Chương 30 QUỸ ĐẠO CỦA NHỮNG BÔNG TUYẾT
Luân Đôn, đêm hôm sau
Trời mưa. Vango chạy trên cầu. Ba gã đàn ông vẫn bám sau cậu. Cậu lại nhìn thấy chúng nhờ ánh sáng của con tàu đang đi ngược chiều. Chúng không buông tha cậu từ khi màn đêm bắt đầu buông xuống.
Hàng chục đường ray chằng chịt phủ kín chiều rộng cây cầu. Vango bước xuống bậc, ngay trước ga Cannon Street. Những kẻ bám theo cậu cũng nhảy xuống rất nhanh phía sau.
Lúc này cậu đang chạy giữa những đường ray trên cây cầu đường sắt bắc qua sông Thames. Cậu nhìn thấy phía xa xa quầng sáng của những bến tàu.
Ba lần, Vango ngỡ đã thoát được chúng.
Thoạt tiên, cậu thấy chúng đi vào quán ăn nơi cậu vừa mới bắt đầu làm việc.
Cậu vừa đi xuyên châu Âu, từ Nam tới Bắc, lang thang, chỉ biết có ban đêm. Cậu không còn xu nào từ lâu rồi, cậu ăn nhờ ở đậu trong sân sau của các tòa nhà. Chính ở một nơi như thế, ngoại ô Luân Đôn, trong khi cậu đang sục sạo đống rau quả thừa thì ông chủ nhà hàng Blue Fisherman đề nghị tuyển cậu vào để rửa bát.
- Cậu biết làm không?
- Có ạ.
- Vậy thì ngày mai cậu đến ngay nhé.
Vango nhận lời. Với vài xu mỗi ngày, rốt cuộc cậu cũng sẽ có thể mua được vé tàu mà cậu đang cần để tiếp tục đi về phương Bắc.
Mới đến tối thứ ba, chúng đã vào nhà hàng. Chắc chắn chúng đã theo dõi Vango trên phố và xác định được nơi cậu làm việc. Có năm hay sáu khách hàng đang ngồi bên bàn ăn trong phòng. Những vị khách đi thẳng vào bếp.
Đến cửa, ông chủ muốn ngăn chúng lại.
- Các ngài làm ơn, không được vào đây đâu ạ.
Ông nhận một cú đấm vào thái dương và ngã lăn ra đất.
Khi chúng vào đến nơi, anh đầu bếp giơ tay lên trời, mỗi tay cầm một củ cà rốt.
- Tôi đầu hàng! Tôi đầu hàng!
- Câm mồm.
- Chính tôi là người các anh muốn đúng không?
- Không. Tên khác.
- Vậy tóm hắn đi! Tôi không biết hắn!
Bọn chúng nhét một củ cải to tướng vào miệng anh đầu bếp để anh ta im miệng.
“Lần này là mình rồi”, Vango tự nhủ.
Cậu bị mắc kẹt trong góc bếp, một căn phòng dài không lối thoát. Bọn chúng có bốn tên. Cậu ném từng cái đĩa bẩn và mâm gang đang chồng chất bên cạnh cậu về phía chúng. Anh đầu bếp chui xuống dưới chạn bát.
Vì thiếu vũ khí để ngăn chúng đến gần, Vango đổ nước rửa bát đang nóng bỏng và đầy mỡ ra sàn.
Cậu trốn vào kho và đẩy một cái bàn ra chặn cửa. Trong khi vẫn nghe thấy chúng trượt băng trên nền bếp lát gạch vuông, Vango trèo lên tủ, dùng khuỷu tay đập vỡ một ô cửa sổ nhỏ rồi leo ra sân giếng trời.
Bằng vài động tác, cậu leo lên mặt tiền ngôi nhà, về phía cửa sổ của tầng cao hơn. Cánh cửa chớp bị đóng kín. Cậu trèo thêm một tầng nữa, rồi tầng nữa. Dường như mọi cửa sổ đều bị bít lại. Tòa nhà bị bỏ hoang.
Lấy cánh tay quệt mặt, cậu cảm thấy một thứ chất lỏng âm ấm đang chảy trên cổ mình. Khuỷu tay đập vỡ cửa kính đang chảy rất nhiều máu. Cậu bắt đầu không thể cử động bàn tay phải được nữa. Cậu đút nó sâu trong túi và để nó ở yên trong đó.
Tiếng động phát ra từ bếp.
Vango trèo nốt như một con nhện què, nhưng với tốc độ nhanh đến kỳ lạ.
Ở tầng trên cùng, cậu bám vào một trong những ô cửa chớp lớn của cửa sổ. Cậu muốn lên đến mái nhà.
Cậu bất động. Hai giọng nói vang lên phía dưới:
- Hắn chắc chắn đang ở đây. Hắn không thể ra khỏi sân được.
- Thế còn những người Anh của chúng ta đâu?
Không giống những kẻ đột nhập vào bếp, hai người đàn ông ấy nói tiếng Pháp.
- Họ đang tìm kiếm trên tầng, người kia trả lời. Họ sẽ tìm thấy hắn thôi, anh cứ để mà xem.
Rồi Vango cảm thấy cánh cửa chớp mà cậu đang đứng bỗng nhiên xoay tròn.
- Hey! một giọng nói vang lên rất gần cậu.
Hai người đàn ông ngước mắt lên nhìn kẻ vừa mở hai cánh cửa chớp của ô cửa sổ cao nhất.
- Chúng ta lại xuống thôi. Không có ai ở đây.
- Thằng nhãi bẩn thỉu! Hắn sẽ phải trả giá cho việc ấy.
Vango dính chặt sau cánh cửa chớp bên trái, không thể bị phát hiện.
Bốn tiếng sau, khi chẳng còn tiếng động nào từ lâu rồi, cậu mới dám từ từ leo xuống sân.
Cậu nghe thấy tiếng cảnh sát đổ bộ giữa đêm khuya để ghi nhận vụ tấn công nhà hàng.
Ông chủ đã được đưa vào bệnh viện.
Vango thậm chí còn có thể chứng kiến, đằng sau cánh cửa chớp, câu chuyện anh hùng của chàng đầu bếp. Anh ta kể đã dùng que xiên và dao thái thịt bảo vệ anh nhân viên mới như thế nào:
- Tôi không chịu nhường bước cho đến khi chúng quỳ gối xin xá tội và kéo nhau đi!
Trước khi bình minh lên một chút, Vango chuồn ra phố. Mọi thứ dường như yên bình. Mưa lạnh thấu xương. Không có lấy một chút ánh sáng. Chỉ nghe thấy vài đồng bạc đang sột soạt trong túi cậu và tiếng đôi giày tội nghiệp bì bõm trong nước.
Nhưng khi cậu sắp rẽ vào góc tòa nhà tiếp theo, một chiếc xe hơi khởi động lao theo cậu.
Cuộc săn lùng có lẽ sẽ không bao giờ dừng lại.
Lấy hết sức lực, cậu cứ chạy trong đêm khuya trên mặt phố đất nện. Mưa ngập cống thoát nước đổ về phía trung tâm thành phố.
Cậu ướt như chuột lột. Tiếng động cơ vẫn gầm rú sau lưng.
Một tiếng ầm ầm át đi tiếng động cơ. Vango cứ ngỡ đang nổ ra một cuộc đọ súng. Ngoái đầu lại, cậu hiểu âm thanh đó từ đâu ra. Một con đường sắt chạy sau hàng rào, phía bên phải.
Một con tàu đang đến.
Vango đột nhiên dừng chạy, làm lốp chiếc xe hơi đằng sau cậu rít lên. Cậu lấy đà, như một con sư tử, quăng mình một cách thần kỳ leo lên những bức chắn cao.
- Đừng bắn, một kẻ trong đám truy bắt kêu lên. Đừng bắn!
Vango đã nhảy lên tàu.
Đó là chuyến tàu sáng đầu tiên. Nó đi về phía trung tâm Luân Đôn. Có mấy người đang gà gật trên ghế băng gỗ. Họ thậm chí chẳng nhận ra là cậu bé xuất hiện khi tàu vẫn chạy.
Chỉ có một bà già cười với cậu như thể bà ta biết cậu. Vango không đáp lại. Tất cả đều khiến cậu sợ.
Cậu tiến lại gần cửa.
Cậu không còn tin bất cứ ai và bất cứ điều gì nữa.
Cậu thậm chí còn nghi ngờ cả một đứa trẻ sơ sinh.
Vango quỵ xuống một góc, dựa vào cửa kính. Cánh tay làm cậu đau.
Không còn mưa rơi nữa, mà là tuyết. Tuyết màu ghi xám, bất chợt thoáng rơi.
Cậu đã để lại trên đường hay trên cát nơi cậu đi qua dấu vết gì mà sao bọn chúng vẫn tìm thấy cậu?
Sao chúng lại phát hiện ra tung tích cậu trong khi chẳng còn gì làm cậu trở nên có giá trị trên trái đất này nữa?
Chẳng còn gì. Cha mẹ cậu, cha Jean, Cô, Zefiro… Tất cả đều đã biến mất. Vango cứ trôi nổi trên tất cả mọi thứ.
Ethel, có thể. Ethel còn giữ cậu lại bằng một sợi dây lụa.
Cậu chăm chú nhìn tuyết rơi.
Mí mắt cậu bắt đầu nặng trĩu.
Những nhà máy cao lớn đang nhả khói phía cuối vùng đất hoang. Lúc này, rất nhiều người đi lại dọc đường ray. Cậu trông thấy họ đi qua rất nhanh.
Cậu cũng nhìn thấy cả sự trượt dài của cuộc đời mình.
Khi ta quan sát những nụ tuyết rơi xuống như một dấu chấm, sự nhàm chán sẽ nhấn chìm chúng ta. Nhưng khi ta dõi theo một nụ tuyết, chỉ một mà thôi, từ tít trên cao, khi ta chứng kiến màn nhào lộn của nó, thì đó là một cuộc phiêu lưu, một niềm đam mê.
Vango tỉnh dậy khi tàu đến ga đầu tiên. Cậu mới chỉ ngủ vài phút. Lúc mở mắt ra, con tàu lại chuyển động và cậu nhìn thấy bọn chúng chạy trên bến rồi nhảy lên tàu.
- Không…
Cậu bật dậy. Chiếc xe hơi chở những kẻ truy đuổi đi còn nhanh hơn cậu.
Bà già vẫn ngồi đó.
Cậu hạ kính thấp xuống rồi thò đầu ra ngoài. Tuyết ẩm ướt, âm ấm. Cậu đưa cánh tay trái ra tìm chỗ bám trên mái và đu lên bằng cánh tay duy nhất.
Bà già trông thấy cậu biến mất, như thể bị hút ra ngoài, đúng lúc đám người vào đến nơi. Bà không nói một lời. Bọn chúng thở hồng hộc, cúi xuống nhòm dưới ghế băng.
Một tên trong số đó lao đến bên cửa sổ để mở nhìn ra ngoài.
- Cửa đấy bị kẹt rồi, thưa ông. Nếu ông đóng được nó vào thì tốt cho mọi người quá, bà già nói.
Gã đàn ông lấy một ngón tay đẩy cửa, nó đóng lại hẳn.
- Cảm ơn, bà nói.
Bà hơi gật đầu rồi nhắm mắt một lúc.
- Tại sao bà lại nói cái cửa sổ này bị kẹt?
Bà lại mở mắt. Gã đàn ông gí sát vào mặt bà, vẻ đe dọa.
- Thế nào? Tôi hy vọng bà không giấu diếm chúng tôi điều gì…
Những hành khách khác giả vờ ngủ.
Một phút sau, nằm bẹp trên mái con tàu đang lao nhanh về phía cầu Cannon Street, Vango trông thấy một người đàn ông xuất hiện trong gió. Hắn cũng leo lên bằng chính cửa sổ ấy.
- Lại đây!
- Anh là ai?
- Lại đây, nhóc con. Cứ nhẹ nhàng lại đây.
Hắn giơ súng đe dọa cậu.
Vango bắt đầu di chuyển về phía hắn. Con tàu lao vun vút giữa những cột tháp.
Hắn theo sát từng chuyển động của cậu. Cậu chỉ còn cách hắn một mét. Cậu ngoan ngoãn trườn lại. Hắn sắp chạm được vào bàn tay cậu. Đúng lúc đoàn tàu chui qua một cây cầu nhỏ, Vango bỗng bật dậy nhảy treo mình lên nhịp cầu bằng kim loại. Cậu nhanh chóng lẩn vào đêm tối.
Hắn bắn một phát súng chỉ thiên. Đó là ám hiệu ra lệnh những tên kia nhảy ra khỏi tàu.
Rồi Vango chạy phía trên sông Thames, trên những đường ray của cầu Cannon Street. Những kẻ truy đuổi thoạt tiên đi dưới nhịp cầu mà không phát hiện thấy gì cả. Nhưng rồi một đoàn tàu khác đã rúc lên những hồi còi khẩn thiết khi trông thấy cậu xuất hiện trên đường ray. Bọn chúng quay trở lại tiếp tục cuộc săn đuổi.
Vango muốn đến ga Cannon Street, luôn đông nghịt người ngay từ buổi sáng. Cậu có thể trà trộn vào đám đông.
Cậu đang thắng thế. Cậu có một cơ may để thoát khỏi chúng.
Lúc này, mưa đã thay thế tuyết.
Vango đột nhiên dừng lại. Cậu vừa nhìn thấy trước mặt mình mấy cái bóng đang động đậy. Bọn chúng tấn công cậu từ sau lưng.
Cậu nhận ra tay người Pháp và hai tên vô lại khác phải xuống ở ga tiếp theo.
Vango bị mắc vào thế gọng kìm.
Trong cậu, vang lên tiếng than vãn của Kinh thánh:
Ngươi lại tiếp tục tấn công
Đội quân mới của ngươi cứ thay nhau tấn công ta
Chúng tiến lại gần cậu. Chúng đang ở đó.
Chúng thậm chí còn có thể nói chuyện với nhau.
- Chúng tao sẽ không làm mày đau đâu, gã người Pháp nói.
Con tàu cứ thế chạy qua, thờ ơ trước tấm thảm kịch. Người ta nhìn thấy những khuôn mặt được chiếu sáng bên cửa sổ.
Những người anh em làm ta thất vọng như dòng thác
Như dòng thác đổ thoáng qua
Vango cứ từ từ để mặc bị vây dồn, cậu dựa vào thành lan can.
Cậu rút bàn tay đau đớn ra khỏi túi áo rồi nhẹ nhàng đặt nó vào bàn tay kia.
Cậu đang rất tập trung.
- Không được nhúc nhích, gã người Pháp nhắc lại.
Kẻ thù chỉ còn cách cậu hai bước chân.
Rồi, cậu vung hai bàn tay đan vào nhau lên trời, ưỡn người ra đằng sau và cuối cùng cậu nhảy, bay qua lan can, lao thẳng xuống dòng sông.
Friedrichshafen, hồ Constance, cũng tối hôm đó
Đội trưởng Lehmann bước vào phòng bản đồ của Khí cầu Graf. Eckener đang làm việc trong đó, kính trễ xuống mũi.
Khí cầu đang nằm trong nhà chờ.
- Anh bạn tốt Paolo Marini của ông vừa đến.
- Sao cơ?
- Một ông Paolo Marini nào đó. Ông ta nói mình là bạn tốt nhất của ông.
Eckener gập kính lại. Ông chỉ mất một giây phân vân rồi kêu toáng lên.
- Paolo! Ông già hướng đạo sinh! Bảo ông ấy là tôi ra ngay đây.
- Ông ấy không có vé, thưa chỉ huy. Ông ấy đang giải thích với nhân viên của SS.
- Thế còn tôi? Eckener nổi giận đứng bật dậy sau bàn. Thế tôi có vé à? Paolo, chính là tôi, là bạn tôi, là người anh em của tôi, Paolo Murini…
- Marini. Ông ấy nói là Marini.
- Marini, đúng rồi, tôi vừa nói thế mà. Ông bạn già trong đội hải ly của tôi… Tuyết rơi à, đội trưởng?
- Không. Chưa.
Đội trưởng Lehmann bỏ đi. Ông bắt đầu phải quen với những người bạn bỗng nhiên đông đúc mà chỉ huy không từ chối bao giờ này.
Eckener ngồi lại vào bàn làm việc và đảo mắt nhìn tấm bản đồ.
Ông chẳng biết ai có thể là cái ông Paolo ấy.
Ông chỉ biết rằng gần đây, những người bạn không quen biết đến với ông từ khắp mọi miền đất nước. Người đàn ông này là chỗ nương tựa, là nơi đón nhận tất cả những ai bị bọn quốc xã truy lùng. Có những người là cựu chiến binh, nghệ sĩ và ngày càng có nhiều dân Do Thái. Những đạo luật phản đối họ gia tăng. Họ bị cấm làm rất nhiều nghề. Họ không thể làm luật sư hay công chức… Và hai tháng trở lại đây, các lễ cưới hoặc bất kỳ mối quan hệ nào giữa người Do Thái và không Do Thái cũng bị cấm.
Eckener đang nỗ lực tận dụng ảnh hưởng của mình. Ông làm tất cả những gì có thể.
Dáng người sừng sững, hiên ngang của Hugo Eckener hãy còn có thể che chở cho rất nhiều người đang cần ông.
Eckener đi dọc khí cầu.
Màn đêm buông xuống. Trong hai giờ nữa, họ sẽ cất cánh.
Đó có thể là thời khắc vinh quang cuối cùng của Graf. Nó sẽ bay một chuyến ngắn đến New York, rồi trở về nghỉ đông bên bờ hồ Constance.
Mùa xuân tới, thế giới sẽ chỉ biết đến Hindenburg, quả khí cầu lớn nhất từng được chế tạo.
Con quái vật đã rậm rịch trong nhà chờ, ngay bên cạnh. Hai trăm năm mươi mét, hai mươi lăm cabin, năm mươi hành khách. Niềm vinh quang đẹp nhất của Hugo Eckener.
Nhưng khi bước ra và quay lại nhìn cái dáng vẻ lịch lãm của Graf, chỉ huy cảm thấy tim nhói đau. Ông thở dài.
Dự báo sẽ có tuyết rơi. Ông muốn điều đó trở thành hiện thực. Một ngày, đã lâu rồi, từ một trong những ô cửa sổ này, chính cái ô đó, ông đã chỉ cho Vango cách ngắm tuyết rơi.
Nếu đội trưởng Lehmann nghi ngờ về mối liên hệ gắn kết thực sự giữa Hugo Eckener và Paolo Marini thì mối nghi ấy tan biến ngay lập tức khi ông chứng kiến hai người hội ngộ nhau.
Những tiếng reo mừng và những dòng nước mắt thật chân thành. Họ ôm lấy nhau thật lâu.
Eckener, bên cửa nhà chờ, run lên vì sung sướng khi nhận ra người bạn lớn của mình.
- Ông thế nào rồi…, Paolo? Ông thế nào rồi, lão hải ly già?
- Tôi đến bay bổng một chút trong tay ông đây, chỉ huy của tôi!
Một nhóm nhỏ tập trung quanh họ. Đặc biệt, có mấy tên lính, vài hành khách người Đức, và viên sĩ quan SS chịu trách nhiệm kiểm soát hành khách.
Eckener thì thầm vào tai ông bạn:
- Ông điên rồi. Cần phải có hàng chục giấy phép cơ. Đi đi, Zefiro.
Zefiro, bởi vì đó chính là ông, đứng lùi xa ra, và lấy những người đang vây quanh mình làm nhân chứng:
- Mọi người thấy những gì ông bạn Hugo Eckener vừa nói với tôi không?
Eckener bất động.
- Ông ấy coi tôi là một thằng điên! Mọi người nghe thấy không? Ông ấy nói tôi không thể lên khí cầu.
Tên sĩ quan mặc đồng phục toét miệng cười ngớ ngẩn.
Trước vẻ hãi hùng của chỉ huy, Zefiro đặt tay lên vai ông.
- Tôi đùa đấy… Đó là lỗi của tôi. Tôi chẳng bao giờ báo tin tức gì cho ông cả mà có lẽ ông cũng chẳng đọc báo.
Ông ra hiệu cho tên sĩ quan.
- Anh cho ông ấy xem bức thư.
Eckener cầm lá thư trong tay rồi đọc nó.
Nó được viết bằng tiếng Đức và tiếng Ý. Bức thư đến từ đoàn chủ tịch Hội đồng, ở Rome. Đoàn chủ tịch trao cho ngài Paolo Marini, “huân chương chiến tranh Fusillini và huân chương Minestrone”, một nhiệm vụ đặc biệt vì tình hữu nghị giữa Đế chế và nước Ý phát xít vĩ đại, nhờ chuyến đi trên Khí cầu Graf, biểu tượng sức mạnh của chủ nghĩa quốc xã. Người ta còn có thể đọc được những cụm từ “liên minh vẻ vang của hai nước”, “niềm hy vọng bất tận” và “sự thuần khiết mãi mãi cho thế hệ trẻ” khiến ai cũng sẽ phải bật cười vì chúng bắt chước nguyên xi những bài diễn văn theo mốt.
Lá thư được ký bằng nét bút lông cầu kỳ, trên đó người ta có thể nhận ra từ “Bibi”. Nhưng những chữ in sẵn ngay bên trên chỉ rõ tên của Benito Mussolini.
Eckener gập lá thư lại.
Ông siết tay Zefiro.
- Vậy thì chào mừng ông, Paolo Marini. Có đúng một cabin trống cho ông. Chúng ta sẽ khởi hành trong một tiếng nữa.
Họ cùng nhau đi về phía văn phòng chỉ huy. Khi họ đi ngang qua, có thể nghe thấy giọng nói rộn ràng của Marini trầm trồ kinh ngạc trước vẻ đẹp của quả bóng.
Khi Eckener đóng cửa phòng lại, khi họ chỉ còn lại hai người, Zefiro mới xin lỗi Eckener. Ông đặt chiếc vali nhỏ xuống rồi đấm cho Eckener một quả vào mặt.
Eckener hơi loạng choạng trước khi tống sâu nắm đấm của mình vào bụng Zefiro. Zefiro gập người rồi đáp trả. Họ bắt đầu vật lộn như đang trong sân chơi.
Eckener là người đầu tiên ngã ra đất, quằn quoại, ho rũ rượi. Zefiro nhìn ông, sùi bọt mép, đứt hơi.
- Tôi đã làm gì ông cơ chứ? Eckener nói.
- Ông biết điều đó quá rõ.
- Không.
- Ông đã tiết lộ với cảnh sát vị trí của tu viện.
- Tôi nói cho Esquirol và Joseph biết để ông đi nhận diện Viktor mà.
- Viktor đã vượt ngục hôm qua rồi.
Eckener câm lặng.
- Tôi phải rời khỏi châu Âu, Zefiro nói. Cái tu viện ấy là cả cuộc đời tôi. Tôi không thể để nó gặp nguy hiểm.
- Tôi cũng thế, thưa cha, tôi chẳng có nhà ở đâu cả. Tôi không thừa nhận đất nước mình nữa rồi.
Zefiro cúi xuống đỡ Eckener dậy.
- Tôi đang làm tất cả những gì có thể, Eckener tiếp tục. Đối với tôi, nước Đức đang tuyên chiến với chính mình. Sáng hôm qua, cảnh sát đã đến xóa tên bạn chúng ta là Werner Mann trên đài tưởng niệm làng anh ấy, gần Munich. Cái họ Mann, ông nghe thấy chứ? Hitler đã ra cái lệnh đó cách đây ba ngày. Không một tên họ Do Thái nào được khắc trên đài tưởng niệm 1918.
Werner Mann, vị anh hùng hy sinh trong chiến đấu, người đã ký giao ước Violette với Zefiro và những người bạn của ông, vừa bị xóa tên khỏi lịch sử.
Hai ông bạn già giúp nhau phủi quần áo.
Zefiro lấy khăn mùi soa thấm chút máu trên môi Eckener.
- Tôi không làm phiền ông lâu đâu, Eckener. Tôi sẽ ở lại New York cả mùa đông. Không thể quay về tu viện vào lúc này. Tôi đang có những dự định.
- Phải khởi hành nhanh, Eckener nói. Lá thư giả của ông đúng là một tác phẩm tồi. Tôi không biết sao SS lại có thể chấp nhận chứ. Điều này có lẽ không kéo dài lâu đâu.
Cuối cùng Zefiro cũng nở một nụ cười.
- Dù sao thì tôi cũng khéo đấy chứ. Ông có nhìn thấy ở dòng thứ bảy không, tôi tự trao cho mình loại huân chương giăm bông mà tôi vẫn thích đấy!
Họ phá lên cười rồi lại nắm lấy tay nhau.
- Thế còn Vango? một lúc sau Eckener hỏi.
Zefiro im lặng.
- Có chuyện gì xảy ra với cậu bé à? Eckener gặng hỏi.
- Tôi sợ đã đẩy cậu ấy vào một câu chuyện bẩn thỉu.
Zefiro đang cố nắn lại chiếc mũ. Ông kể:
- Tôi đến nơi hẹn với Vango thì phát hiện ra mình bị theo dõi. Trong một nhà ga tại Paris. Tôi nhận ra một tên thợ ảnh trong đám đông, một gã tay chân của Viktor. Hắn giấu một khẩu súng dưới miếng vải che máy ảnh.
- Ông bỏ đi à?
- Quá muộn rồi. Tôi nhìn thấy Vango đi lại phía mình. Tôi đã phải làm như không quen biết cậu ấy.
- Không ai có thể biết được cậu ấy quen ông.
- Có chứ. Cậu ấy muốn nói chuyện với tôi. Cậu ấy tiến lại gần. Cậu ấy phấn khởi khi thấy tôi.
- Chúng sẽ không tìm ra cậu ấy đâu, Eckener hăng hái nhắc lại.
- Tôi nhìn thấy ánh sáng từ máy ảnh. Bọn chúng có bức ảnh rồi.
Nửa tiếng sau, khí cầu cất cánh. Tên sĩ quan SS gọi cho đại sứ quán Ý thông báo Paolo Marini nổi tiếng đã để quên chiếc măng tô trong nhà ga hàng không Friedrichshafen.
Tại đại sứ quán, cái tên ấy không có vẻ nổi tiếng chút nào. Không ai biết đến cái tên ấy. Nhưng khi tên sĩ quan thông báo tỉ mỉ danh sách huân huy chương của Paolo Marini, hắn nghe thấy đầu dây bên kia cười ré lên. Trong đống huân huy chương của Paolo có thứ dùng để làm hẳn một bữa tối ở Ý, từ món xúc xích cho đến món pannacotta tráng miệng.