Chương 31 CON ĐƯỜNG MÁU
Mátxcơva, một tháng sau, tháng Mười hai năm 1935
Cậu bé cuộn tròn trong tuyết. Cậu chừng bảy tuổi.
- Kostia, Kostia!
Người phụ nữ gọi cậu bé ngồi trên chiếc ghế băng phía bên kia lối đi, trên đầu gối bà là một bé gái, có lẽ là chị cậu bé ấy.
- Tioten’ka, cô nghĩ họ có đến không?
- Đừng lo. Họ luôn đến mà, người phụ nữ trả lời.
Tioten’ka rất dịu dàng. Cô bé rất yêu người phụ nữ này, người phụ nữ mới đến nhà chúng cách đây chừng năm hay sáu tuần gì đó.
Cô ấy từ đâu đến? Một người đàn ông đã mang cô ấy đến cho hai đứa trẻ vào một ngày tháng Mười. Cô ấy có cái giọng ngồ ngộ khi nói tiếng Nga. Người ta nói với cha mẹ chúng rằng từ nay trở đi cô sẽ sống ở nhà họ, rằng phải gọi cô là tioten’ka, cái tên có nghĩa là dì, để hàng xóm khỏi thắc mắc.
Bố mẹ chúng nhường cô chiếc giường lớn, chiếc giường ở phòng khách, nhưng cô từ chối và ở trong tủ tường nằm ở ngay lối vào, nơi cậu anh cả ngủ, cái hồi cậu còn ở nhà.
Cả nhà thôi không đối xử với cô như khách mời danh dự nữa. Cô tham gia nhiều hơn vào công việc nhà. Mọi người khó mà ngăn cô lại được. Ngoài căn phòng bé tẹo, tioten’ka còn thừa hưởng hai chiếc áo măng tô mùa đông của cậu con trai cả. Cả nhà vẫn luôn thật xúc động khi nhìn thấy chúng mắc trên móc cửa như trước kia.
Kostia run rẩy trở lại bên chiếc ghế băng.
- Cháu lạnh, cậu bé nói.
- Cháu cũng thế, cô chị Zoïa tiếp nối.
Người phụ nữ mở chiếc áo măng tô của mình ra và bọn trẻ chui tọt vào trong đó.
- Cô sẽ làm tiếp bánh ga tô trắng cho chúng cháu tối nay chứ? Kostia hỏi.
Thằng bé đã mơ tưởng tới bông hoa nhỏ bằng đường màu hoa cà, đặt trên lớp kem tươi.
Bởi lẽ Tioten’ka là một đầu bếp cừ khôi dường như bước ra từ chuyện cổ tích.
Khi đến công viên Sokolniki, hai lần mỗi tuần, Cô lại mặc hai chiếc áo măng tô quá khổ. Lớp da lông thú giữ ấm cho cô trong gió buốt. Một lớp trong chạm vào chiếc áo lót bằng vải bông, lớp kia, hướng ra ngoài, bạc trắng dưới màn sương giá. Cô dạo chơi cùng hai đứa trẻ Konstantin và Zoïa.
Cô biết mình bị theo dõi mỗi bước chân khi đi ra ngoài. Cô luôn tự hỏi kẻ qua đường nào trong số những người kia đang giám sát cô.
Khi bị bắt cóc ở Salina, cô sợ bị đày ra một cái trại phía bên kia vòng cực. Vậy mà cô lại ở giữa lòng Mátxcơva. Cô bị quản thúc trong một gia đình tại căn hộ bé tí tẹo, giữa lò sưởi than và những bức tường phủ hình các thánh.
- Họ đây rồi! Zoïa vừa kêu lên vừa chui ra khỏi cái tổ bằng da lông thú của mình.
Nó chạy đến gặp một cô bé khác vừa thả tay người phụ nữ đi cùng.
Lũ trẻ và những cô bảo mẫu ôm chầm lấy nhau rồi ngồi sát bên nhau trên chiếc ghế băng.
Cảnh tượng này diễn ra hai lần một tuần từ cả tháng nay rồi. Đó là tình bạn ngày thứ Tư và Chủ nhật giữa hai bé gái và hai người phụ nữ qua ánh mắt trìu mến của Kostia.
Cô bé kia tên là Svetlana, nhưng mọi người gọi cô bé bằng biệt danh Setanka.
Người bảo mẫu không nói gì về gia đình Setanka. Bà muốn nói về những thời xa xăm, khi bà còn thuộc về những dòng họ quý tộc ở Saint-Pétersbourg, trước cách mạng. Bà đã phục vụ những công nương, những diễn viên nhà hát… Thậm chí suýt nữa bà còn được đến Paris!
Cô hầu như không nói gì. Cô lắng nghe. Đôi khi cô rơi nước mắt. Cô thích những câu chuyện ngày xưa ấy.
Về phần mình, Zoïa và Setanka đang thì thầm. Một đứa nói về người anh đang đi vắng, còn đứa kia nói về một chàng trai mà nó gọi là Chim và chưa bao giờ gặp.
- Bọn chúng kể gì cho nhau nghe không biết? thỉnh thoảng bảo mẫu của Setanka lại liếc mắt, thì thào.
Hai cô bé thậm chí chẳng nghe thấy gì. Chúng say sưa nghe nhau nói. Cứ thế, các ngày thứ Tư và Chủ nhật, dần dần, những bí mật của chúng được đem ra trao đổi. Setanka hơi cảm mến người anh của Zoïa, và Zoïa thì thinh thích Chim của Setanka.
Trời bắt đầu tối.
Họ chia tay nhau ở cổng công viên. Một chiếc xe hơi màu đen luôn đợi Setanka và bảo mẫu trước hàng rào công viên.
Những người kia xuống tàu điện ngầm, bến Sokolniki. Họ rất thích tàu điện ngầm. Chuyến đầu tiên mở cửa vào mùa xuân vừa rồi.
- Nhìn kìa, Tioten’ka. Nhìn kìa!
Kostia chạy trong nhà ga, trông như một tòa lâu đài cẩm thạch màu xám.
Tối hôm đó, khi bước vào căn hộ tỏa mùi sáp ong chảy và nhựa hương, hai đứa trẻ thấy mẹ chúng đang rất xúc động.
- Có thư của anh các con đấy, bà nói với giọng vô hồn. Anh ấy gửi cho các con những nụ hôn.
- Con có thể đọc lá thư đó được không? Zoïa hỏi.
- Bữa tối đã sẵn sàng rồi.
Sau đó, bà không cho hai đứa con của mình đọc lá thư ấy nữa.
Đó là bức thư đầu tiên. Nó được chuyển qua những người hàng xóm để tránh bị cảnh sát mật tịch thu mất. Gia đình họ đang bị quản thúc.
Lạ thay, bức thư có dán tem của nước Anh.
Nửa đêm, khi người cha trở về sau một ngày làm việc, Cô, đã ngủ, nghe thấy đằng sau cánh cửa tủ mình nằm tiếng người mẹ chạy ào ra cửa.
- Có thư của con trai chúng ta, anh yêu. Thư của Andreï.
Một sự im lặng chất chứa như tiếng nức nở nghẹn ngào.
- Nó gặp chuyện chẳng lành, Andreï của chúng ta…
Cô nhìn ba chiếc đàn violon bé nhỏ treo trên tường, phía trên giường mình.
Paris, đêm hôm đó
Trong một quán cà phê dưới chân đồi Montmartre, ít phút trước khi bình minh hé rạng. Khách uống quá nhiều. Cá Nhám là người duy nhất thích xi rô lựu.
Bên cạnh cô, Boris Petrovitch Antonov gỡ cặp kính gọng sắt mỏng xuống. Hắn lấy tay vuốt bộ mặt màu sáp của mình và dụi đôi mắt vàng ti hí. Bàn tay kia của hắn trìu mến đặt trên tay Cá Nhám.
Hắn không muốn thả nó ra.
Mọi việc bắt đầu cách đó hai giờ.
Cá Nhám đang đợi trong cái máng hứng nước phía trên quán rượu Nga phố Liège. Hai chú mèo kiên nhẫn chờ cùng cô dưới tuyết. Tấm biển “Sherazade” sáng trưng vừa tắt. Bốn giờ sáng. Người đàn ông của cô vẫn chưa ra khỏi quán.
Cá Nhám theo dõi Boris Petrovitch Antonov với hy vọng hắn sẽ đưa cô đến với Andreï hoặc Vango.
Từ mấy tuần nay, cô bị mất dấu vết của Andreï chỉ vì một cuộc thăm viếng đột xuất. Cha mẹ Cá Nhám tạt qua thăm cô vài tiếng đồng hồ, điều này đã làm gián đoạn quá trình theo dõi của cô.
Cá Nhám thấy cha thay đổi, vẻ lo âu. Ông ngồi trước mặt cô. Ông thậm chí còn cởi cả áo măng tô và mũ ra nữa. Ông nói về việc buôn bán của mình, về dự định đi Mỹ. Ông nói vừa từ Francfort, Đức trở về. Người ta đã xóa tên ông trên những bức tường gạch nhà máy của ông và viết lên đó một cái tên khác hợp lý hơn.
Ông đã mất hết mọi thứ trên đất nước này.
- Anh vẫn còn nước Pháp mà, luôn luôn là thế! Và những nhà máy ở Bỉ nữa, vợ ông nói vọng ra từ phòng tắm.
Ông nhăn mặt. Ở Pháp, có dễ dàng đến thế đâu.
Rồi, ông đặc biệt dành nhiều phút nói chuyện với cô con gái. Ông ngạc nhiên nhìn cô như thể mới phát hiện ra cô vậy.
- Còn con, Emilie? Ổn chứ?
Cá Nhám không trả lời. Một cái tên, ba cái nháy mắt và hai câu hỏi không đủ để lấy lòng cô.
- Nếu họ lấy đi của ta tất cả, người cha nói, cả ba chúng ta sẽ ra đi.
Vợ ông cười rất to trước gương và cho ông là kẻ nhát gan. Bà bước ra với mùi hương hoa hồng phảng phất lẫn hoa nhài. Bà thậm chí còn chưa bỏ mũ len xuống, bà nói rằng có người đang đợi họ tới ăn tối trong thành phố.
Bà chỉ vuốt má con gái bằng chiếc găng tay hãy còn phấn.
- Gặp lại con sau nhé, thiên thần của ta.
Một tiếng sau, Cá Nhám nhận ra rằng Andreï không về căn phòng trọ trên phố Val-de-Grâce.
Một trong hai con mèo kêu meo meo bên cạnh Cá Nhám.
Không còn ai đi ra từ quán rượu Sherazade nữa. Vậy tên Boris Petrovitch Antonov nhỏ thó, đáng sợ đi đường nào nhỉ? Rõ ràng quá nửa đêm một chút, cô còn nhìn thấy hắn bước vào cơ mà.
Cá Nhám nhớ lại quãng thời gian khi cô thậm chí chẳng biết từ cô đơn có nghĩa là gì. Quãng thời gian cô sống lơ lửng trên cao, dưới là thành phố và con người, quãng thời gian cô chẳng hề đau khổ. Quãng thời gian ấy giờ đã ở rất xa phía sau cô.
Với sự biến mất của Vango, sự trở về Scotland của Ethel, và nhất là sự vắng mặt của anh chàng Andreï đẹp trai, Cá Nhám trở thành chuyên gia trong lĩnh vực cô đơn, một nhà vô địch thế giới. Nỗi trống trải cứ đeo đẳng cô.
Nhưng cô hồi sinh. Mặc dù những mối quan hệ dở dang hãy còn đó. Cô vẫn còn cảm nhận được chúng trên mắt cá chân và cổ tay mình. Tất cả những mối quan hệ ấy làm cô hạnh phúc. Cô có cảm giác như vừa thức dậy sau một giấc ngủ triền miên.
Cô quý Ethel, Vango. Giờ đây, cô yêu quý Andreï hơn tất thảy mọi thứ, ngay cả khi anh không hề biết đến sự tồn tại của cô.
Cá Nhám chúc hai con mèo ngủ ngon rồi lần xuống dọc cái ống kẽm.
Phải lại gần xem sao.
Phố vắng vẻ. Cô chạm mặt đất, tiến lên vài bước trên tuyết lại gần quán rượu. Cửa quán đột ngột bật mở khi cô đang ở giữa phố.
Họ chạm trán nhau.
Boris Petrovitch Antonov đi cùng một gã nữa.
Chúng ngừng nói khi trông thấy cô.
Thật khó đoán tuổi Cá Nhám, khi mà một nửa đàn ông cô gặp đều hỏi “Em bị lạc cha mẹ hả cô bé?” và một nửa còn lại sẽ hỏi “Tôi mời em một ly nhé, cưng?”. Cô chỉ cần thay đổi một chút tư thế hoặc nụ cười trên môi mà thôi.
Tay chống nạnh, cô tạo dáng sao cho hai gã đàn ông biến thành típ người thứ hai.
Boris Petrovitch Antonov chao đảo nhìn cô gái.
Mặt đường lấm tấm những vết chân đen trên tuyết.
Cái lạnh hay nỗi sợ. Boris không còn biết điều gì đang khiến vai hắn run lên nữa. Gã đàn ông đứng sau hắn giữ chặt khẩu súng đã lên đạn trong túi. Hắn tên là Vlad. Boris biết rõ hắn. Trong mối quan hệ giữa con người với nhau, hắn tử tế và văn minh như một con chim kền kền đang xẻ thịt.
Hắn được cử đến để kết liễu cuộc đời Boris.
Từ mấy tháng nay, Boris Petrovitch Antonov không gặt hái được kết quả gì trong cuộc truy tìm Vango. Vlad kền kền chắc chắn sẽ trừ khử hắn ở một góc phố nào đó và tiếp quản nhiệm vụ ấy.
Trong hai tiếng đồng hồ, ở một góc khuất quán Sherazade, Vlad cố gắng tóm lược các chi tiết trong tập hồ sơ. Hắn muốn nắm mọi đầu mối trước khi loại Boris. Nhưng Boris không nói nhiều. Hắn biết điều gì chờ đợi hắn sau cuộc nói chuyện.
Khi trong căn phòng đã tắt đèn, mấy cô vũ nữ cuối cùng choàng áo măng tô lên những chiếc váy ngắn đỏ nạm ngọc của mình, người ta yêu cầu những vị khách ở lại sau rốt rời khỏi quán rượu.
Lúc này cả ba đang đứng dưới cây đèn trên vỉa hè. Cô gái này là ai nhỉ?
- Cô không đến uống cùng chúng tôi ly cuối cùng à, Quý cô?
Đây là cơ hội sống sót cuối cùng của Boris. Vlad kền kền sẽ không giết hắn trước mặt một nhân chứng. Chắc chắn hắn đã được khuyến cáo phải hoàn toàn kín đáo. Nếu cô gái này chấp thuận, cô sẽ là vệ sĩ của hắn cho đến khi trời sáng mà không hay biết gì.
- Mặc kệ cô ta đi, kền kền nói.
Hắn chỉ nói tiếng Nga.
- Chúng ta đang ở Paris, Boris trả lời. Chúng ta không thể để mặc một cô gái xinh đẹp một mình được…
- Câm ngay. Nói cô ta đi đi!
Cô gái có vẻ hớn hở.
- Chỉ một ly thôi nhé. Tôi mệt, nhưng tôi không thích dạo chơi một mình vào ban đêm.
Vlad không kịp can thiệp. Cô chìa cánh tay mình cho Boris và hắn níu lấy nó với sức mạnh của nỗi tuyệt vọng.
- Cô có lý, hắn nói, đường phố không an toàn thật.
Rồi họ tìm kiếm hồi lâu một quán rượu còn mở cửa. Cuối cùng, họ tìm thấy một quán trên dốc Thánh Tâm.
Khi ngồi xuống, Cá Nhám cảm thấy hơi chóng mặt. Căn phòng bé tẹo và ám khói. Khách khứa nói chuyện ồn ào. Cô cảm thấy chứng sợ chỗ kín của mình đang dâng lên.
- Tôi phải ra ngoài, cô vừa nói vừa đứng dậy.
- Gì cơ?
Cô nhìn hai gã đàn ông và chỉ bằng một cái liếc mắt, cô phát hiện nỗi sợ hãi của Boris và sự mãn nguyện của Vlad. Hai mắt lim dim, cô từ từ thở ra giữa hai bờ môi.
- Một xi rô lựu đúp, cô nói.
Cá Nhám mạnh dạn ngồi phịch xuống ghế.
Chỉ vì vẻ mặt khoái chí của kền kền mà cô thay đổi ý định.
Vlad, điên tiết, cố gắng thu thập những thông tin cuối cùng mà hắn còn thiếu. Tiếp theo hắn phải tìm ra Andreï. Thằng oắt đó chẳng được trò trống gì mà lại còn biết quá nhiều chuyện.
Vlad nhận được lệnh loại bỏ cả hai nhân vật này.
- Thằng bé mà mày tuyển đi đâu rồi? Cái thằng nghệ sĩ violon ấy… Tao sẽ phải nói chuyện với nó nữa.
- Andreï hả?
Hai gã đàn ông nói chuyện bằng tiếng Nga nhưng Cá Nhám nhận ra cái tên Andreï. Cô ngừng uống xi rô lựu. Cô quên béng chứng sợ chỗ kín của mình. Ký ức về đôi mắt màu xám của Andreï đang hiện lên như mảnh kính ghép màu phía trên cô.
Boris đáp vài từ, trong đó cô nghe thấy “cuộc hẹn”.
Chắc chắn hắn vừa bảo Vlad phải tìm chàng trai chơi violon ở đâu và khi nào. Chính vì để biết điều đó mà cô đã đi theo chúng. Cá Nhám đoán biết được mối nguy hiểm đang rình rập Andreï.
Kền kền hiểu rằng hắn không còn khai thác được gì nữa từ Boris. Hắn đứng dậy ra hiệu hỏi chỗ để điện thoại. Người ta chỉ cho hắn chiếc cầu thang nhỏ đi xuống tầng hầm.
Một lúc sau, Cá Nhám nhận thấy lớp da màu sáp của Boris Petrovitch ướt đẫm mồ hôi.
- Tôi sẽ quay lại.
Cô thấy hắn cũng bỏ đi. Hắn đi lên cầu thang xoắn ốc nhỏ. Hắn chộp lấy con dao chặt thịt khi đi ngang qua bếp.
Cá Nhám nín thở.
Đám người đang cười nói bên quầy. Họ đến từ những tụ điểm chơi đêm của khu phố. Từ quán rượu Bông Đen hay từ Thiên thần Đỏ, sàn nhảy kèn túi vừa mở trên phố Fontaine. Cá Nhám chỉ biết những nơi này từ trên mái nhà, cô theo dõi những vụ ẩu đả giữa các băng nhóm ở mấy phố xung quanh. Hai năm trước đó, cô còn chứng kiến cuộc chiến giữa những người đảo Corse và người Parigots.
Mùi cà phê đang dần dần lan tỏa cả căn phòng. Trong góc phòng, một anh thợ cạo ống khói, lúc này hãy còn hoàn toàn sạch sẽ, đang nói chuyện với chị bán ga trải giường. Tất cả giống như bất kỳ buổi sáng tinh mơ nào ở Paris.
Cô mơ chăng? Cô đã thiếp đi hay sao?
Đột nhiên, kền kền xuất hiện trên bậc thang, nhăn nhó. Hắn ôm bụng như thể bị thương. Hắn thậm chí chẳng thèm liếc mắt đến Cá Nhám mà lao vội ra phố.
Đám khách hò hét.
Một người đàn ông bị chết được tìm thấy dưới tầng hầm.
Nỗi sợ hãi xâm chiếm cả gian phòng.
Bên ngoài, Cá Nhám chạy trên tuyết, được con đường nhỏ nhuốm máu kền kền dẫn lối.