← Quay lại trang sách

Chương 26 CHUYỆN NGỒI LÊ ĐÔI MÁCH CỦA QUỶ BELZEBUTH

Arkudah, 20 tháng Chín năm 1935

Một ngày, khi đi ngang phía trên dải rừng rậm giữa biển Rio de Janeiro, Braxin, khí cầu bay rất sát ngọn cây, đến nỗi Vango có thể chộp lên một con khỉ nhỏ, có món tóc mai cong cứ nhìn cậu mà không hiểu gì.

Con khỉ, bị kéo đuôi lên tận tầng mây xám ấy, tự hỏi nó đang ở đâu. Nó trốn vào đống xoong nồi của đầu bếp Otto. Vài giờ sau, nó đã trở thành đứa trẻ được cưng chiều của phi hành đoàn và hành khách.

Trên chặng về, khi bay qua Rio một lần nữa, Vango đã thả nó lên những cành cây nhằng nhịt dây leo trên quả núi hình nón nhô ra vịnh.

Marco, thầy dòng nấu bếp của tu viện vô hình, giống y xì đúc con khỉ đó. Anh ta bắng nhắng nhảy từ đầu này lại đầu kia bếp lò với ánh mắt sợ sệt vờ vĩnh, nhưng giấu trong đó là cả một kho trò tinh quái.

Đang là mười một giờ.

Marco nói với Vango trong bếp tu viện.

Chiếc tạp dề của thầy dòng Marco được may bằng vải dầu phủ bàn ăn trong nhà hàng bình dân của cha anh ta ở Mantoue. Anh đi một loại giày múa màu hồng, phù hợp với điệu ba lê trong bếp. Ngón tay anh lúc nào cũng lòe loẹt gia vị. Anh xắn tay áo rồi kẹp lại bằng những chiếc thìa nhỏ gập đôi trông như cái cặp.

Cuối cùng, trên trán anh là một cặp kính đã tã, cuốn dây và băng dính, cặp kính mệt lử, rã rời, kiệt sức, vá chằng vá đụp y như chiếc xe đạp đã dám tham gia giải Vòng quanh nước Pháp với một cô bò sữa trên giá đèo hàng.

- Vậy là Zefiro không đến chỗ hẹn với cậu ở ga Austerlitz à? anh vừa hỏi vừa đảo mắt về phía Vango.

Marco không bao giờ nói mà tay không cầm thứ gì.

Lần này, mặc dù tình hình nghiêm trọng, anh vẫn quăng lên quật xuống một con cá.

- Cha Zefiro có đến, Vango nói.

- Thế ông ấy đâu? Ông ấy đâu?

Giọng anh bứt rứt. Thầy dòng Marco chịu trách nhiệm quản lý tu viện vô hình từ khi Zefiro đi. Anh nóng lòng muốn trả lại chìa khóa cho chủ nhân của nó.

- Thế ông ấy đi đâu rồi? Marco nhắc lại.

Trên tay anh, con cá tội nghiệp đã trải qua mười lăm phút tồi tệ.

Vango vừa về đến tu viện. Cậu để Cô lại ngôi nhà Pollara. Cô suy sụp trước khi kết thúc câu chuyện của đêm hôm trước. Cậu đặt cô nằm lên giường.

Rồi cô cầu xin Vango thứ lỗi và hứa với cậu sẽ kể nốt vào ngày hôm sau.

- Ta xin cháu đấy, Vango của ta. Ta sẽ nói với cháu những gì ta biết.

- Thế còn bố cháu? Chỉ trả lời cháu câu đó thôi vậy… Có phải bố cháu cũng…?

Mắt cụp xuống, đẫm lệ, cô gật đầu.

Vango, gục mặt xuống gối rất lâu trước khi có thể đứng dậy. Lúc này, cậu đã biết rồi.

Cuối cùng cậu đã mở được cánh cửa vào quá khứ. Nó mở ra trong sự lẫn lộn giữa niềm an ủi và nỗi đau. Đối với cậu, mọi nỗi buồn đều tốt hơn sự hoài nghi.

Vango mường tượng rõ hơn một chút về cái thế giới mà từ đó cậu xuất hiện.

Cậu còn phải tìm hiểu điều quan trọng nhất: những tháng năm trước đó. Câu chuyện về cha mẹ cậu trước cái đêm bão tố đó. Họ từ đâu đến? Họ đi đâu? Cô phải biết điều đó.

Cô không nói gì với cậu về ba tên cướp biển, những kẻ chắc chắn đã lớn lên trên quần đảo này. Chúng đã kiếm chác được gì từ tội ác của chúng? Có cái gì đó lấy được trên con tàu đó không? Mười bảy năm đã trôi qua. Có lẽ giờ đây chúng đã chết rồi. Có thể không.

Đừng phí thời gian vào việc trả thù.

Từ nay trở đi, đối với Vango, điều răn ấy không còn nghĩa lý gì nữa.

Vango, rã rời, hứa với Cô sẽ trở lại vào đêm hôm sau, rồi cậu rời thôn Pollara. Cậu phải mang một tin đau buồn đến với tu viện vô hình.

- Cháu sẽ nói sự thật, thầy dòng Marco. Cháu đã nhìn thấy cha Zefiro ở ga Austerlitz, nhưng cha và cháu không đi cùng nhau.

- Tại sao? Marco vừa nói vừa mở bếp lò đun củi. Tại sao lại làm cái việc ngốc nghếch đến như vậy?

Một giỏ rau thơm tươi, to tướng đang tỏa ngát căn phòng.

Thầy dòng Marco nhấc con cá lên bằng đôi bàn tay khỉ macao bé nhỏ của mình.

Vango nhận thấy người đầu bếp ấy luôn nhìn vào mắt con vật trước khi bỏ lò chúng. Đó là lời vĩnh biệt thoáng qua dành cho những người anh em có vảy, có lông hoặc có cánh mà anh ta chế biến không thương tiếc.

- Đã xảy ra điều gì đó bất thường, Vango tiếp tục.

- Cho tôi xin ít muối.

Cậu đưa muối mà không nói gì. Khi bắt gặp ánh mắt cậu, Marco kêu lên:

- Có chuyện gì vậy? Tôi biết là cậu thấy tôi cho nhiều muối mà! Rồi sao nữa? Tôi không phải là thần thánh gì đâu nhé! Tôi chỉ bếp núc gia đình thôi!

Marco không giữ nổi bình tình nữa. Vango trả lời:

- Cháu có nói gì đâu, thầy dòng Marco.

- Cậu nghĩ nhiều quá đấy! Ông ấy đâu, cha đâu? Ông ấy đâu?

Rồi anh bỏ thêm hai thanh củi vào lửa để chứng tỏ sự bực tức của mình với Vango, người luôn nấu món cá kiếm bằng lửa nhỏ.

- Cháu không biết, Vango giải thích. Khi cháu nhìn thấy cha Zefiro… cha không nhận ra cháu.

Thầy dòng nấu bếp bật lên tiếng rú.

Anh ta bị bỏng.

- Cậu nói gì?

- Cha Zefiro… cha Zefiro không nhận ra cháu.

Marco tái nhợt.

- Lạy Chúa tôi.

Cách đó vài trăm mét, thầy dòng Mulligan không thể tin nổi những gì ông vừa nhìn thấy.

Như mọi Chủ nhật, John Mulligan là hồng y phương Nam.

Lúc nào cũng có bốn vị hồng y trên đảo. Các tu sĩ thay nhau vào vị trí ấy. Họ lần lượt đội mũ chỏm đỏ trên đầu. Người ta gọi họ như vậy bởi lẽ họ chịu trách nhiệm giám sát bốn phương trời: Đông, Tây, Nam và Bắc.

Mỗi người một ngày và họ háo hức chờ đợi đến ngày ấy, ngày mà nỗi cô đơn đối diện với không gian mênh mông bát ngát. Có hồng y mơ mộng, hồng y thần bí, hồng y ngái ngủ. Nhưng Mulligan thuộc nhóm những hồng y đi câu.

Vắt vẻo trên núi đá, kinh nhật tụng để đầu gối và cần câu kẹp chân, John Mulligan vào vị trí lúc sáng tinh mơ. Ba mươi giây một lần, như điệp khúc trong bài thánh vịnh mà ông tụng, ông đảo một vòng chân trời rồi di chuyển phao câu.

Thoạt tiên, bằng mắt thường, ông nhìn thấy một vệt đen vụt xuất hiện ngoài khơi, kèm theo sau một đường bông trắng.

Chộp lấy ống nhòm, ông không thể kìm được tiếng kêu thốt ngạc nhiên.

Đó là một chiếc tàu động cơ, ba buồng lái, một động cơ gắn ngoài nhanh như những chiếc Hackercraft ông đã được nhìn thấy ở New England khi còn giao du với Al Capone và mafia đi nghỉ dưỡng trên những bãi biển ở Cape Cod hay Nantucket.

Động cơ gắn ngoài lướt trên mặt nước, tạo thành một đường hoàn hảo.

Ở châu Âu, người ta chỉ nhìn thấy những con tàu như thế trên phá Venise, hoặc trên những hồ lớn của Thụy Sĩ hoặc Lombardie. Trên đó lúc nào cũng có các quý bà, tóc bay trong gió, ngồi trên ghế băng bọc da và các quý ông, tóc xức sáp, quần tây trắng và áo nịt len không tay.

Nhưng bốn người đàn ông trên chiếc thuyền động cơ gắn ngoài ấy không có vẻ là hành khách du thuyền hạng sang. Tất cả đều đeo một khẩu tiểu liên Thompson có băng đạn tròn mà thầy dòng Mulligan biết rất rõ vì ông đã nhìn thấy không ít lần trong tủ treo quần áo của các giáo dân xứ đạo Chicago, thời kỳ bị cấm.

Bốn gã đó còn có những bộ mặt sát thủ, có thể làm cả những đệ tử kinh khủng nhất của Al Capone phải bỏ chạy.

Vì thấy con tàu lao nhanh rồi vòng qua hòn đảo dài Filicudi, hướng về Salma và miệng núi lửa Pollara, thầy dòng Mulligan không còn lo lắng về sự xuất hiện này nữa.

Ông đã từng trông thấy cá nhà táng bơi qua tháng trước và, thậm chí cách đây khá lâu, ông còn chứng kiến cả một khí cầu bay qua giữa đêm tối.

Chúa dành cho con những điều tuyệt vời…

John Mulligan trở lại với cuốn kinh nhật tụng và chiếc phao câu của mình.

Một tiếng sau, vào buổi lễ sáng, thầy dòng Marco nói chuyện với những vị tu sĩ đang tập trung trước mặt mình.

Cần giải thích rằng cha Zefiro bị giữ lại Pháp một thời gian. Marco xâu chuỗi những lập luận của một trưởng ga. Anh ta nói về sự chậm trễ ngoài ý muốn của cha, về sự cố đáng tiếc… Anh khuấy đảo mọi manh mối.

Tiếng rì rầm thất vọng đáp lại lời thông báo này.

- Ông ấy sẽ về với chúng ta sớm nhất có thể. Ông ấy đang nghĩ đến mọi người. Ông ấy ôm hôn thân ái mọi người.

Marco sờ vào mắt kính rạn của mình khi nói ra những câu ấy. Một chút hơi nước đọng lại trên đó. Anh liếc mắt nhìn Vango. Anh còn chưa muốn tiết lộ rằng vị cha của họ có lẽ không còn nhớ được bất kỳ khuôn mặt nào trong số họ, rằng ông đã bị mất trí và rằng ông đang trôi dạt đâu đó trong thế giới rộng lớn này.

Marco trốn vào phòng của Zefiro và yêu cầu mọi người không làm phiền mình. Anh dựa người vào tường, chậm chạp tháo kính ra.

Thầy dòng Marco thấy mình không đủ sức đón nhận nhiệm vụ mới này. Ánh mắt anh lướt quanh căn phòng. Ba quyển sách. Một cái đệm. Đó là những gì còn lại của Zefiro. Họ sẽ làm thế nào khi vắng ông đây?

Anh nhìn thấy, treo trên móc, quả đấm của cái chuông to ở tu viện. Cái chuông thì nằm trong hang đá bên trên nhà thờ nhưng quả đấm của nó, miếng đồng hình giọt lệ ấy lại ở trong phòng của cha trưởng tu viện. Không ai được sờ vào đó.

Hằng ngày, từ kinh mai cho đến kinh tối, người ta rung cái chuông câm để tránh sự chú ý của các đảo bên cạnh.

Anh lấy tay đẩy cái vật bằng đồng ấy, vật đã trở thành biểu tượng của tu viện câm lặng và vô hình này.

“Ba mươi tu sĩ…”, Marco nghĩ.

Anh không cảm thấy vai mình đủ rộng để gánh vác một gia đình lớn như thế.

Anh nhớ lại cái đêm bão tố khi Zefiro trao cho anh quả đấm trong vài tiếng đồng hồ. Tối đó, Marco vừa biết tin về cái chết của em gái mình, Giulia, người mà mười năm rồi anh không gặp. Anh thậm chí còn chẳng đến lễ an táng được. Phía trên kia, ở Mantoue, gia đình Marco vẫn tưởng anh đã mất tích mãi mãi.

Zefiro đến gặp thầy dòng nấu bếp trong cơn bão bùng.

Ông chìa vật đó cho Marco.

- Đi đi. Đi đánh chuông đi. Mong rằng tận trong thành phố, mọi người nghe thấy cậu.

Tất cả thầy tu đều nghe nói rằng cha Zefiro làm điều đó khi cơn giông đang nổi ầm ầm đủ lớn để có thể át đi tiếng chuông và vì một trong số những thầy dòng ấy đang đau khổ.

Đêm hôm đó, Marco đích thân treo quả đấm vào cái chuông khổng lồ. Và trong hai tiếng đồng hồ, giữa sấm chớp nhập nhằng, giữa tiếng gió gào, anh đã rung chuông vang dội. Lơ lửng trên sợi dây thừng, anh quăng mình lên hai, ba mét mỗi lần đánh chuông. Cái chuông vì anh mà kêu vang.

Đó là một kỷ niệm Marco không bao giờ quên.

Marco đeo lại kính. Anh nhớ Zefiro như nhớ cha mình, nhưng anh vẫn cứ phải làm cái việc không thể: làm người cha bất đắc dĩ trong gia đình khi chính bản thân mình cảm thấy bị mồ côi. Anh ra khỏi phòng bước về phía nhà bếp.

Rời nhà thờ, sau thông báo của Marco, Vango theo sau Pippo Troisi về phía chuồng thỏ.

Pippo rên rỉ.

Trong lúc Zefiro vắng mặt, anh ta được cử phụ trách đám thỏ. Một nỗi đau khổ. Anh ta căm thù chúng bao nhiêu năm trời, vậy mà giờ lại phải chăm sóc cho tám mươi con thỏ hoang. Anh ta gầy đi trông thấy. Đêm đến anh ta gặp ác mộng với lũ thỏ, y như bệnh nhân hen suyễn bị thả vào chuồng gà vậy.

- Lũ gặm nhấm vô lại, anh ta vừa nói vừa mở cái chuồng đầu tiên. Còn những con mới đẻ nữa chứ. Tại sao người ta không giao cho tôi tổ ong nhỉ? Tôi có sợ ong đâu!

Vango giúp anh ta lấy những con mới sinh ra, đặt lên cỏ.

Hai chú thỏ non định chui vào ống quần của Pippo.

- Như là chúng yêu chú ấy…, Vango vừa cười vừa nói.

Pippo lẩm bẩm tiếng gì đó không thể hiểu nổi trong lúc tìm cách lôi con thỏ ra khỏi đùi.

Vango có lý… Đó là thứ tình yêu điên cuồng.

Lũ thỏ cảm nhận được từ rất xa là Pippo Troisi đang đến. Chúng nhảy bổ vào anh ta ngay khi anh ta ở đó. Có thể thấy cả những con đực to lớn xô đẩy nhau để được gần anh ta. Những trận đấu gay cấn đã diễn ra. Lũ thỏ túm năm tụm ba quanh anh ta. Những con nhỏ nhất coi anh ta như mẹ chúng và thích thú dụi dụi vào mắt cá chân anh ta.

Những cú đá của anh ta chẳng gây hề hấn gì. Chúng vẫn yêu anh ta!

Hai người đóng song sắt xuống. Họ đi xuống tìm xô nước để cạnh phiến đá.

Pippo bắt đầu cọ rửa tay.

Vango nhìn anh ta. Cậu cảm thấy thời điểm đã đến.

- Chú Pippo, chú ở đây từ hồi người ta tìm thấy cháu ở Scario, Malfa khi cháu ba tuổi đúng không?

Pippo nhỏm dậy.

- Không phải là tôi ở đây, cậu bé… Mà chính tôi đã tìm thấy cậu.

Anh ta hất cằm khoe khoang và chùi ngón tay vào ống tay áo. Anh ta không nghĩ đến lũ thỏ nữa.

- Tôi, Pippo Troisi, anh ta vừa nói vừa vỗ ngực. Đầu tiên, tôi tìm thấy cô bảo mẫu của cậu. Tôi báo với những người khác. Rồi chúng tôi đã đưa cậu ra khỏi núi đá sau đó một chút.

Vango gật đầu.

Vừa về đến Arkudah, cậu đã có ý định hỏi chuyện anh ta.

Trước khi gặp lại Cô, cậu muốn tìm hiểu thêm.

- Tôi không biết cậu từ đâu rơi xuống, Pippo nhẹ nhàng nói. Nhưng, từ khi chúng ta ở đây, tôi có cảm tưởng cậu từ trên trời xuống với tôi. Trực tiếp và không ngừng. Tôi thề với cậu là tôi chẳng biết gì khác.

Vango nài nỉ:

- Trên đảo có xảy ra chuyện gì không ạ, trước đó một chút hoặc sau đó? Chú không thấy gì à?

- Không.

- Chú thử nhớ lại xem, đi mà chú.

- Thế cậu muốn điều gì xảy ra?

- Cái gì đó chẳng hạn, cháu không biết nữa…

- Nhưng cái gì mới được chứ?

- Một sự thay đổi… Một tai nạn…

- Một cuộc đột nhập của lũ thỏ? Pippo đùa.

- Cháu tự hỏi…

- Không gì cả, tôi nói với cậu rồi. Tôi không biết gì cả. Cậu hiểu chứ?

Giọng nói quá đanh để có thể là lời nói thành thực. Họ quay ra phía hàng rào tu viện.

Pippo lại bắt tay vào nhiệm vụ, đổ ào một trong mấy xô nước để cọ rửa chuồng thỏ.

- Hồi đó, theo tôi, có bao giờ xảy ra nhiều chuyện đâu nhỉ, anh ta nói để được thông cảm.

Họ đặt lũ thỏ con vào với mẹ của chúng. Pippo chửi rủa một con thỏ tội nghiệp liếm tay anh ta, con khác lại muốn được bỏ quên trong túi anh ta. Pippo chất vào một góc đống vỏ rau củ của nhà bếp. Lúc chuẩn bị đi, Pippo sững người lại nói, như thể nói với chính mình:

- Một chuyện, có thể. Mình cho là vào cái mùa thu khó quên ấy, khi Bartolomeo chết.

- Sao cơ ạ?

- Khi mà cậu đến…

- Ai chết ạ?

- Bartolomeo. Đó là một anh chàng có cô vợ vô cùng xinh đẹp và ba đứa con gái nhỏ ở Santa Marina. Anh ta bị bắn chết tại nhà. Vợ tôi có kể lại chuyện đó.

Anh ta buột miệng nói ra câu ấy. Anh ra dấu chữ thập như thể đang nói về quỷ Belzebuth. Anh ta làm hành động mê tín ấy khi vừa nhắc đến vợ mình.

- Cô ấy nói gì ạ?

- Cô ấy nói nhiều thứ.

Anh ta lại làm dấu chữ thập.

- Cô ấy có nhiều thứ để nói về tất cả mọi người mà.

Pippo đi về phía tu viện.

- Nhưng về Bartolomeo cơ ạ, cô ấy nói gì ạ?

- Cô ấy nói rằng anh ta đã làm điều xấu…

Pippo ngần ngại lật lại những chuyện ngồi lê đôi mách cũ kỹ của vợ mình. Điều đó có thể gây ra tai họa.

- Kể cháu nghe đi mà.

Pippo thở dài.

- Làm điều xấu cùng một băng nhóm… Có lẽ một trong những kẻ tòng phạm đã hạ anh ta để lấy đi phần của anh ta.

Vango lấy tay che trên mắt để nhìn được người bạn vì nắng rọi.

- Một băng nhóm ư?

- Đúng, một băng nhóm. Ba tên. Tôi không còn nhớ tên họ chúng lắm. Chúng muốn di cư nhưng không có gì cả. Có thể chúng đã nhằm vào một cửa hàng bán đồ khô trên đất liền. Vậy mà, không có của nả gì cả…

- Chúng rời đảo chứ ạ?

- Bartolomeo chết, anh chàng tội nghiệp, nhưng vẫn có một tên bỏ đi châu Mỹ ngay lập tức. Trực tiếp và không ngừng. Hắn, tôi không biết tên… Còn tên kia ở lại, cái gã cao lớn mà cậu vẫn biết đấy.

- Ai ạ?

- Gã trông giống như con thú, cao lớn, cậu biết…

- Ai cơ?

- Gã cao lớn đã cho mượn nhà ấy.

- Ai cơ? Vango nhắc lại mà không thể tin nổi.

- Gã cao lớn có một con lừa.

- Mazzetta ư?

- Ừ, đúng vậy, Mazzetta.

Vango dừng lại. Pippo Troisi nhìn cậu chăm chú.

- Cháu cần khẩu súng của chú, Vango chỉ nói mỗi vậy.