- 5 - Bữa tiệc cocktail-
Trong những ngày tiếp theo, Lyra đi khắp nơi cùng với Phu nhân Coulter, như thể chính bản thân cô là một con linh thú vậy. Phu nhân Coulter biết rất nhiều người, họ gặp nhau ở đủ mọi kiểu địa điểm khác nhau. Vào buổi sáng có thể sẽ có một cuộc họp các nhà địa lí tại Viện Bắc Cực Hoàng Gia, Lyra sẽ ngồi yên lắng nghe; sau đó Phu nhân Coulter có thể dùng bữa trưa với một chính trị gia hoặc một mục sư tại nhà hàng sang trọng, họ sẽ thích thú với Lyra đến mức gọi những món đặc biệt cho cô bé, còn cô sẽ học cách ăn măng tây hay biết lá lách bê có vị như thế nào. Vào buổi chiều họ có thể sẽ lại đi mua sắm, vì Phu nhân Coulter đang chuẩn bị cho chuyến thám hiểm của mình, phải mua áo lông, áo vải dầu, giày bốt chống nước, rồi còn túi ngủ, dao, và đồ vẽ, thứ khiến Lyra cực kì phấn khích. Sau đó có thể họ sẽ đi dùng trà và gặp gỡ vài quý bà, dù có không xinh đẹp hay tài năng như Phu nhân Coulter thì cũng mặc đẹp không kém. Đó là những phụ nữ hoàn toàn khác các nữ học giả, những bà mẹ đi thuyền của dân du mục hay người phục vụ học viện, tới mức họ gần như là một giới tính mới, một giới tính với những uy quyền và phẩm chất lợi hại như thanh lịch, quyến rũ, và duyên dáng. Trong những dịp như thế này, Lyra sẽ được ăn vận lung linh, các quý bà sẽ chiều chuộng cô và để cô tham gia vào cuộc hội thoại tao nhã về đủ mọi người của họ: về người nghệ sĩ này, vị chính trị gia kia, hay đôi uyên ương nọ.
Rồi khi tối đến, Phu nhân Coulter có thể sẽ đưa Lyra đến rạp hát, và ở đó lại sẽ có rất nhiều những con người lộng lẫy để nói chuyện và để ngưỡng mộ, vì dường như Phu nhân Coulter biết tất cả những người quan trọng ở London này.
Vào những khoảng nghỉ giữa tất cả các hoạt động này, Phu nhân Coulter sẽ dạy cô những kiến thức sơ đẳng của địa lí và toán học. Kiến thức của Lyra về mảng này có nhiều lỗ hổng lớn, giống như một tấm bản đồ thế giới bị chuột gặm khắp nơi, vì ở Jordan người ta dạy cô theo một cách cục bộ và rời rạc: một Học giả trẻ tuổi sẽ nhận chỉ thị phải bắt được Lyra và dạy cô môn này môn kia, các buổi học sẽ diễn ra trong khoảng một tuần nặng nề cho tới khi cô bé “quên” không đến lớp, trước sự nhẹ nhõm của vị Học giả nọ. Hoặc không thì một Học giả sẽ quên mất phải dạy cô cái gì, và dồn rất nhiều thời gian để rèn cho cô về chủ đề nghiên cứu hiện tại của ông, dù cho nó có là cái gì đi nữa. Chẳng trách mà kiến thức của cô rất chắp vá. Cô biết về nguyên tử và các hạt cơ bản, về tích mạch từ, bốn lực cơ bản, thêm vài mẩu và mảnh khác của thần học thực nghiệm, nhưng lại chẳng biết gì về hệ mặt trời. Thực tế là, khi Phu nhân Coulter nhận ra điều này và giải thích việc trái đất và năm hành tinh khác quay quanh mặt trời như thế nào, Lyra còn tưởng bà đang đùa nên đã cười lớn.
Tuy nhiên, cô bé hăng hái thể hiện rằng mình cũng có chút hiểu biết, và khi Phu nhân Coulter đang giảng về electron, cô nói vẻ thành thạo: “Phải, chúng là các hạt mang mạch âm. Kiểu dạng như Bụi, chỉ khác là Bụi không có mạch.”
Ngay khi cô vừa nói vậy con linh thú của Phu nhân Coulter bật đầu dậy nhìn cô, tất cả đám lông vàng óng trên cơ thể nhỏ nhắn của nó dựng lên, cứng lại, như thể bị tích mạch vậy. Phu nhân Coulter đặt một tay lên lưng nó.
“Bụi ư?” Bà hỏi.
“Vâng. Bà biết đấy, từ vũ trụ, Bụi ấy mà.”
“Cháu biết gì về Bụi vậy, Lyra?”
“À, rằng nó đến từ vũ trụ, và nó chiếu sáng người ta, nếu bà có một loại máy ảnh đặc biệt để nhìn. Nhưng trẻ con thì không. Nó không tác động đến trẻ con.”
“Cháu học điều đó ở đâu vậy?”
Lúc này cô bé mới nhận ra rằng không khí trong phòng đang căng như dây đàn, vì Pantalaimon đã bò lên lòng cô trong dạng chồn ermine và đang run lẩy bẩy.
“Chỉ là từ một người ở Jordan thôi ạ,” Lyra mập mờ nói. “Cháu quên mất là ai rồi. Cháu nghĩ là một trong số các Học giả.”
“Tại một trong số những buổi học của cháu à?”
“Vâng, có lẽ là vậy. Hoặc không thì chắc là cháu tình cờ nghe được. Phải rồi. Cháu nghĩ là vậy đấy. Vị Học giả này, cháu nghĩ ông ấy đến từ Tân Đan Mạch, ông ấy đang trao đổi với Cha tuyên úy về Bụi đúng lúc cháu đi qua. Nghe thú vị đến mức cháu không thể không dừng lại lắng nghe. Là vậy đấy ạ.”
“Ta hiểu rồi,” Phu nhân Coulter nói.
“Có đúng không ạ, những điều ông ấy nói đó? Hay là cháu nghe nhầm?”
“Chà, ta không biết. Chắc hẳn là cháu biết nhiều hơn ta. Quay trở lại với các hạt electron thôi…”
Một lúc sau, Pantalaimon nói: “Cậu có biết lúc cả bộ lông con linh thú của bà ta dựng lên không? Tớ đang ở phía sau nó và thấy bà ta túm lông nó chặt đến nỗi các đốt ngón tay trắng bệch ra. Cậu không nhìn thấy điều đó. Phải một lúc lâu sau lông nó mới dịu xuống. Tớ cứ nghĩ nó sẽ lao vào cậu cơ.”
Điều đó quả là rất kì lạ, nhưng chẳng đứa nào biết phải hiểu nó như thế nào.
Rồi rốt cuộc cũng có những buổi học được dạy một cách thoải mái và khéo léo đến mức khiến chúng không giống học hành chút nào. Cách tự gội đầu; cách quyết định xem những màu nào hợp với nhau; cách từ chối một cách quyến rũ nhất để không gây mất lòng; cách đánh son, thoa phấn, xức nước hoa. Để chắc chắn, Phu nhân Coulter không trực tiếp dạy Lyra những kĩ năng cuối cùng, nhưng bà biết rằng Lyra có nhìn mình trang điểm nên đã lưu ý để Lyra thấy nơi mình cất đồ trang điểm, và cho cô bé thời gian ở một mình để khám phá và tự thử làm.
Thời gian trôi qua, xuân chuyển dần sang đông giá. Lyra vẫn thường xuyên nghĩ về Học viện Jordan, nhưng cảm giác đấy thật bé nhỏ và tĩnh lặng so với cuộc sống bận rộn của cô hiện tại. Cô cũng hay nghĩ tới Roger và cảm thấy bứt rứt, nhưng rồi lại có một buổi opera phải tham dự, hoặc bộ đầm mới để mặc, hay Viện Bắc Cực Hoàng Gia cần đến thăm, và cô lại quên bẵng mất cậu bé.
Khi Lyra đã sống ở đó được khoảng sáu tuần, Phu nhân Coulter quyết định tổ chức một bữa tiệc cocktail. Lyra có ấn tượng rằng bà muốn ăn mừng một điều gì đó, dù Phu nhân Coulter chưa từng nói đó là gì. Bà đặt hoa, thảo luận các món khai vị canapé* và đồ uống với người cung cấp thực phẩm, rồi dành cả buổi tối với Lyra để lên danh sách khách mời.
“Chúng ta phải mời Tổng giám mục. Ta không thể loại ông ta ra được, dù ông ta là một lão già hợm hĩnh đầy hận thù. Ngài Boreal đang ở trong thị trấn, có ông ấy sẽ rất vui. Cả Công chúa Postnikova nữa. Cháu nghĩ có nên mời Erik Andersson không? Ta tự hỏi liệu đã đến lúc chấp nhận cậu ta chưa…”
Erik Andersson là vũ công hợp mốt nổi tiếng nhất hiện nay. Lyra không hiểu “chấp nhận cậu ta” có nghĩa gì, dù vậy cô bé vẫn thích thú với việc đưa ra ý kiến của mình. Cô ngoan ngoãn viết ra tất cả những cái tên Phu nhân Coulter gợi ý, đánh vần chúng thật to rồi lại gạch đi khi Phu nhân Coulter đi đến quyết định không mời.
Khi Lyra lên giường ngủ, Pantalaimon thì thầm từ bên gối:
“Bà ta sẽ không bao giờ lên Phương Bắc đâu! Bà ta sẽ giữ chúng ta ở đây mãi mãi. Khi nào chúng ta chạy trốn vậy?”
“Bà ấy sẽ đi chứ,” Lyra thì thào lại. “Chỉ là cậu không thích bà ấy thôi. Chà, thật là không may. Tớ thì thích bà ấy. Mà nếu không định đưa chúng ta lên Phương Bắc thì bà ấy dạy chúng ta điều hướng và những thứ khác làm gì?”
“Để cậu khỏi sốt ruột, vậy đấy. Cậu thật sự đâu có muốn loanh quanh ở bữa tiệc cocktail, ra vẻ dễ thương và xinh xắn chứ. Bà ta chỉ coi cậu như thú kiểng thôi.”
Lyra quay lưng đi rồi nhắm mắt lại. Nhưng điều Pantalaimon nói là thật. Cô bé cảm thấy tù túng và bị giam cầm trong cái cuộc sống lịch thiệp này, dù cho nó có xa hoa đến đâu đi nữa. Cô sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để được một ngày với lũ bạn lang thang ở Oxford, với một trận chiến ở Claybeds và cuộc đua dọc kênh. Điều duy nhất khiến cô giữ thái độ lịch sự và ân cần với Phu nhân Coulter là niềm hi vọng khó cưỡng của chuyến hành trình Phương Bắc. Có lẽ họ sẽ gặp Ngài Asriel. Có lẽ ông ấy và Phu nhân Coulter sẽ say mê nhau, họ sẽ cưới và nhận nuôi Lyra, rồi sẽ đi giải cứu Roger khỏi Những Kẻ háu ăn.
Vào buổi chiều của bữa tiệc cocktail, Phu nhân Coulter đưa Lyra tới một hiệu làm đầu sang trọng, nơi mái tóc vàng sậm cứng quèo của cô được làm mềm và tạo sóng, móng tay cô được giũa và sơn bóng, họ thậm chí còn trang điểm chút ít lên mắt và môi cô để cho cô thấy cách làm. Rồi họ đi lấy bộ đầm mới mà Phu nhân Coulter đã đặt cho cô, mua vài đôi giày da láng bóng, rồi sau đó là đến giờ quay trở lại căn hộ, kiểm tra các bông hoa và thay đồ.
“Không cần cái túi đeo vai đâu, bé yêu,” Phu nhân Coulter nói khi Lyra bước ra khỏi phòng ngủ, ánh mắt lấp lánh đầy tự tin với vẻ đẹp của mình.
Lyra đã quen việc khoác chiếc túi da đeo vai nhỏ màu trắng đi khắp nơi để có thể giữ chiếc Chân Kế bên mình. Phu nhân Coulter đang gỡ bớt vài bông hồng ra khỏi bó hoa chật ních cắm trong bình, thấy rằng Lyra không động đậy mà chỉ nhìn chằm chằm về phía cửa.
“Ôi, cháu xin bà đấy, Phu nhân Coulter, cháu rất thích chiếc túi này!”
“Nhưng không phải ở trong nhà, Lyra ạ. Cháu trông thật kì cục khi mang túi đeo vai trong nhà của chính mình. Bỏ nó xuống ngay, rồi ra đây giúp ta kiểm tra những chiếc cốc này…”
Giọng điệu gắt gỏng của bà cũng không làm Lyra ngang ngạnh phản kháng như cụm từ “trong nhà của chính mình”. Pantalaimon lao xuống sàn rồi lập tức hóa thành một con chồn nâu, cong lưng dựa vào đôi tất nhỏ màu trắng dài đến mắt cá chân của cô bé. Được động viên, Lyra nói tiếp:
“Nhưng nó sẽ không vướng víu gì đâu ạ. Đây là cái duy nhất cháu thực sự thích đeo. Cháu nghĩ nó rất hợp với…”
Cô bé chưa kịp nói hết câu thì linh thú của Phu nhân Coulter đã xông ra khỏi ghế sofa như một khối lông mờ màu vàng và ghì Pantalaimon xuống thảm trước khi nó kịp phản ứng. Lyra giật mình thét lên, rồi nỗi sợ hãi và đau đớn bao trùm lấy cô khi thấy Pantalaimon vặn vẹo đủ hướng, la hét và gầm gừ, nhưng không thể nới lỏng gọng kìm của con khỉ vàng. Chỉ trong vài giây con khỉ đã chế ngự được Pantalaimon: với một bàn tay đen hung tợn kè cổ còn hai chân sau kẹp chặt lấy hai cẳng dưới của con chồn nâu, con khỉ dùng tay còn lại tóm lấy một bên tai của Pantalaimon và kéo như thể định giựt đứt ra vậy. Con khỉ không có vẻ giận dữ, nhưng thứ sức mạnh tàn nhẫn lạ lùng mà nó tỏa ra làm kinh sợ kẻ chứng kiến, và khiến kẻ phải chịu đựng còn cảm thấy khủng khiếp hơn.
Lyra khóc nức nở vì kinh hãi.
“Đừng! Làm ơn! Đừng làm đau chúng cháu!”
Phu nhân Coulter rời mắt khỏi những bông hoa của bà.
“Vậy thì làm như ta bảo đi,” bà nói.
“Cháu hứa mà!”
Con khỉ vàng rời khỏi Pantalaimon cứ như đột nhiên nó thấy mất hứng vậy. Pantalaimon lập tức chạy về phía Lyra. Cô bế nó lên gần mặt để hôn và vuốt ve con vật tội nghiệp.
“Nào, Lyra,” Phu nhân Coulter nhắc.
Lyra quay ngoắt đi rồi lao vào phòng ngủ, nhưng vừa đóng rầm cửa lại sau lưng thì nó lại bật mở ra. Phu nhân Coulter đang đứng đó chỉ cách có một vài bước.
“Lyra, nếu cháu cư xử lỗ mãng và hư hỏng như thế này thì chúng ta sẽ phải đối đầu nhau, và ta sẽ thắng. Bỏ cái túi đó ra ngay lập tức. Kiềm chế cái vẻ nhăn nhó khó ưa đấy đi. Dù ta có nghe thấy hay không thì cũng cấm được đóng sầm cửa lại nữa. Những vị khách đầu tiên sẽ đến trong vài phút nữa, và họ sẽ phải thấy cháu cư xử chuẩn mực, đáng yêu, cuốn hút, ngây thơ, ân cần và vui vẻ. Ta đặc biệt mong muốn điều đó, Lyra ạ, cháu hiểu ý ta chứ?”
“Vâng, thưa Phu nhân Coulter.”
“Vậy hãy hôn ta nào.”
Bà khẽ cúi xuống và chìa má ra. Lyra phải nhón chân lên để hôn lên đó. Cô bé nhận thấy sự mịn màng của nó và thứ mùi có phần khó hiểu tỏa ra từ da bà: thơm phức, nhưng lại có mùi như kim loại. Cô bé lùi lại đặt chiếc túi đeo vai lên bàn trang điểm trước khi theo Phu nhân Coulter trở lại phòng khách.
“Cháu nghĩ thế nào về những bông hoa này, bé yêu?” Phu nhân Coulter nói ngọt xớt như chưa hề có chuyện gì xảy ra. “Ta cho rằng người ta không thể phạm sai lầm với hoa hồng, nhưng lại có thể có quá nhiều thứ đẹp đẽ… Những người cung cấp thực phẩm đã mang đủ đá đến chưa nhỉ? Ngoan đi hỏi giùm ta nhé. Phải uống đồ ấm thì thật là kinh khủng…”
Lyra thấy khá dễ dàng để giả vờ vui vẻ và quyến rũ, dù từng giây một cô bé đều nhận thức rõ nỗi ghê tởm của Pantalaimon và sự căm ghét nó dành cho con khỉ vàng. Ngay lập tức chuông cửa vang lên, rồi chẳng mấy chốc căn phòng đã ngập tràn những quý bà ăn vận thời thượng và các quý ông đẹp trai hoặc ưu tú. Lyra len vào giữa đám đông, mời chào các món canapé hay cười duyên dáng và trả lời một cách khéo léo khi được hỏi đến. Cô bé cảm thấy như một con thú kiểng của chung vậy. Vừa tự nghĩ như vậy thì Pantalaimon sải đôi cánh chim kim oanh của mình ra và líu lo liên hồi.
Cô cảm nhận được sự hân hoan của Pantalaimon khi nó chứng tỏ được với cô là mình đã nói đúng, và cô trở nên khiêm tốn hơn một chút.
“Vậy cháu đang học ở đâu thế, cháu gái?” Một phụ nữ lớn tuổi hỏi khi xem xét Lyra qua một chiếc kính cầm tay.
“Cháu không đi học ạ,” Lyra trả lời.
“Thật sao? Ta cứ nghĩ mẹ cháu sẽ phải gửi cháu đi học ở trường cũ của bà ấy chứ. Đó là một nơi rất tuyệt…”
Lyra bị bối rối một chút cho tới khi nhận ra sự nhầm lẫn của bà cụ.
“À! Bà ấy không phải mẹ của cháu đâu! Cháu chỉ ở đây giúp bà ấy thôi. Cháu là trợ lí riêng của bà ấy,” cô bé long trọng thông báo.
“Ta hiểu rồi. Vậy gia tộc của cháu là gì?”
Một lần nữa Lyra lại phải tự hỏi ý bà ấy là gì trước khi trả lời.
“Là một bá tước và nữ bá tước,” cô đáp. “Cả hai đều qua đời trong một tai nạn hàng không ở Phương Bắc.”
“Bá tước nào cơ?”
“Bá tước Belacqua ạ. Ông ấy là em trai của Ngài Asriel.”
Linh thú của bà cụ, một con vẹt đuôi dài màu đỏ rực, cứ nhấp nhổm từ chân này sang chân khác như đang cáu bẳn gì đó. Bà cụ đang bắt đầu chau mày vì tò mò nên Lyra liền cười duyên dáng rồi đi tiếp.
Cô bé đang đi qua một nhóm đàn ông và một phụ nữ trẻ gần chiếc sofa lớn thì nghe thấy từ Bụi. Giờ cô đã chứng kiến xã hội thượng lưu đủ nhiều để có thể hiểu được khi nào thì đàn ông và phụ nữ tán tỉnh nhau. Cô đứng ngẩn người quan sát quá trình đó, mặc dù việc họ nhắc đến Bụi khiến cô quan tâm nhiều hơn nên đã dừng lại để nghe. Những người đàn ông trông có vẻ là các học giả; và từ cách người phụ nữ trẻ đặt câu hỏi cho họ, Lyra đoán đó là một sinh viên nào đó.
“Nó được một người Muscovy phát hiện - cứ bảo tôi dừng lại nếu cô đã biết về điều này nhé…” Một người đàn ông trung tuổi nói trong lúc người phụ nữ trẻ nhìn ông đầy ngưỡng mộ: “… một người đàn ông tên là Rusakov, chúng thường được gọi là các Hạt Rusakov theo tên ông ta. Chúng là những hạt cơ bản không tương tác với các hạt khác theo bất cứ cách nào - rất khó dò được, nhưng điều lạ thường là chúng dường như bị con người thu hút.”
“Thật sao?” Người phụ nữ trẻ thốt lên, mắt mở to kinh ngạc.
“Và còn lạ kì hơn nữa,” ông nói tiếp, “là người này lại thu hút nhiều hơn người khác. Người lớn thu hút chúng, nhưng trẻ con thì không. Ít nhất là không nhiều, cho đến khi chúng vào tuổi dậy thì. Trên thực tế, đó chính là lí do…” Ông hạ giọng rồi tiến gần tới người phụ nữ trẻ, thân mật đặt bàn tay lên vai cô: “Đó chính là lí do Ủy ban Hiến tế được thành lập. Như vị chủ nhà tốt bụng của chúng ta đây có thể kể với cô.”
“Thật ư? Bà ấy có liên quan đến Ủy ban Hiến tế sao?”
“Cô bé à, bà ấy chính là Ủy ban Hiến tế đó. Nó hoàn toàn là dự án riêng của bà ấy…”
Người đàn ông đang định nói thêm thì nhìn thấy Lyra. Cô nhìn lại ông ta không chớp mắt. Có lẽ ông đã uống hơi quá mức, hoặc có thể đang muốn gây ấn tượng với người phụ nữ trẻ nên ông đã nói:
“Quý cô nhỏ tuổi này biết toàn bộ câu chuyện, ta dám đảm bảo thế. Cháu không bị Ủy ban Hiến tế gây nguy hiểm đúng không, cháu bé?”
“Ồ vâng,” Lyra nói. “Cháu không bị ai ở đây gây nguy hiểm hết. Chỗ hồi xưa cháu từng sống, ở Oxford, có đủ mọi thể loại hiểm nguy. Có đám dân du mục bắt cóc trẻ con rồi bán cho dân Turk làm nô lệ. Rồi trên Port Meadow vào đêm trăng rằm có một tên người sói xông ra khỏi một nữ tu viện cổ ở Godstow. Cháu có nghe thấy hắn hú một lần. Và còn có cả Những Kẻ háu ăn…”
“Đó là điều ta muốn nói,” người đàn ông nói. “Đấy chẳng phải là cái tên người ta dùng để gọi Ủy ban Hiến tế sao?”
Lyra cảm thấy Pantalaimon đột nhiên run lên bần bật, nhưng vẫn giữ thái độ bình tĩnh. Linh thú của hai người lớn, một con mèo và một con bướm, dường như không nhận ra.
“Những Kẻ háu ăn à?” Người phụ nữ trẻ nói. “Một cái tên kì cục! Sao người ta lại gọi họ là Những Kẻ háu ăn?”
Lyra đang định kể cho cô gái nghe một trong những câu chuyện hãi hùng cô bịa ra để dọa lũ trẻ ở Oxford thì người đàn ông đã lên tiếng trước.
“Từ bản chất của chúng, hai người có thấy không? Tổng Ủy ban Hiến tế. Thực tế là một ý tưởng xưa lắm rồi. Vào thời Trung Cổ, cha mẹ sẽ dâng con cho nhà thờ để làm thầy tăng hoặc nữ tu sĩ. Đám trẻ hư không may mắn sẽ được biết đến như vật tế. Có nghĩa là một vật hi sinh, một món lễ vật, kiểu dạng như vậy. Vậy là cùng một ý tưởng đó được áp dụng khi họ xem xét về vấn đề của Bụi… Có lẽ cô bạn bé nhỏ của chúng ta cũng biết điều này. Sao cháu không đi nói chuyện với Ngài Boreal đi?” Ông nói trực tiếp với Lyra. “Ta tin chắc ông ấy sẽ muốn được gặp người mà Phu nhân Coulter bảo hộ… Là ông ấy đấy, người đàn ông với mái tóc hoa râm và con linh thú rắn kìa.”
Ông ta muốn đuổi khéo Lyra đi để có thể nói chuyện riêng tư hơn với người phụ nữ trẻ; cô bé có thể dễ dàng nhận ra điều đó. Nhưng người phụ nữ dường như vẫn có hứng thú với Lyra nên đã trốn khỏi người đàn ông để nói chuyện với cô.
“Gượm đã… Tên cháu là gì?”
“Lyra ạ.”
“Cô là Adèle Starminster. Cô là phóng viên. Cô có thể nói chuyện riêng với cháu một chút không?”
Nghĩ rằng việc mọi người muốn nói chuyện với mình là điều tự nhiên nên Lyra chỉ đơn giản đáp: “Vâng.”
Linh thú bươm bướm của người phụ nữ bay lên không trung, lượn trái phải rồi rập rờn bay xuống thì thầm điều gì đó, nghe xong Adèle Starminster liền nói: “Ra phía ghế bên cửa sổ đi.”
Đó là chỗ yêu thích của Lyra; nơi nhìn xuống con sông chảy bên dưới. Vào thời điểm này của ban đêm, những ngọn đèn bắc ngang bờ nam đang lấp lánh rực rỡ phía trên ánh phản chiếu của chúng lên mặt nước đen của thủy triều dâng cao. Một dãy sà lan đang được tàu lai kéo ngược dòng. Adèle Starminster ngồi xuống rồi dịch người trên chiếc ghế bọc đệm để dành chỗ cho Lyra.
“Có phải Giáo sư Docker đã nói là cháu có quan hệ với Phu nhân Coulter không?”
“Vâng ạ.”
“Là gì vậy? Cháu không phải là con gái bà ấy hay đại loại thế chứ? Cô nghĩ mình sẽ biết…”
“Không phải!” Lyra nói. “Hẳn nhiên là không rồi. Cháu là trợ lí riêng của bà ấy.”
“Trợ lí riêng à? Không phải cháu còn hơi nhỏ sao? Cô cứ nghĩ cháu là họ hàng của bà ấy hay gì đó. Bà ấy là người thế nào?”
“Bà ấy rất thông minh,” Lyra đáp. Nếu là trước buổi tối ngày hôm nay thì cô hẳn đã nói nhiều hơn thế, nhưng mọi thứ đang dần thay đổi.
“Phải rồi, nhưng về cá nhân cơ,” Adèle Starminster gặng hỏi. “Ý cô là, bà ấy có thân thiện hay nóng nảy gì không? Cháu sống ở đây với bà ấy à? Trong đời sống riêng tư bà ấy là người thế nào?”
“Bà ấy rất tốt,” Lyra tỉnh queo đáp.
“Cháu làm kiểu việc gì? Làm thế nào cháu giúp được bà ấy?”
“Cháu làm các phép tính và đủ việc khác. Kiểu như là để điều hướng.”
“À, cô hiểu rồi… Vậy cháu đến từ đâu? Tên cháu là gì ấy nhỉ?”
“Lyra. Cháu đến từ Oxford.”
“Tại sao Phu nhân Coulter lại chọn cháu…”
Người phụ nữ đột ngột dừng lại, vì chính Phu nhân Coulter đã tới gần đó. Từ cách Adèle Starminster nhìn lên phía bà và cách con linh thú lượn lờ một cách bồn chồn quanh đầu cô, Lyra có thể đoán rằng người phụ nữ trẻ đáng ra không được phép xuất hiện ở bữa tiệc.
“Ta không biết tên cô,” Phu nhân Coulter nói rất khẽ, “nhưng ta sẽ tìm ra chỉ trong năm phút, sau đó cô sẽ không bao giờ được làm phóng viên nữa. Giờ thì yên lặng đứng dậy, đừng có làm ầm lên, và ra khỏi đây. Ta cũng nói thêm là bất cứ ai đưa cô đến đây cũng sẽ bị trừng phạt.”
Phu nhân Coulter dường như bị tích một loại năng lượng mạch nào đó. Bà thậm chí còn có mùi khác lạ: một mùi nóng giống như kim loại bị đun tỏa ra từ người bà. Trước đó Lyra đã nhận ra đôi chút về điều này, nhưng giờ cô đang chứng kiến nó hướng thẳng vào người khác. Adèle Starminster tội nghiệp chẳng có cách nào chống trả. Linh thú của cô nằm mềm oặt trên vai, đập đôi cánh lộng lẫy của mình một vài lần trước khi lịm đi, còn bản thân người phụ nữ thì dường như không thể đứng thẳng lên nổi. Vừa nép mình di chuyển một cách ngượng nghịu, cô gái vừa len qua đám đông khách khứa đang nói chuyện ồn ã và ra khỏi cửa phòng khách. Một tay cô tóm chặt lấy vai, giữ cho con linh thú đang bất tỉnh khỏi bị rơi.
“Sao nào?” Phu nhân Coulter nói với Lyra.
“Cháu không hề nói gì quan trọng với cô ta cả,” Lyra nói.
“Cô ta hỏi những gì?”
“Chỉ về việc cháu đang làm gì ở đây và cháu là ai, kiểu như vậy thôi ạ.”
Khi nói vậy, Lyra nhận thấy Phu nhân Coulter chỉ có một mình, không thấy con linh thú đâu. Sao lại có thể như vậy được? Nhưng một lúc sau con khỉ vàng đã xuất hiện bên cạnh bà. Bà cúi xuống cầm tay nó rồi khẽ quăng nó lên vai. Ngay lập tức trông bà đã thoải mái hơn.
“Cháu yêu, nếu cháu có gặp ai đó rõ ràng là không được mời thì nhớ đến tìm ta ngay, được chứ?”
Mùi kim loại nóng cũng đã biến mất. Có lẽ chỉ là do Lyra tự tưởng tượng ra. Cô lại có thể ngửi thấy mùi của Phu nhân Coulter, mùi những bông hồng, mùi khói xì gà mini, và cả mùi của những phụ nữ khác nữa. Phu nhân Coulter cười với Lyra theo cách dường như ám chỉ rằng: “Cháu và ta đều hiểu những điều này, phải không?” rồi tiếp tục đi chào hỏi các vị khách khác.
Pantalaimon thì thầm vào tai Lyra.
“Trong lúc bà ta ở đây, con linh thú kia đã đi ra từ phòng ngủ của chúng ta. Nó đang rình mò đấy. Nó biết về cái Chân Kế!”
Lyra cảm thấy rằng đó có thể là sự thật, nhưng cô bé chẳng thể làm được gì. Ông Giáo sư kia đã nói gì về Những Kẻ háu ăn ấy nhỉ? Cô bé ngó quanh để tìm ông ta, nhưng khi vừa thấy ông ta thì người gác dan (trong trang phục buổi tối của người phục vụ) cùng một người đàn ông khác vỗ vai Giáo sư và nói nhỏ gì đó với ông, khiến ông biến sắc rồi theo họ ra ngoài. Sự việc chỉ diễn ra trong vài giây, và được tiến hành kín đáo đến mức gần như chẳng ai nhận ra nhưng lại khiến Lyra cảm thấy lo lắng và sợ hãi.
Cô bé đi thẩn thơ qua hai gian phòng lớn tổ chức tiệc, nửa lắng nghe những cuộc đàm thoại diễn ra xung quanh, nửa tò mò về vị của những món cocktail mà cô không được phép thử, càng lúc càng thấy bực bội. Cô không hề để ý thấy có ai đó đang quan sát mình cho đến khi người gác dan xuất hiện bên cạnh cô và cúi xuống nói:
“Tiểu thư Lyra, quý ông bên lò sưởi muốn nói chuyện với cô. Nếu cô không biết thì ông ấy là Ngài Boreal.”
Lyra nhìn qua gian phòng. Người đàn ông tóc hoa râm vẻ đầy uy quyền đang nhìn thẳng vào cô. Khi mắt hai người chạm nhau, ông gật đầu ra hiệu cho cô.
Dù không muốn, nhưng giờ đã thấy hứng thú hơn, cô tới chỗ người đàn ông.
“Chào buổi tối, cháu gái,” ông nói. Giọng ông dịu dàng nhưng lại rất uy nghiêm. Cái đầu giáp sắt và đôi mắt màu ngọc lục bảo của con linh thú rắn lấp lánh dưới ánh sáng từ chiếc đèn chụp thủy tinh trên bức tường gần đó.
“Chào buổi tối,” Lyra đáp lại.
“Ông Hiệu trưởng Jordan bạn cũ của ta thế nào rồi?”
“Ông ấy rất khỏe ạ, cảm ơn ông.”
“Ta đoán họ đều rất buồn vì phải chia tay với cháu.”
“Vâng ạ.”
“Vậy Phu nhân Coulter có làm cháu bận rộn không? Bà ấy đang dạy cháu cái gì vậy?”
Vì Lyra đang thấy bực dọc và muốn chống đối nên cô đã không trả lời câu hỏi mang vẻ bề trên kia một cách thành thật, mà cũng không dùng trí tưởng tượng bay bổng thường ngày của mình. Thay vào đó cô nói: “Cháu đang học về các Hạt Rusakov và về Ủy ban Hiến tế ạ.”
Ông lập tức tỏ ra tập trung, theo cùng một cách mà người ta tập trung chùm tia sáng của một chiếc đèn mạch vậy. Toàn bộ sự chú ý của ông đổ dồn vào cô bé một cách dữ dội.
“Nói cho ta nghe cháu biết những gì đi,” ông đề nghị.
“Người ta đang làm thí nghiệm ở Phương Bắc,” Lyra nói. Giờ thì cô không còn thấy lo lắng gì nữa. “Như Tiến sĩ Grumman đó.”
“Tiếp tục đi.”
“Họ đã chụp được một bức ảnh đặc biệt thể hiện sự tồn tại của Bụi, và khi nhìn vào đó, ta có thể thấy một người đàn ông được bao phủ bởi ánh sáng, nhưng lại chẳng có gì trên đứa bé cả. Ít nhất là cũng không nhiều lắm.”
“Phu nhân Coulter đã cho cháu xem một bức như vậy à?”
Lyra do dự, vì đây không phải là nói dối mà là một thứ khác, và cô chưa từng thực hành nó.
“Không ạ,” một lúc sau cô nói. “Cháu thấy bức đó ở Học viện Jordan.”
“Ai cho cháu xem vậy?”
“Không hẳn là cháu được cho xem,” Lyra thừa nhận. “Cháu chỉ đi qua và tình cờ nhìn thấy. Rồi sau đó Roger bạn cháu bị Ủy ban Hiến tế bắt đi. Nhưng…”
“Ai cho cháu xem tấm ảnh đó?”
“Bác Asriel của cháu.”
“Khi nào?”
“Khi bác ấy đến Học viện Jordan lần trước.”
“Ta hiểu rồi. Cháu còn học về thứ gì nữa? Có phải ta vừa nghe cháu nhắc đến Ủy ban Hiến tế không?”
“Vâng. Nhưng cháu không nghe về nó từ bác ấy, cháu nghe được ở đây ạ.”
Đó là sự thật, cô bé nghĩ.
Ông đang quan sát cô bé thật kĩ. Cô nhìn lại ông với tất cả sự ngây thơ mà mình có. Cuối cùng ông cũng gật đầu.
“Vậy thì Phu nhân Coulter hẳn đã quyết định là cháu đã sẵn sàng giúp bà ấy trong công việc đó. Thú vị đấy. Cháu tham gia vào đó chưa?”
“Chưa ạ,” Lyra đáp. Ông ta đang nói về cái gì vậy? Pantalaimon đã khôn ngoan biến thành dạng kém biểu cảm nhất, một con bướm đêm, để không làm lộ cảm xúc của cô. Còn cô bé thì tự tin rằng mình có thể giữ gương mặt ngây ngô.
“Bà ấy có nói với cháu chuyện gì sẽ xảy ra với đám trẻ không?”
“Không ạ, bà ấy chưa nói gì cả. Cháu chỉ biết là nó có liên quan đến Bụi thôi, và đám trẻ giống như một loại vật hi sinh vậy.”
Một lần nữa, đó cũng không hẳn là một câu nói dối, cô bé nghĩ; cô đâu có nói là chính Phu nhân Coulter đã nói với mình như vậy đâu.
“Nói là hi sinh thì có phần hơi bị cường điệu quá. Việc làm đó là để tốt cho đám trẻ và cả chúng ta nữa. Và đương nhiên là chúng đều tự nguyện đến với Phu nhân Coulter. Chính vì vậy nên bà ấy mới đáng quý. Chúng chắc chắn muốn tham gia, đứa trẻ nào có thể cưỡng lại bà ấy được cơ chứ? Nếu bà ấy định dùng cháu để thu hút lũ trẻ nữa thì càng tốt. Ta rất hài lòng.”
Cái cách ông ta cười với cô rất giống Phu nhân Coulter: cứ như cả hai đang nắm chung một bí mật vậy. Cô bé lễ phép mỉm cười lại. Sau đó ông quay đi nói chuyện với người khác.
Cô bé và Pantalaimon có thể cảm nhận được nỗi khiếp sợ của nhau. Cô muốn đi đâu đó một mình để nói chuyện với nó, muốn rời khỏi căn hộ, muốn quay trở lại Học viện Jordan và phòng ngủ nhỏ xíu tồi tàn của mình trên Cầu thang Số mười hai, muốn tìm Ngài Asriel…
Dường như để đáp lại điều ước cuối cùng đó, cô nghe thấy tên ông được nhắc đến. Cô liền viện cớ đi lấy một món canapé trên bàn để mon men đến gần nhóm người đang nói chuyện cạnh đó. Một người đàn ông trong áo giám mục màu tím đang nói:
“… Không, tôi cho rằng trong một thời gian nữa Ngài Asriel sẽ không thể làm phiền được chúng ta đâu.”
“Ông nói ông ta đang bị giữ ở đâu ấy nhỉ?”
“Trong pháo đài ở Svalbard, tôi được thông báo như thế. Bị panserbjørne canh gác, các vị biết đấy, lũ gấu mặc giáp. Những sinh vật dữ tợn! Có sống được tới nghìn năm thì ông ta cũng không thể thoát khỏi chúng đâu. Thật ra tôi thực sự nghĩ đường đã gần như thông thoáng lắm rồi…”
“Những thí nghiệm gần đây nhất đã khẳng định điều tôi luôn tin tưởng - rằng Bụi là một hạt phát ra từ chính nguyên lí tối, và…”
“Có phải tôi vừa thấy có mùi Hỏa yêu giáo* không?”
“Thứ từng là một yêu giáo…”
“Vậy nếu chúng ta có thể tách riêng nguyên lí tối ra…”
“Ông vừa nói Svalbard à?”
“Bọn gấu mặc giáp…”
“Ủy ban Hiến tế…”
“Bọn trẻ không bị đau đớn gì đâu, tôi đảm bảo đấy…”
“Ngài Asriel bị giam cầm…”
Lyra đã nghe quá đủ rồi. Cô bé quay đi, di chuyển khẽ khàng không kém Pantalaimon dạng bướm đêm vào phòng ngủ rồi đóng cửa lại. Tiếng ồn từ bữa tiệc lập tức dịu đi.
“Tính sao?” Cô thì thầm. Pantalaimon đã biến thành một chú chim kim oanh đậu trên vai cô.
“Chúng ta sẽ chạy trốn chứ?” Nó thì thầm lại.
“Hẳn rồi. Nếu chúng ta đi ngay bây giờ trong lúc còn đang đông khách, bà ta có thể sẽ mất một lúc mới nhận ra được.”
“Nó thì khác đấy.”
Ý Pantalaimon là con linh thú của Phu nhân Coulter. Vừa nghĩ tới hình dạng vàng ươm yểu điệu của nó, Lyra liền thấy nôn nao vì sợ.
“Lần này tớ sẽ chiến đấu với nó,” Pantalaimon mạnh bạo nói. “Tớ có thể biến đổi hình dạng còn nó thì không. Tớ sẽ biến hình nhanh đến mức nó không tóm được. Lần này tớ sẽ thắng, rồi cậu xem.”
Lyra gật đầu nhưng không chú tâm lắm. Cô bé nên mặc gì nhỉ? Làm thế nào để ra ngoài mà không bị phát hiện?
“Cậu sẽ phải đi nghe ngóng xem thế nào,” cô thì thầm. “Chúng ta sẽ phải chuồn ngay khi thông thoáng. Biến thành bướm đêm đi,” cô nói thêm. “Nhớ này, vào giây phút không có ai nhìn…”
Cô mở hé cửa để Pantalaimon luồn qua. Bóng nó tối thẫm trong ánh sáng màu hồng ấm áp của khu hành lang.
Trong lúc đó, cô bé vội vàng khoác lên bộ quần áo ấm nhất mình có rồi nhét thêm vài cái vào một trong những chiếc túi lụa than của cửa hàng sang trọng mà họ đã ghé qua đúng vào chiều hôm đó. Phu nhân Coulter cho cô tiền dễ dàng như cho kẹo, đến mức dù đã tiêu xài hoang phí, cô vẫn còn vài đồng vàng cất trong túi áo khoác da sói màu sậm của mình.
Cuối cùng cô bọc chiếc Chân Kế trong lớp vải nhung đen của nó. Liệu con khỉ ghê tởm đó đã phát hiện ra chưa nhỉ? Hẳn là nó đã thấy; hẳn là nó đã kể với bà ta; ôi, giá mà cô giấu kĩ hơn!
Cô bước nhón chân tới cửa. Rất may là phòng của cô mở ra cuối khu hành lang gần Đại sảnh nhất, trong khi hầu hết khách khứa đều ở trong hai gian phòng lớn cách đó khá xa. Có tiếng nói chuyện ồn ào, tiếng cười, tiếng giật nước khẽ của bồn cầu, tiếng leng keng của cốc thủy tinh, và rồi một giọng bướm đêm nhỏ xíu vang lên bên tai cô:
“Đến lúc rồi! Nhanh lên!”
Cô luồn qua cửa vào trong Đại sảnh. Chưa đầy ba giây sau, cô đã đang mở cửa trước của căn hộ, luồn qua rồi đóng lại thật khẽ. Cùng với Pantalaimon trong dạng chim kim oanh, cô bé lao tới cầu thang và chạy trốn.