa bịt mũi. Chính pà Darbon đã nhìn thấy.

- Ai?

- Pà Darbon.

- Đừng có bịt mũi nữa, đồ ngu si!

- Bà Darmon.

- Hắn có lấy gì không?

Mười ngày trước, một hồ sơ vô thưởng vô phạt về vụ Vango Romano đã biến mất không lời giải thích. Đó là hồ sơ liên quan đến nhân chứng Cá Nhám.

- Tôi cho rằng hắn không mang gì đi.

- Thậm chí không cả Darmon?

- Thậm chí không, Avignon nói mà không dám cười.

- Thật tiếc. Nói với Darmon là tôi đợi bà ấy trong phòng làm việc.

Bà Darmon còn ba tháng nữa là nghỉ hưu. Bà là thư ký của cảnh sát trưởng. Bốn mươi bốn năm nay, ông vẫn tự xoay xở ngon lành mà đâu cần đến bà. Ông chưa bao giờ biết giao việc cho bà thế nào. Vì thế bà cứ chơi ô chữ, đọc tiểu thuyết tình cảm ủy mị và thư tình suốt bốn mươi bốn năm lẻ vài tuần nay.

Bà Darmon bước vào phòng cùng với búi tóc bốn tầng và gót giày cao chót vót.

Bà ngồi xuống trước mặt cảnh sát trưởng.

- Hắn trông thế nào? ông rống lên.

- Rất đẹp, bà vừa trả lời vừa chớp chớp hàng mi. Rất trẻ.

- Nhưng còn gì nữa?

- Có học thức.

- Hắn không làm gì cô đấy chứ?

- Không, bà nói với chút tiếc nuối.

- Hắn ra bằng lối nào?

- Bằng lối này.

Bà chỉ ô cửa sổ. Đó là một cửa sổ bên hông, nhỏ, trông ra một cái sân con dùng làm giếng trời cho vách kính ở tít phía dưới. Cửa sổ phòng Boulard là cái duy nhất trên bốn bức tường của cái sân nhỏ đó. Những bức tường phẳng lì.

- Có dây rợ gì không? cảnh sát trưởng hỏi.

- Không. Hắn nhảy lên tường đối diện rồi cứ thế leo.

Avignon và Boulard liếc mắt nhìn bức tường, phẳng lì như bánh xà phòng, cách cửa sổ chừng ba hay bốn mét gì đó và cách mặt đất chừng mười lăm mét.

Avignon đóng cửa sổ lại, nôn nao vì mùi rác rưởi đang luồn lách khắp nơi.

- Được rồi, được rồi… Boulard nói nhẹ nhàng.

Ông trao đổi ánh mắt với Avignon. Bà Darmon có một trí tưởng tượng rất mãnh liệt. Một hôm, bà kể rằng diễn viên Clark Gable tới khu vườn nhỏ ở Bagnolet của mình đúng vào giờ khai vị để chơi một ván bóng chày.

Boulard đi đi lại lại trong phòng. Đống tài liệu không hề xê dịch. Mọi thứ dường như vẫn ngăn nắp. Ông nói với viên phụ tá của mình bằng giọng ngọt xớt:

- Và ngài Avignon đã khiến cho cả tòa nhà nháo nhào lên chỉ vì cô Darmon có cuộc gặp gỡ tình tứ trong phòng làm việc của tôi với một anh chàng trẻ trung, đẹp trai dính chặt vào tường. Đúng thế không nhỉ?

- Tôi cứ tưởng rằng…

- Ra ngay! ông gào lên. Ra ngay lập tức!

Avignon và Darmon ra khỏi phòng lúc Boulard lẩm bẩm:

- Quý cô, cô sẽ báo với tôi nếu tên trộm trèo tường viết thư cho cô khi cô về nghỉ hưu ở Bagnolet nhé…

Bà Darmon dừng lại.

- À ừ, tôi suýt quên. Tôi có cái này cho ông đây.

Bà thọc ngón tay vào áo con và miễn cưỡng lấy ra một tờ giấy gập tám.

- Hắn để lại cho tôi cái này để gửi ông.

Boulard nhào tới và mở ra.

Bức thư ký tên Vango Romano.

Quần áo Vango hầu như không bị nhàu.

Cậu vừa thoát ra bằng mái Tòa án, và trườn xuống dọc nhà thờ Sainte-Chapelle.

Một thẩm phán trẻ nhìn thấy cậu trượt đứng trước cửa sổ của mình, một người khác còn được Vango khẽ ra hiệu xin lỗi vì đã làm phiền. Ngượng ngùng vì ảo giác ấy nên không ai kể chuyện đó ra.

Vango ra khỏi chợ chim một lúc sau khi Ethel biến mất nơi góc phố.

Trong một thế giới hoàn hảo, có lẽ người ta sẽ mơ rằng một bàn tay nhân từ nào đó sẽ hóa phép một kẻ đi chậm lại và kẻ kia đến nhanh hơn để cùng một lúc, họ gặp nhau trước cái xe hòm màu đen Ngày tận thế của lũ chuột. Trong một thế giới hoàn hảo, sẽ có tiếng nhạc ở phía xa xa và tia nắng mặt trời chiếu trên vỉa hè.

Nhưng thậm chí trong một thế giới hoàn hảo, nên chăng tách hướng đi cho hai mảnh đời ấy, coi họ như những con tốt mà người ta có thể đẩy lên trước hoặc đẩy về sau chỉ để thích thú chứng kiến cảnh hội ngộ quay chậm sau này?

Vango một mình bước lên xe.

Mọi việc diễn ra không như dự tính. Vango đã nói dối Zefiro. Từ khi rời quần đảo Eolie, cậu đã có một kế hoạch bí mật. Rốt cuộc, cậu cũng muốn nói chuyện với Boulard để giải thích với ông tất cả những gì cậu biết và mở ra cho ông những manh mối khác ngoài cậu. Với sự có mặt của Zefiro, cậu không sợ gì cả. Cảnh sát trưởng Boulard sẽ nghe cậu nói.

Ở lối vào, người ta cản không cho cậu qua. Cậu vờ như cam chịu. Cậu vào bằng đường mặt tiền và mái nhà.

Nhưng Boulard và Zefiro lại không ở trong phòng.

Cuối cùng cậu đành phải gửi bức thư viết vội cho bà thư ký nhìn cậu một cách hiền từ trước khi kêu báo động.

Vango khởi động xe.

Nếu mọi chuyện trở nên tồi tệ, cậu nhận mệnh lệnh là không chờ Zefiro. Họ sẽ gặp nhau sau, tại một nhà ga.

Một mẩu giấy xòe ra trên kính ô tô. Vango ra khỏi xe lấy nó xuống. Ngồi vào vô lăng, trong tiếng ồn ào của động cơ, cậu đọc lướt nó.

Y như mười sáu quả bóng hyđrô của Khí cầu Graf đang nổ từng quả trong lồng ngực cậu.

Vango đọc được ba từ nhắc đi nhắc lại nhiều lần và một cái tên. Những từ sẽ làm thay đổi cuộc đời cậu. Cái tên đã ở trong lòng cậu từ năm mười bốn tuổi. Những từ ngữ và cái tên ấy có một phần tỷ may mắn khi nằm trên tờ giấy ấy, ở nơi đây và vào lúc này.

Người là ai?

Người là ai?

Người là ai?

Ethel.

Chính tối hôm đó, giữa đêm khuya khoắt, trong khu chứa rác Sainte-Escobille, ở cửa ngõ Paris, một chiếc xe ba gác của người dọn vệ sinh đang đổ lên núi rác thải. Một anh công nhân lấy xiên moi nốt phần rác còn lại.

- Ông là người cuối cùng đấy, anh ta nói với ông già đội mũ bon nê đẩy xe ba gác.

- Họ giữ chúng tôi bốn tiếng đồng hồ ở sở cảnh sát. Họ khóa hết các cửa ra vào. Tôi chẳng hiểu chuyện gì xảy ra cả. Tôi về ngủ đây.

Người công nhân giúp ông xếp xe ba gác cùng những chiếc khác.

- Tạm biệt.

- Tạm biệt.

Không gian yên tĩnh trở lại.

Chỉ còn nghe thấy tiếng chin chít của lũ chuột.

Lúc sau, một khối hôi thối bắt đầu động đậy. Một người đàn ông chui ra và đứng dậy. Ông đá vào một con chuột, lấy tay xoa bộ mặt lấm lem dầu của mình.

- Lạy Chúa tôi, người này nói.

Vài tiếng trước, ông còn mang trên chiếc vali của mình dòng chữ “vệ sinh và diệt chuột”… Zefiro đã trốn thoát thành công.

Ông tìm chiếc đồng hồ trong túi áo vest. Còn kịp đi gặp lại Vango ở ga Austerlitz.

Khi bước ra và đi dọc bức tường của khu chứa rác, ông không thể hình dung được rằng, đằng sau ông hai mươi lăm mét, ông già đội mũ bon nê ban nãy đang bám theo ông giữa lúc trời nhá nhem.