← Quay lại trang sách

Chương 28 KẺ TRỘM NGỰA

Everland, Scotland, tháng Mười năm 1935

Chiếc máy bay nhỏ lượn lại gần cái tháp lần thứ hai. Nhưng lần này, viên phi công trông thấy rõ người đàn ông đang chạy về phía chuồng ngựa. Một phụ nữ bám theo anh ta. Bà mặc chiếc váy ngủ màu trắng vén lên tận đùi để chạy dễ hơn.

- Hãy nói là mình đang mơ đi, anh thì thầm với chính mình.

Anh không mơ. Đó là Mary, người hầu phòng.

Paul lái máy bay lên cao và bắt đầu một vòng rộng hơn để tạo cho người ta cảm giác anh bay đi xa.

Máy bay là một chiếc Sirius, một động cơ loại nhỏ, cùng với một chiếc loại này Lindbergh đã phá kỷ lục trên Thái Bình Dương. Paul sở hữu một trong mười lăm bản mẫu từng tồn tại.

Anh hướng về phía hồ Loch Ness. Anh giảm tốc độ. Anh trông thấy rìa khu rừng đã vàng úa và những chuồng cừu lẻ loi trên đồi.

Paul thích thú xen lẫn bối rối.

- Mary! Mary! anh trợn tròn mắt nhắc đi nhắc lại.

Nhiều cách lý giải đang hiện lên trong đầu anh xoay quanh cảnh tượng anh bắt gặp. Anh bắt đầu tưởng tượng ra hai, ba, bốn cuộc sống của Mary, người mà đằng sau dáng vẻ bà già độc thân đôi chút mơ mộng rốt cuộc có lẽ lại là một phụ nữ phóng túng nhất Highlands ấy chứ.

Mary đến ở nhà anh khi Paul mới chào đời, nghĩa là hai mươi sáu năm trước. Anh khó mà tưởng tượng nổi đằng sau đôi gò má ửng đỏ ngượng ngùng, sự âu yếm của một người mẹ và những đôi tất len to sụ của mình, bà lại giấu giếm những trò phóng đãng lâu đến thế.

- Không… Không thể thế được.

Anh ngoặt mạnh, chúc cánh chiếc thủy phi cơ nhỏ xuống theo chiều thẳng đứng. Anh lại bay về phía tòa lâu đài. Trong vài giây, anh bay qua những cánh đồng cỏ vuông vắn được những bức tường đá nhỏ bao quanh, rồi men theo lối đi lớn có trồng cây hai bên.

Chỉ còn mình Mary trước chuồng ngựa. Bà dang tay hốt hoảng ra hiệu cho chiếc máy bay.

Ngay trước khi bay lên để vượt qua cái mái đen của tòa lâu đài, Paul nhìn thấy cửa chuồng ngựa bỗng dưng mở toang và một con ngựa ô phi nước đại lao ra. Gã đàn ông không kịp thắng yên. Hắn cưỡi ngựa không yên, chỉ nắm vào đai vòng cổ và thúc mạnh gót vào mạng sườn con vật.

Chàng phi công và kẻ phi ngựa nhìn thấy nhau.

Quá lên vài mét, khi quay lại, Paul nhìn thấy hắn nhảy qua bức tường đầu tiên.

Gã này chắc chắn không phải người tình của Mary rồi.

Hắn vừa trộm ngựa.

Paul hướng mũi máy bay lên trên tòa lâu đài.

Anh quyết định đuổi theo hắn.

Mary, phát điên vì ngưỡng mộ, quỳ xuống giữa đám váy áo, nhìn theo chiến công của người anh hùng.

Anh bắt đầu vọt thẳng lên trời, rất cao. Người ta chỉ còn nhìn thấy một chấm đen bị làn khói bao quanh. Không nghe thấy tiếng động cơ nữa. Tiếp tục lượn đứng, Paul để máy bay lộn ngược lại, rồi lại đâm nhào xuống mặt đất, vẽ nên một vòng tròn tuyệt hảo. Chiếc máy bay chầm chậm lấy lại tư thế khi tiếp đất.

Mary nín thở. Bà giả vờ lấy tay che mắt và kêu lên sợ hãi, nhưng vẫn hé những ngón tay tự hào rình xem tài điêu luyện của viên phi công trẻ lái máy bay tiêm kích.

Màn nhào lộn máy bay kết thúc ngay sát đám rễ thạch thảo mà nó phạt ngang trong bóng mây màu hoa cà. Lúc này anh lao đến trước mặt kẻ cưỡi ngựa, sát mặt đất, và hắn phi như điên về phía anh. Cả hai đều lao thẳng.

Giây cuối cùng, Paul nhấn ga, con ngựa lao vào giữa hai cái phao. Viên phi công không thể nhận ra gã đàn ông đang úp mặt vào bờm ngựa.

Khi lại bay đến trước tòa lâu đài, rốt cuộc Paul nhận ra rằng những gì anh làm chẳng có ý nghĩa gì cả.

Anh không định hy sinh con ngựa mà anh yêu quý, cũng không muốn chém đầu gã đàn ông mà anh chẳng biết gì và càng không muốn đáp xuống mặt đất chiếc thủy phi cơ vốn chỉ chịu được mặt nước.

Paul phải tự thú nhận rằng mục đích của anh là làm lóa mắt người phụ nữ bảy mươi tuổi, đang ngồi trên cỏ nhiệt tình vẫy tay về phía anh và bầu trời.

Ngoài Ethel ít khi gặp vì thường xuyên vắng mặt ra, Mary là tất cả những gì còn lại để anh thể hiện. Ngay cả cái buổi tối anh trở thành trung tá trẻ nhất của Không lực Hoàng gia, anh vẫn ăn tối một mình trong tòa lâu đài rộng lớn.

Kẻ cưỡi ngựa biến mất vào rừng.

Chiếc máy bay làm một vòng cuối cùng để đón nhận sự hoan hô nhiệt liệt của công chúng.

Khi anh hạ cánh xuống hồ Loch Ness một con thuyền nhỏ đến chào đón anh. Mary ở mũi trước.

Bà ôm Paul trong vòng tay mập mạp của mình. Bà không còn mặc váy ngủ nữa. Bà đang mặc thứ mà bà gọi là bộ cánh Chủ nhật, có nghĩa là một bộ đồ đen cùng chiếc tạp dề mà bà vẫn mặc hằng ngày từ sinh nhật lần thứ mười ba của bà, nửa thế kỷ trước. Nhưng bà lại choàng thêm một thứ khăn quàng cổ màu trắng mà theo bà, khi đứng trước tấm gương nhỏ trong phòng, nó đem lại cho bà cái thần thái của ngày Chủ nhật.

- Tuyệt vời. Tôi đã quá sợ hãi đấy.

Người ta có thể nghĩ bà đang nói với diễn viên đu quay ở cửa rạp xiếc. Bà ôm hôn anh.

- Hoan hô… Hoan hô…

- Kể cho cháu nghe đi, Paul nói.

Đột nhiên bà nhớ lại phen mạo hiểm của mình.

- Ôi, thật kinh khủng, bà nói.

- Bà kể đi.

- Tôi đến tìm cậu thay Peter. Bây giờ phải cẩn thận đấy. Peter đang gác cùng con trai ông ấy.

Khó có thể tìm thấy ai đó trong lâu đài vào ngày Chủ nhật. Paul bắt mọi người nghỉ vào ngày này. Vì thế, đám gia nhân chơi trốn tìm trong lâu đài để không lộ diện. Còn Mary thì ngủ nướng.

- Rồi sao nữa? Đó là ai? Paul hỏi.

- Hắn vào qua lối cửa sổ khi tôi đang ở trong hành lang tầng ba… Giá như cậu biết tôi sợ gì… Tôi đang mặc bộ đồ mỏng tang… Rốt cuộc, tôi chỉ…

- Nhưng hắn muốn gì? Paul cắt lời bà để khỏi phải nghe một cách chi tiết những ham muốn bé nhỏ của bà.

Bà nhoài người thầm thì vào tai cậu:

- Đó là một tên ăn cắp vặt.

Bà thầm thì giữa hồ như thể lũ cá chép già hoặc quái vật hồ Loch Ness có thể chộp được những thông tin bí mật của bà.

- Vậy thì nói cháu nghe hắn đã lấy được gì nào…

Bà nhìn sang trái, sang phải, và lấy đầy cảm hứng rồi nói nhỏ hơn:

- Không gì cả.

Đêm tiếp theo thật yên ắng. Buổi tối, Paul đi thám thính quanh khu rừng. Anh tìm thấy vết móng ngựa nhưng chúng lại mất hút trong những bụi cây.

Sáng hôm sau, lúc thức giấc, con ngựa ô đã đang gặm cỏ trong lâu đài.

- Nhìn kìa, Mary vừa nói vừa mở ri đô phòng Paul.

Tên ăn cắp ngựa thậm chí cũng không lấy con ngựa.

Mary đôi chút thất vọng. Bà bắt đầu gợi ý:

- Thế nếu đó là giả thì sao nhỉ?

- Tên ăn cắp á? Paul vừa hỏi vừa vươn vai trước ô cửa sổ lớn.

- Không, con ngựa cơ.

- Con ngựa á?

- Ừ. Nếu đó là giả nhỉ.

Paul gãi gãi chỏm tóc.

- Một con ngựa giả?

- Có lẽ hắn đã tráo con ngựa của cậu bằng một con giả.

- Tại sao?

- Để lấy con của cậu.

Paul nhoài người ra cửa sổ. Cậu cố giữ vẻ nghiêm túc.

- Dù sao, nó cũng được làm cẩn thận đấy chứ. Cái con ngựa giả ấy.

Cả ngày, Mary canh chừng con vật bị buộc dây cạnh bậc thềm. Bà cứ như vậy cả buổi tối. Cứ như bà đang đứng trước con ngựa thành Troie sắp mở bung giữa đêm tối, mở lối đi cho quân xâm lược.

Giờ phút chờ đợi thật kinh khủng. Nhưng qua một đêm, bà chỉ thấy con ngựa bị mất mỗi một hay hai xẻng phân tươi mà thôi.

Câu chuyện gần như bị lãng quên, sang tuần sau, khi Paul bắt được tên ăn cắp.

- Chính hắn đấy, Mary nói, vô cùng kích động.

Paul bắt quả tang hắn đang lục lọi tầng hầm tòa lâu đài. Đó là một thanh niên còn rất trẻ, nói được chút tiếng Anh. Paul đưa hắn lên phòng ăn, ngồi lại một mình với hắn.

Hàng chục gia nhân đi qua trước cửa, buổi sáng, tò mò muốn biết xem thái độ ngài Paul ra sao khi xử trí tên ăn cắp mà chẳng ăn cắp gì.

Mary lại cảm thấy thương xót cậu thanh niên đó.

- Tôi hy vọng Paul không quá rắn. Thằng bé đó cầu bất cầu bơ. Nó đâu biết những gì nó làm. Mọi người biết thừa là Paul trở nên rất nghiêm khắc từ khi cậu ấy làm sĩ quan mà.

Nhưng rồi bà gần như ngượng ngùng khi anh bước ra một mình, rẽ đám đông đang bu lại trên thềm nghỉ để nói với Mary:

- Bác đưa cho cậu ta quần áo lao động nhé. Chúng ta sẽ giữ cậu ấy lại để chăm sóc ngựa.

- Nhưng… Paul…

- Và cho cậu ta ăn nhé, Mary. Cậu ta ngủ trong rừng suốt hai tuần nay rồi đấy.

Paul bước đi.

Mary xuất hiện rất nhanh trước mặt tên trộm. Đám đông giải tán.

- Cậu tên gì? bà hỏi dồn.

Cậu ta trả lời bằng một cái tên hai âm tiết mà bà dịch ra thành một cái tên nghe thuận tai mình hơn.

- Andrew. Tốt. Nào lại đây, Andrew, cẩn thận đấy.

Bà dừng lại nắn nắn bóp bóp vai cậu thanh niên.

- Cậu gầy quá. Mấy bộ quần áo cũ của Paul sẽ hợp với cậu đấy, nhưng ta sẽ phải khâu ống tay. Bỏ giày ra hộ ta cái. Cậu làm bẩn hết sàn nhà mất thôi.

Cậu thanh niên vội vàng vâng lời. Bà cầm đôi giày dính bùn đất trên tay, không hề ghê sợ, như những bà trông coi đồ vải vóc sống trọn đời mình trong sự bẩn thỉu của người khác. Bà giữ sàn nhà đánh xi bóng loáng còn cẩn thận hơn cả sự sạch sẽ của ngón tay mình.

Họ đi trên hành lang sâu hun hút. Cậu thanh niên đeo tất lẽo đẽo theo sau bà.

- Cậu từ đâu đến?

- Từ miền Đông, cậu ta trả lời.

Bà nhìn qua cửa sổ theo hướng ấy. Cậu ta chắc hẳn phải đến từ Nethy Bridge hoặc Grantown, phía đằng kia… Đối với bà, tất cả những ai lớn lên bên ngoài tòa lâu đài đều nghiễm nhiên cực kỳ đáng thương.

- À, từ miền Đông…

- Vâng, từ miền Đông, cậu thanh niên nhắc lại.

- Và ở đó người ta thích thịt bò rán đúng không?

Họ ngửi thấy mùi thơm. Mary đẩy cửa bếp.

Chẳng phải mất nhiều thời gian để lấy lòng bà khi ai đó xuất hiện trước mặt bà với đôi mắt buồn và đôi giày lấm lem bùn đất.

Ethel về đến nhà, mười lăm ngày sau, giữa đêm khuya.

Ánh đèn pha chầm chậm quét con đường dẫn đến tòa lâu đài đang chìm trong giấc ngủ. Một con chim cú bay rất thấp trước mặt cô.

Từ khi đến Paris vào giữa mùa hè, cô chỉ ở lại có mấy ngày tại Everland. Paul không muốn trách móc cô vì đã vắng mặt. Thời gian ở cùng nhau quá ngắn nên anh không muốn bỏ phí từng khoảnh khắc.

Cô cho xe vào ga ra, kề chuồng ngựa. Cô lái rất nhẹ nhàng để mọi người không nghe thấy.

Chiếc xe dừng lại.

Cuối ga ra, trong ánh sáng đèn pha, Ethel trông thấy ai đó.

Cậu thanh niên che mắt lại. Cậu ta đi xuống từ chiếc máng ăn dùng để làm giường. Cái mà người ta gọi là ga ra chính là hệ thống chuồng ngựa được sửa vào đầu thế kỷ để đỗ xe hơi.

Ethel tắt động cơ nhưng vẫn để đèn pha sáng. Cô mở cửa xe.

- Xin chào, cô nói.

- Xin chào.

- Anh làm gì ở đây vậy?

- Tôi tên là Andrew. Tôi chăm sóc đàn ngựa.

Andrew bật ra hai câu mà cậu có thể nói chuẩn.

- Anh là người Nga.

- Đúng. Từ Mátxcơva.

Giờ thì cậu lấy cánh tay che mắt. Cậu ta bị lóa mắt giống chú thỏ trên đường.

- Bỏ tay ra đi. Để tôi nhìn anh.

Cậu ta vâng lời.

- Paul bảo anh trông xe à?

- Không. Mà là ngựa.

Andrew vẫn chưa thể trông thấy khuôn mặt cô gái nhưng cậu biết đó là cô.

Ethel. Cậu đợi cô suốt một tháng nay.

- Nếu anh chăm sóc lũ ngựa, tại sao tay anh lại thế này?

Cậu nhìn những ngón tay phủ dầu mỡ của mình. Cuối cùng cô cũng tắt đèn pha.

Cậu không trả lời.

Cô bước mấy bước lên tấm đá lát rồi bật một bóng đèn điện phía trên bàn thợ.

Cuối cùng cậu cũng nhìn thấy cô.

Cô mặc bộ com lê màu xanh nước biển sọc trắng, áo vest ngắn, quần rộng và dưới cánh tay, một chiếc áo đi mưa lót da.

Tóc buộc. Cô có vẻ rất mệt mỏi.

Ethel đã lái xe mười hai tiếng đồng hồ từ Luân Đôn và ba đêm vừa rồi cô ở những nơi người ta chỉ có nhảy nhót mà không ngủ.

Cô nhìn Andreï, mắt nhắm mắt mở, bám vào cái ngắt điện.

- Thế nào? Tại sao tay anh lại thế này?

Andreï lo lắng. Cô gái này thấy hết mọi thứ.

Cô nghi ngờ điều gì đó. Cậu chắc chắn như vậy.

- Tôi rất thích máy móc, cậu nói.

- Tại sao Paul lại tuyển anh?

- Tôi đã ăn cắp một con ngựa.

Câu này cũng vậy, Mary bắt anh phải nhắc đi nhắc lại y như cô giáo bắt một đứa trẻ chép đi chép lại cái lỗi mà nó mắc phải. Tôi đã ăn cắp một con ngựa. Tôi đã ăn cắp một con ngựa. Andreï đã ăn cắp một con ngựa.

- Anh có nghĩ đó là lý do chính đáng không? Ethel hỏi.

Cậu không biết trả lời thế nào. Cô lại gần cái khối phủ vải đen. Andreï run run nhưng cậu không bị phát hiện dưới lớp quần áo rộng thùng thình của Paul đã được Mary sửa lại.

Cô kéo tấm vải đen bằng động tác của một nhà ảo thuật.

- Tôi hy vọng anh không nghịch ngợm xe của cha tôi.

- Tôi thích máy móc mà, Andreï nhắc lại.

Xe của cha Ethel là một chiếc Rolls Royce Silver Ghost màu trắng đời 1907. Chiếc xe hơi đẹp nhất thế giới. Chiếc xe ấy mười năm trời phủ bụi. Và Andreï dành các buổi đêm của mình để tân trang lại nó. Cậu lau chùi từng linh kiện động cơ. Nó khởi động ngon lành.

- Ai bảo anh làm việc đó?

- Không ai cả.

- Nó chạy chứ?

- Vâng.

Andreï bước một bước về phía chiếc xe. Cậu muốn chỉ cho cô xem công việc của mình. Cậu đã làm tất cả với mục đích ấy. Mary nói với cậu rằng Ethel rất gắn bó với chiếc xe này. Vậy nên Andreï đã bắt tay vào làm.

Anh nhận lệnh của Boris Petrovitch theo dõi Everland, với hy vọng một ngày nào đó Vango sẽ đến đây.

Để hoàn thành nhiệm vụ, cậu cần lòng tin của Ethel. Cậu đặt tay lên ca pô.

- Dừng lại! cô ra lệnh. Bỏ tay anh ra đi.

Mắt cô gần như nhắm nghiền. Họng cô nghẹn lại.

- Tôi báo cho anh biết. Nếu anh còn chạm vào chiếc xe này một lần nữa, anh sẽ phải ra đi.

Ethel vào phòng Paul đút thêm một mẩu gốc cây vào lò sưởi cho nó cháy to hơn. Anh đang ngủ.

Cô ngồi xuống chiếc ghế bành.

Một ngày nào đó, cô sẽ không được mở cánh cửa căn phòng này giữa đêm khuya nữa. Cô biết điều đó. Cô vội vã giống như cái ngày ấy sắp đến rồi. Paul sẽ có gia đình. Phải gõ cửa, phải thiết kế những phòng riêng tư trong tòa lâu đài, phải thay đổi luật chơi.

Cuối cùng thì cái gì đó cũng sẽ thay đổi.

Cô duỗi chân ra sát ngọn lửa.

Đối với hai anh em cô, thế giới vẫn đứng im từ cái ngày cha mẹ họ qua đời.

Con người xung quanh họ già đi nhưng họ không cho bất kỳ ai, bất kỳ thứ gì lọt vào tòa lâu đài. Một bức màn tối phủ lên thế giới của họ giống như trên chiếc Rolls Royce Silver Ghost. Không ai có quyền chạm vào đó.

Không có gì thay đổi. Chiếc máy bay của Paul là bản sao món đồ chơi bé xíu mà anh chơi hồi còn nhỏ. Và Ethel bé bỏng đã lái xe từ lâu lắm rồi, trên đầu gối cha mình.

Không có gì mới trên trái đất này.

Đối với cô, chỉ có duy nhất một ngôi sao băng vụt qua thời kỳ băng giá dài dằng dặc này. Đó chính là Vango. Cô yêu cậu. Cô yêu cậu bằng tất cả sinh lực mình.

Mỗi lần cô ở đến tận sáng trong những quán cà phê nghi ngút khói, mỗi lần cô choáng váng trước những khuôn mặt, âm nhạc, tốc độ, cô biết mình đang chạy trốn nỗi trống vắng.

Cậu đi qua quá nhanh để cô có thể tóm lấy và để thế giới quanh cô cuối cùng cũng được sưởi ấm.

Paul phát hiện ra Ethel trong chiếc ghế bành khi anh thức giấc. Anh nhẹ nhàng nâng đôi bàn chân cô đặt lên một chiếc ghế.

Cô mở choàng mắt.

Anh cười với cô. Anh bật nhạc trong phòng làm việc nhỏ bên cạnh.

- Anh có muốn đánh thức em đâu, anh nói.

- Em cũng không mà.

Cô lấy tay sờ lên trán anh.

- Em gặp những người bạn phi công của anh ở Luân Đôn, cô nói.

- Họ quá may mắn khi được gặp em thường xuyên đấy, Ethel.

- Họ tự hỏi anh đang làm gì.

- Chẳng gì cả, em thấy đấy. Anh chẳng làm gì cả. Thế còn em?

- Em đang cố sống.

- Em có vẻ buồn, Ethel. Em nghĩ đến cậu ấy à?

- Ai ạ?

Họ im lặng, rồi cô nói:

- Những người bạn lái của anh nói anh không thích tiệc tùng.

Tiếng nhạc ngưng bặt. Anh nhún vai.

- Mỗi người đều có những lúc tiệc tùng riêng của mình, Paul nói.

Anh đứng dậy, sang phòng làm việc để lật đĩa.

Bay giữa đám chim trời, lượn thủy phi cơ dưới vòm vách đá gần ngọn hải đăng Duncansby, cưỡi ngựa băng qua sông sâu… Đó là những thú vui trong mắt anh.

Anh nghe thấy giọng Ethel bên phòng:

- Anh chàng người Nga trông ngựa là ai đấy ạ?

- Một gã lang thang, anh vừa nói vừa bước từ phòng làm việc ra.

Cô nhìn Paul.

- Một gã lang thang ư?

- Một gã lang thang tìm việc làm.

- Một gã lang thang người Nga lạc lối qua đây không làm anh ngạc nhiên à?

Anh bật cười.

- Em lại bắt đầu đấy… Có thể đó là một tên gián điệp! Một tên gián điệp mười bảy tuổi đến từ xứ lạnh để theo dõi hai đứa trẻ mồ côi.

Tháng trước, Ethel cũng đã nghi ngờ kiểu thế này. Cô nói ai đó lợi dụng lúc cô vắng mặt đã lục lọi phòng khách sạn của cô, vào ban đêm, ở Edimbourg. Anh cô vặn vẹo rằng cô chỉ cần ở lại phòng vào ban đêm thôi mà.

- Em gặp những người không tồn tại, Ethel ạ, và em thậm chí chẳng thể trông thấy ai đang sống trên đời này. Cứ nhìn Tom Cameron mà xem, cậu ta đang lăng xăng quanh em đấy!

Cô cười, thì thầm:

- Anh ta nên thôi ngay cái trò lăng xăng lại, bởi vì anh ta đang bị mất trí.

Quả thật, những cuộc viếng thăm gần đây của nhà Cameron đã tạo ra những cảnh phi thực. Người cha, bà mẹ đến trong tình trạng bị kích động mạnh. Họ luôn luôn có cái vẻ giả tạo. Họ tuôn ra những câu mập mờ, nói luyên thuyên về “những gì mà mọi người không biết” hoặc về “những gì còn phải làm ra vẻ như không biết”. Hai bậc phụ huynh càng tán hươu tán vượn bao nhiêu, cậu con trai càng tái mặt bấy nhiêu, dúm dó, lẩn trốn sau chiếc mũ.

Hầu hết các lần ấy, Ethel không ở đó. Paul phải xoay xở một mình. Khi họ đến mà không báo trước, John, ông quản gia, quen thông báo với Paul rằng “bệnh viện tâm thần đối diện đến” bằng giọng cực kỳ mạch lạc.

Họ bước vào.

Mỗi lần, Paul lại tìm ra một lý do chính đáng giải thích cho những chuyến đi của em gái mình. Lady Cameron thường trả lời: “À vâng, tất nhiên rồi! Cô ấy cũng chỉ còn tận hưởng chút nữa thôi!” như thể người ta nói điều đó khi trông thấy một con gà mái đang nhảy nhót sắp bị vào nồi. Bà ta cầm những bức tranh trên tay để soi chữ ký, đếm những chiếc đèn chùm pha lê và nhấc xem đồ bạc nặng nhẹ bao nhiêu.

Ethel vươn người trên chiếc ghế bành trước lò sưởi.

- Thật sự, Paul cầm tay em gái năn nỉ, em chẳng có gì để nói với anh về Tom hay sao? Hai đứa không nói chuyện với nhau à?

Ethel cười.

- Không. Em thề đấy.

- Vậy thì, anh cho rằng có một sự hiểu lầm… Tom tội nghiệp…

- Anh đừng lo cho anh ta.

Ai đó gõ cửa.

Mary mang trà tới. Ethel đứng dậy ôm bà và muốn nhảy cùng bà một điệu valse bước ngắn. Paul mở rộng cửa phòng làm việc để họ nghe thấy tiếng nhạc.

John, ông quản gia đáng kính, bước vào và nhìn thấy cảnh tượng ấy, ông sững sờ.

Mary thậm chí còn chẳng kịp đặt khay trà xuống. Bà xoay tròn trong phòng, bật ra những tiếng rú nho nhỏ. Ethel không buông bà ra. Cả hai người cùng xoay. Paul tóm lấy cái tách đầu tiên, rồi cái thứ hai, rồi ấm trà, lúc họ đang bay. John nhận lấy đôi giày của Ethel.

Lọ đường kết thúc số phận trong bếp lò với mùi caramen.

Tiếng nhạc trở nên ngây ngất lòng người.

Cuối cùng Ethel cũng để Mary tách ra khỏi mình.

- Chúng điên rồi, người hầu phòng rên rỉ, đê mê, ngã vào vòng tay Paul.