PHẦN BA - Chương 24 KẺ SỐNG SÓT
Sotchi, vài ngày sau, tháng Tám năm 1935
- Setanka! Em không muốn chơi nữa.
Setanka không trả lời. Cô trốn trong bụi cỏ cao, trên đụn cát, ngay phía trên đầu mọi người.
Cậu bé tìm cô gần một tiếng đồng hồ rồi. Cậu sắp phát khóc.
- Nói với em chị ở đâu đi!
Tại sao, càng ngày Setanka lại càng không muốn đi dã ngoại hè bên bờ biển Đen nhỉ? Trong trò chơi trốn tìm không có hồi kết, cô để cậu em họ bé nhỏ đi sượt qua mà không nhìn thấy mình.
- Setanka, Setanotchka…
Nằm dài suy nghĩ, cô nhận ra mấy con châu chấu đang bò trên da. Cô nhìn những dáng hình nhỏ xíu đang ngồi thành từng nhóm dưới ánh nắng mặt trời.
Có quá nhiều người, y như trước kia. Ông, bà, bác Pavloucha, vợ chồng Redens và con cái, chú Aliocha Svanidze và dì Maroussia đang hát opera… Setanka chỉ cần xoay người một chút là nhìn thấy cha, dựa vào một cái cây khô, lơ mơ ngủ trong lúc nói chuyện với một người đàn ông cô không quen. Xung quanh, những bàn chân lẫn trong đám cây bấc hoặc ở dưới nước, một đống vệ sĩ đang giám sát cái thế giới nhỏ bé này.
Đến tận sáu tuổi, khi mẹ còn sống, những bữa trưa trên cỏ đối với Setanka vẫn là một niềm hạnh phúc tuyệt đối. Những bài hát vui hơn, mặt trời dường như rạng rỡ hơn và những câu nói hiền từ của bác Pavloucha quỳ gối thì thầm vào tai cô bé không buồn như hôm nay. Cuối tháng Tám, lúc phải trở lại Mátxcơva để vào năm học mới, đó là cảm giác nhớ đến nao lòng khi rời khỏi ngôi nhà nghỉ ở Sotchi.
Lúc này, mặc cho những trận cười nghiêng ngả khi nghe ông bà cãi vã triền miên, mặc kệ những khúc nhạc sớm của dì Maroussia, trên bầu trời mùa hạ này, vẫn có một nỗi sợ hãi không gì giảm bớt được.
Mới gần chín tuổi, Setanka không thể biết được nỗi sợ hãi ấy từ đâu ra, nhưng cô bé cảm nhận được nó ở khắp nơi, nó bám còn chặt hơn cả chiếc váy trên bờ vai ướt đẫm mồ hôi của cô.
Thỉnh thoảng cô nghĩ đến những người bỗng nhiên không đến nhà cô nữa và không ai nhắc đến họ nữa. Họ đi đâu, anh Kirov đẹp trai và tất cả những người khác? Họ đi đâu cả rồi?
Cô không hoài nghi về việc bố cô, người làm cho nỗi sợ hãi bao trùm cả nước, người vừa gây ra nạn đói ở Ukraina, sẽ không chừa gia đình mình ra. Vài tháng sau, Aliocha và Maroussia có lẽ cũng sẽ bị bắt, bác Pavloucha sẽ chết trong phòng làm việc vì một cơn đau tim lạ lùng, rồi đến lượt cậu Redens, bị đăng lính năm sau, vợ cậu thì bị đi đày…
- Tại sao chị không xuất hiện, em tìm chị một tiếng đồng hồ rồi đấy.
Cuối cùng cậu bé cũng tìm thấy Setanka. Cậu che đi những vệt nước mắt khô trên má.
Setanka chìa tay kéo cậu bé lại. Cậu ngồi thụp xuống cạnh cô.
- Em có dũng cảm không? cô thì thào.
- Có ạ, cậu bé trả lời, hơi lo lắng.
- Vậy, đi theo chị, Setanka nói.
Chúng bắt đầu trườn giữa đám cỏ. Setanka bò trước. Cô bé lớn tuổi hơn. Không ai để ý đến hai con rắn bé xíu đang bò trên đụn cát. Vì bò lê nên cậu bé bị bầm xanh ở đầu gối và khuỷu tay.
- Đừng bò nhanh quá, cậu nói.
- Xuỵt, không được nói… Chúng ta đang đến gần.
Hai đứa trẻ luồn ra sau một thân cây nằm nghiêng. Phía trước, chúng nghe thấy tiếng nói.
Chúng vừa đến phần ngọn cái cây khô nơi bố Setanka đang ở đó. Chúng nghe ngóng.
Ai đó nói về một “tin tốt lành” và ngay sau đó, Setanka nghe thấy từ cô hằng biết bao mong đợi.
- Chim…
Tim cô giật thót.
- Chim xuất hiện ở Paris, người đàn ông nói. Hắn gửi một bức thư cho cảnh sát.
Setanka áp mặt lên đất. Cô nghe thấy cha nói vài từ khó hiểu.
- Không ạ, người đàn ông trả lời. Họ không tóm hắn.
Một bầu không khí im lặng nặng nề.
- Đấy hả, tin tốt lành của anh đấy hả, đồng chí?
- Trong thông điệp của mình, tên đào tẩu giải thích với cảnh sát rằng hắn bị truy đuổi nhưng hắn không biết ai truy đuổi mình và tại sao…
Lại im lặng. Bên mép nước, dì Maroussia đang hát.
Setanka nằm rạp xuống hơn nữa khi nghe thấy cơn giận lạnh lùng của cha:
- Và anh sẽ tự cho mình thêm một cơ hội nữa à?
Người kia ấp úng:
- Thưa đồng chí, tôi đã đọc được cả bức thư…
- Nó bịa đặt đấy, bức thư ấy, thật ngu xuẩn!
- Nhưng…
- Tạm biệt.
Setanka nghe thấy tiếng quần áo sột soạt, cô lại nằm rạp xuống thêm, vùi mặt cậu em họ vào cỏ.
- Tìm cho ra hắn.
Vị khách vừa đứng dậy.
- Xin lỗi vì đã làm phiền, đồng chí.
Staline để anh ta đi. Rồi ông huýt sáo gọi anh ta.
- Anh từng nói với tôi về người phụ nữ đã nuôi hắn. Anh gọi cô ta là gì nhỉ?
- Người nuôi chim. Cô ta không nguy hiểm, ở đó, nước Ý, ai cũng nói cô ta chẳng nhớ gì cả.
- Hãy để cô ta ở đâu đó, nơi cô ta không còn là mối bất trắc đối với chúng ta nữa.
- Đồng chí muốn…
- Đúng, tôi muốn.
- Đồng chí…
- Mang cô ta đi! Và hãy mở mắt ra. Đây có thể là lúc Chim lựa chọn để xuất hiện đấy. Quan tâm đến kiểu đàn bà này nhiều quá rồi đấy.
Setanka nghĩ tới người vú nuôi yêu quý của cô, Alexandra Andreïevena, người đã chăm sóc cô tận tình kể từ lúc cô mới chào đời. Khi mẹ mất, Setanka được sự dịu dàng của Alexandra cứu rỗi.
- Vụ như thế, ở nước ngoài…, người đàn ông rụt rè vặn vẹo.
- Hành động một cách sạch sẽ.
- Tôi cho rằng…
- Tự lo liệu người phụ nữ ấy và đừng có làm phiền tôi vào Chủ nhật nữa.
Setanka và cậu em họ nấp một lúc lâu trong im lặng. Đang lúc chúng gần như đã ngủ gật, hai mắt lim dim giữa đám cây cỏ thì chúng cảm thấy một cái bóng sừng sững phía trên và nghe thấy tiếng gầm gừ đáng sợ của một con gấu.
Chúng hét lên, lăn sang bên cạnh.
Con gấu sặc mùi thuốc lá. Nó có đôi mắt màu nâu của bác Pavloucha. Nó cũng có cả cẳng chân dài, bộ quần áo màu cát do một nhà may xịn ở Berlin cắt và cả nụ cười buồn buồn của bác nữa.
Hai đứa trẻ nhảy lên ông bác, người đã khiến chúng sợ hết hồn.
Trò chơi sẽ không kéo dài. Đó chỉ là ý định vớt vát của Pavloucha nhằm nhắc bọn trẻ nhớ đến kỷ niệm về những mùa hè trước, khi ông làm gấu hoặc khi ông vui sướng vứt mẹ của Setanka xuống nước.
Phía bên kia cái cây khô, bố Setanka nhìn Pavloucha và những đứa trẻ đang nằm dài ra đất.
Trong vài tiếng nữa, lệnh bắt cóc bảo mẫu của Vango và để cô vĩnh viễn tại một nơi an toàn sẽ được truyền đi.
Salina, quần đảo Eolie, cùng lúc đó
Ngay khi bước qua cửa, Cô đã biết có ai đó đã vào trước Cô. Khi người ta sống một mình, mọi đồ vật đều trở nên rất quan trọng. Mắt đã quen nhìn chúng. Chúng ở đúng chỗ người ta đặt và một thay đổi nhỏ nhất, giống như dấu chân trên mặt trăng, cũng làm người ta băn khoăn.
Cái tách trên bàn đã thay đổi vị trí. Nó không chỉ xê dịch ít nhất một ngón tay, mà còn xoay nửa vòng. Và nửa vòng xoay ấy là điều đập vào mắt cô nhanh nhất. Cái chén xoay nhẹ làm cô giật mình y như tiếng tù và báo hiệu vang lên giữa bầu không khí tĩnh lặng của hòn đảo.
Điều quá đáng nhất là cái quai duy nhất trên tách quay về bên phải. Người khác có quyền cho đó là chuyện vặt, nhưng đối với Cô, đó là một vụ động đất. Cô thuận tay trái, không bao giờ cô cầm tách bằng cả bàn tay. Vì thế không thể có chuyện cái tách lại ở tư thế ấy mà không có sự can thiệp của kẻ lạ… Một kẻ lạ thuận tay phải, hoặc tệ nhất, một kẻ lạ mặt thuận tay trái nhưng không được giáo dục tử tế nên thường không cầm tách cà phê bằng quai.
Cảnh giác, cô không muốn tỏ vẻ gì ngạc nhiên. Cô chỉ đi về phía bồn rửa bát bằng đá cùng giỏ nụ bạch hoa tươi.
Cô đoán một ngày nào đó chúng sẽ quay trở lại. Lần trước, chúng không thấy những gì cần tìm. Lần này, chúng sẽ không cho cô cơ hội.
Cô bắt đầu chọn nụ bạch hoa. Cô thích ăn những nụ to nên để dành sang một bên, và những nụ bé bán được đắt hơn.
Nụ bạch hoa là nụ của cây bạch hoa. Cô xếp thành hai đống trên một tấm ván rắc muối trắng tinh. Đang là cuối vụ. Cô lúc nào cũng chừa lại trên đồi một hàng không hái nụ để được ngắm những bông hoa trắng nở rộ. Những bông hoa ấy chỉ tươi được một ngày. Một trong số những bông ấy được cài lên tóc cô ngày hôm đó.
Cô quay lưng vào phòng. Cô không muốn bỏ trốn.
Khi về đến nhà, cô không thấy Mazzetta ở trong hang. Cô thậm chí còn rảo bước vì sợ anh ta phát hiện ra sự điệu đàng của bông hoa.
Bác sĩ vẫn đề nghị cô đến nhà ông ở nếu còn sợ kẻ xấu viếng thăm. Cô trả lời cô chẳng sợ gì cả.
Đúng thật, cô chưa bao giờ sợ gì mà chỉ lo cho Vango. Và giờ đây, cậu đã bay mất, Cô cảm thấy một cảnh bình yên đầy đau khổ.
Bí ẩn về sự vắng mặt của Vango, về sự im lặng của cậu, thỉnh thoảng lại khiến cô thao thức vào ban đêm. Cô nói chuyện với cậu một chút, như thể cậu vẫn nằm trên chiếc giường bé ở góc phòng. Cô kể chuyện cho cậu nghe. Cô nói với cậu về một con tàu to, màu trắng, lung linh ánh sáng, đi khắp các vùng biển. Hàng chục con cá heo cứ lẽo đẽo theo sau nó.
Giọng cô đứt quãng cuối mỗi câu.
Cô thường chẳng kết thúc được những câu chuyện của mình.
Nhưng mỗi năm một lần, Vango lại báo cho cô biết cậu còn sống và vẫn khỏe. Một lá thư, sau ngày lễ Phục sinh. Mấy nét nguệch ngoạc vụng về cô đã quen thuộc. Đó là tất cả những gì cô mong muốn.
Cô luồn tay xuống dưới bồn rửa bát.
Cô không nhầm. Cô vừa nhìn thấy ánh phản chiếu trong màu trắng của bức tường ốp sành xốp. Có ai đó ở sau cô. Một bóng đen vừa ra khỏi phòng ngủ rồi đi vào căn phòng nơi cô đang đứng.
Dưới tấm đá của bồn rửa bát có giấu một con dao quắm nhỏ. Cô cầm nó trong tay. Lưỡi dao mỏng và sắc như cỏ.
Cô dồn hết can đảm có thể có được. Tay trái cô vẫn tiếp tục lựa nụ bạch hoa trong khi tay phải đang siết chặt con dao.
Hắn không động đậy. Cô hát lầm rầm. Đó chỉ là một cái bóng lờ mờ trong cửa kính nhưng cô vẫn nhận ra hắn không quá cao to.
Ánh phản chiếu giống như một nét cọ vẽ, vai hẹp. Có thể hắn còn khá trẻ hoặc do đứng hơi chênh chếch.
Cô có thể hạ gục hắn.
Cô phải làm điều đó. Hay đời cô sẽ tàn trước khi đời bông hoa này tàn.
Cô đợi. Hắn còn cần tiến gần một chút nữa.
Cô quyết định nói với hắn mà không quay đầu lại, để hắn có thời gian lại gần cô. Cô hỏi hắn bằng tiếng Nga:
- Anh không có được cậu ấy đâu. Tôi biết những gì cậu ấy đã trải qua.
Cô còn nói thêm những từ lạ lùng:
- Cậu ấy có sức mạnh của những kẻ thoát chết.
Phía sau cô, cái bóng hơi nhúc nhích và dựa vào tường, như thể nó đang bị chuệnh choạng.
- Anh sẽ không có được cậu ấy đâu! cô kêu lên.
Bằng một cú nhảy, người đàn ông lao tới.
Cô vung cánh tay phải lên rồi đột ngột quay lại. Bông hoa trắng trên tóc cô rơi xuống. Lưỡi dao chém vào không khí, nhưng không chạm vào vị khách, hắn tránh được cô rồi kêu lên:
- Cô ơi!
Những ngón tay của người bảo mẫu buông ra. Con dao cắm phập vào mặt bàn, chặt đứt bông bạch hoa.
Người phụ nữ mở choàng mắt.
Chính cậu. Kẻ thoát chết.
- Vango! Evangelisto! Vango!
Cậu quỳ gối trước mặt cô.
- Cô ơi!
Cậu ôm lấy eo cô.