← Quay lại trang sách

- 6 - Lưới ném-

Cô bé vội vàng rời xa dòng sông, vì Đê vừa rộng vừa sáng trưng. Giữa chỗ đó và Viện Bắc Cực Hoàng Gia là một loạt những con phố nhỏ đan xen nhau. Viện là nơi duy nhất Lyra biết chắc mình có thể tìm được, nên cô đã không ngần ngại lao vào cái mê cung tối đen đó.

Giá mà cô biết rõ London như Oxford! Khi đó cô sẽ biết cần phải tránh những con phố nào; hoặc nơi có thể thó được chút đồ ăn; hay tuyệt vời nhất là nhà nào có thể gõ cửa để xin trú tạm. Vào cái đêm giá lạnh đó, những con hẻm tối mò khắp xung quanh bỗng trở nên sống động với người qua người lại, với cuộc sống bí mật của chúng, mà cô thì chẳng biết gì về những điều đó cả.

Pantalaimon biến thành một con mèo rừng rồi rà soát bóng tối xung quanh bằng đôi mắt xuyên thấu màn đêm. Cứ thỉnh thoảng nó lại dừng chân, xù lông lên, vậy là cô bé sẽ rẽ ngang khỏi nơi đang định tiến vào. Đêm tối ngập tràn tiếng ồn: những tiếng cười phá lên trong cơn say xỉn, hai giọng khàn khàn vang lên theo một ca khúc, tiếng lạch cạch và rền rĩ của một cỗ máy không được tra dầu nào đó dưới tầng hầm. Lyra khéo léo bước qua tất cả, các giác quan của cô căng lên và hòa lẫn vào với Pantalaimon, cả hai nép mình vào bóng tối trong lúc lần theo những con hẻm nhỏ.

Thỉnh thoảng cô lại phải cắt ngang qua một con phố rộng và sáng hơn, nơi những cỗ xe mạch rền rĩ tóe lửa dưới đường dây cáp mạch. Có những quy tắc khi băng qua đường ở London, nhưng cô bé chẳng thèm bận tâm. Có ai hét lên thì cô sẽ chạy.

Tìm lại được tự do thật là tuyệt. Cô bé biết rằng Pantalaimon, lúc này đang dạo bước trên hai đôi chân mèo rừng bên cạnh cô, cũng cảm nhận thấy sự khoan khoái khi được tận hưởng không khí thoáng đãng giống như cô vậy dù cho đó có là thứ không khí London u ám chứa đầy muội khói và tiếng ồn đinh tai. Chúng sẽ sớm phải tìm hiểu ý nghĩa những điều đã nghe thấy ở căn hộ của Phu nhân Coulter, nhưng giờ thì chưa phải lúc. Mà rốt cuộc một lúc nào đó chúng cũng sẽ phải tìm chỗ để ngủ thôi.

Tại ngã tư đường gần góc một cửa hàng tạp hóa lớn, nơi những ô cửa sổ sáng lấp lánh trên vỉa hè ướt nước, có một quầy cà phê. Đó là một căn lều nhỏ có bánh xe, với quầy bán hàng nằm dưới mái hiên bằng gỗ. Ánh sáng vàng rực hắt ra từ phía trong, mùi cà phê tỏa thơm lừng. Ông chủ mặc áo khoác trắng đang tì lên quầy chuyện trò với dăm ba vị khách.

Trông thật hấp dẫn làm sao. Lyra lúc này đã đi bộ được cả tiếng đồng hồ trong tiết trời lạnh lẽo và ẩm thấp. Cùng với chim sẻ Pantalaimon, cô bé tiến tới quầy và với tay lên để thu hút sự chú ý của ông chủ.

“Làm ơn cho cháu một cốc cà phê và một bánh kẹp thịt nguội,” cô nói.

“Cháu bé ra ngoài muộn thế,” một quý ông đội mũ chóp và quàng khăn lụa trắng nói.

“Vâng,” cô đáp rồi quay đi để rà soát khu ngã tư tấp nập. Khách bắt đầu túa ra từ một nhà hát gần đó, những đám đông đi quanh phòng chờ sáng đèn, gọi taxi, hay choàng áo khoác quanh vai. Ở hướng còn lại là lối vào Ga Xe lửa ngầm, nơi dòng người lên xuống các bậc thang còn nhộn nhịp hơn.

“Của cháu đây, bé yêu,” ông chủ quầy cà phê nói. “Hai shilling.”

“Để ta trả cho,” người đàn ông đội mũ chóp nói.

Lyra nghĩ, sao lại không chứ? Mình chạy nhanh hơn ông ta, mà có thể về sau mình sẽ cần toàn bộ số tiền hiện có. Người đàn ông đội mũ chóp thả một đồng xu lên quầy rồi mỉm cười với cô. Linh thú của ông ta là một con vượn cáo. Nó đang bám lấy ve áo của ông và tròn mắt nhìn Lyra chòng chọc.

Cô cắn một miếng bánh kẹp trong lúc vẫn để mắt quan sát đường phố tấp nập. Cô bé không biết mình đang ở đâu vì cô chưa từng xem một tấm bản đồ London nào cả. Cô thậm chí còn chẳng biết nó to đến cỡ nào hay phải đi bao xa mới đến được vùng nông thôn.

“Tên cháu là gì?” Người đàn ông hỏi.

“Alice ạ.”

“Quả là một cái tên đẹp. Để ta cho một giọt này vào cà phê của cháu… giúp cháu ấm lên…”

Ông ta vặn mở nắp một bình rượu bằng bạc.

“Cháu không thích thế,” Lyra nói. “Cháu chỉ muốn uống cà phê thôi.”

“Ta cá cháu chưa từng được uống brandy kiểu này bao giờ.”

“Cháu uống rồi. Cháu bị say bí tỉ luôn. Cháu đã uống nguyên cả chai, hoặc gần như thế.”

“Tùy cháu thôi,” người đàn ông nói rồi nghiêng bình đổ vào cốc của mình. “Cháu đi đâu mà chỉ có một mình thế này?”

“Đi gặp bố cháu ạ.”

“Ông ấy là ai thế?”

“Một kẻ giết người.”

“Ông ấy là cái gì cơ?”

“Cháu nói rồi mà, ông ấy là kẻ giết người. Đấy là nghề nghiệp của ông ấy. Đêm nay bố cháu có nhiệm vụ. Cháu mang quần áo sạch cho bố vì lần nào xong việc người ông ấy cũng đầy máu.”

“À! Ra là cháu nói đùa.”

“Cháu không nói đùa đâu.”

Con vượn cáo khẽ kêu lên một tiếng rồi chậm chạp leo lên phía sau đầu người đàn ông để nhòm sang Lyra. Cô bé thản nhiên uống cà phê và ăn nốt miếng bánh kẹp.

“Chúc một buổi tối tốt lành,” cô nói. “Cháu thấy bố đang đến rồi. Trông ông có vẻ hơi cáu bẳn.”

Trong lúc người đàn ông đội mũ chóp liếc nhìn xung quanh, Lyra liền hướng về phía đám đông trước nhà hát. Mặc dù rất muốn xem Xe lửa ngầm (Phu nhân Coulter nói nó không thật sự dành cho những người ở tầng lớp của họ), cô cũng phải cảnh giác với việc bị kẹt dưới lòng đất; tốt hơn hết là nên ở trong không gian mở, nơi cô có thể chạy nếu cần thiết.

Cô bé cứ đi mãi đi mãi, đường phố ngày càng trở nên tối tăm và vắng vẻ. Mưa bụi đang phất phơ rơi, nhưng kể cả khi quang mây thì bầu trời thành phố cũng bị nhiễu sáng quá nặng, không thể nhìn thấy những vì sao. Pantalaimon nghĩ rằng chúng đang tiến về phía bắc, nhưng ai mà biết được?

Các con phố dài bất tận chứa những ngôi nhà gạch nhỏ giống hệt nhau với khoảng vườn chỉ vừa đủ rộng để chứa một cái thùng rác, những nhà xưởng khổng lồ hoang vắng đằng sau hàng rào dây thép, với đèn mạch lờ đờ chiếu sáng phía cao tít trên một phía tường và người gác đêm đang gà gật bên lò than, thỉnh thoảng lại có một nhà nguyện trông đến khiếp, chỉ khác cái kho hàng vì có hình thánh giá ở bên ngoài. Cô đã thử gõ cửa một trong những chỗ này, nhưng lại nghe thấy tiếng rên rỉ từ chiếc ghế băng ẩn mình trong bóng tối cách đó chỉ một bước chân. Khi nhận ra rằng dưới mái cổng vòm chật ních những bóng người đang ngủ, cô liền hoảng sợ chạy mất.

“Chúng ta sẽ ngủ ở đâu đây, Pan?” Cô hỏi khi cả hai nhọc nhằn lê bước xuống một con phố đầy những cửa hàng đã đóng cửa và kéo chớp.

“Trước thềm cửa một nhà nào đó.”

“Nhưng tớ không muốn bị nhìn thấy. Mấy chỗ đó lộ liễu quá.”

“Dưới kia có một con kênh kìa…”

Nó đang nhìn xuống một đường nhánh phía bên trái. Quả vậy, một dải sáng lờ mờ cho thấy dòng nước lộ thiên. Cả hai thận trọng đến xem và thấy một vịnh kênh nơi cả tá sà lan được cột lại vào các cầu tàu, có cái cao trên mặt nước, có cái thì thấp, được neo dưới những chiếc cần trục trông như giá treo cổ. Một luồng sáng mờ phát ra từ khung cửa sổ của một cái chòi gỗ, ống khói bằng kim loại của nó nhả khói nghi ngút. Ngoài ra, những nguồn sáng duy nhất lại ở tít trên tường cao của nhà kho hoặc trên giàn cần trục, để mặc mặt đất chìm trong u tối. Khu cầu tàu chất ngất những thùng đựng tinh than*, những đống củi tròn đại tướng, và các cuộn dây cáp bọc cahuchuc*.

Lyra rón rén bước tới cái chòi và nhòm vào qua cửa sổ. Một ông cụ đang cần mẫn đọc một tờ truyện tranh, mồm ngậm tẩu. Con linh thú dạng chó Spaniel của ông đang cuộn tròn ngủ trên bàn. Cô bé thấy người đàn ông đứng dậy, nhấc cái ấm nước bị muội phủ đen ra khỏi bếp sắt rồi đổ chút nước sôi vào một cái cốc mẻ trước khi ngồi xuống đọc tiếp.

“Liệu có nên xin ông ấy cho chúng ta vào không, Pan?” Cô bé thì thầm, nhưng Pantalaimon không để ý đến. Nó đang biến thành con dơi, con cú, rồi lại thành mèo rừng. Sự hoảng hốt của Pantalaimon ảnh hưởng cả đến Lyra, khiến cô bé lo lắng nhìn quanh, và rồi cô nhìn thấy chúng cùng lúc với Pantalaimon: hai gã đàn ông đang lao về hướng cô, mỗi tên một bên, tên gần hơn cầm một cái lưới ném.

Pantalaimon ré lên một tiếng váng tai rồi biến thành báo đốm lao vào con linh thú của gã đàn ông gần hơn, một con cáo mang vẻ hoang dại, đánh bật nó ra phía sau khiến con cáo bị mắc vào hai chân của gã chủ. Hắn ta chửi thề rồi né sang một bên, trong lúc đó Lyra liền lao qua hắn tới khoảng trống của cầu tàu. Cô bé không thể để mình bị dồn vào góc được.

Pantalaimon, lúc này đã hóa thành đại bàng, sà xuống bên cô và hét lên: “Bên trái! Bên trái!”

Cô bé chuyển sang hướng đó và thấy một khe hở giữa đám thùng tinh than và phần cuối của một nhà kho lợp tôn múi. Cô liền lao tới đó như một viên đạn.

Nhưng còn những cái lưới ném!

Cô bé nghe thấy một tiếng rít lên trong không khí, có thứ gì đó vụt qua má cô đau nhói, rồi những sợi dây nhúng nhựa đường ghê tởm chằng ngang qua mặt cô, cánh tay cô, hai bàn tay cô quấn vào nhau. Bị giữ chặt, cô bé ngã vật xuống, vừa làu bàu, vừa vùng vẫy, cố xé rách tấm lưới trong vô vọng.

“Pan! Pan!”

Nhưng khi con linh thú cáo cào rách người con mèo Pantalaimon, Lyra liền cảm thấy sự đau đớn trên chính da thịt của mình. Cô khóc nức nở khi Pantalaimon ngã xuống. Một gã đàn ông nhanh chóng quấn dây quanh cô bé, quanh chân, cổ, người, đầu cô, vần qua vần lại cô trên mặt đất ướt sũng. Cô cảm thấy vô vọng, hệt như một con ruồi bị vướng vào mạng nhện. Pan tội nghiệp đầy thương tích cố lết mình về phía cô trong lúc con linh thú cáo đang ngoạm lấy lưng nó. Nó thậm chí không còn sức để biến hình nữa. Trong lúc đó, gã đàn ông còn lại đang nằm trong vũng bùn với một mũi tên xuyên qua cổ…

Cả không gian dường như đóng băng khi gã đang buộc lưới nhận ra điều đó.

Pantalaimon ngồi dậy chớp mắt nhìn. Rồi một tiếng thịch khẽ vang lên, gã đàn ông cầm lưới ngã vật xuống, thở hổn hển ngay bên cạnh Lyra. Cô bé thét lên hốt hoảng khi thấy máu tuôn ra từ người gã.

Có tiếng chân chạy, rồi ai đó lôi hắn ta đi và cúi xuống người hắn; sau đó một đôi bàn tay nâng Lyra lên, tiếng dao cứa, giật, và từng sợi dây lưới rời ra. Cô bé giật lấy chúng, nhổ nước bọt, rồi lao tới ôm lấy Pantalaimon.

Vừa quỳ gối, cô vừa xoay người để nhìn lên những người mới đến. Đó là ba người đàn ông da ngăm đen, một người mang cung tên, hai người còn lại cầm dao. Cô vừa định quay đi thì người cầm cung thốt lên kinh ngạc.

“Chẳng phải Lyra đấy sao?”

Giọng nói mới quen thuộc làm sao, nhưng cô lại chẳng thể nhớ ra là ai cho tới khi anh ta bước tới, để cho ngọn đèn gần nhất phả ánh sáng lên khuôn mặt và con linh thú diều hâu trên vai. Cô liền nhận ra. Một người du mục! Một người du mục Oxford đích thực!

“Tony Costa,” anh ta nói. “Nhớ anh chứ? Em vẫn thường chơi với thằng Billy em anh dưới đám thuyền ở Jericho, trước khi Những Kẻ háu ăn bắt được nó.”

“Ôi Chúa ơi, Pan, chúng ta được cứu rồi!” Cô bé nức nở, nhưng rồi một ý nghĩ ập đến: thuyền của nhà Costa chính là cái mà cô đã cướp ngày hôm đó. Chắc hẳn anh ta còn nhớ chứ?

“Em nên đi với bọn anh,” anh ta nói. “Em có một mình thôi à?”

“Vâng. Em đang chạy trốn…”

“Được rồi, tạm thời đừng kể vội. Cứ giữ im lặng đi. Jaxer, kéo mấy cái xác vào trong bóng tối. Kerim, quan sát xung quanh.”

Lyra run rẩy đứng dậy, ôm lấy con mèo rừng Pantalaimon vào lòng. Thấy nó xoay người nhìn thứ gì đó, Lyra cũng nhìn theo, hiểu ra và đột nhiên cũng thấy tò mò: chuyện gì sẽ xảy ra với đám linh thú của những kẻ đã chết? Chúng đang mờ dần, đó là câu trả lời; mờ dần và trôi giạt đi như những nguyên tử khói mặc cho chúng có cố gắng bám giữ lấy chủ thể đến thế nào. Pantalaimon che mắt lại, còn Lyra thì vội vã mò mẫm theo sau Tony Costa.

“Các anh đang làm gì ở đây vậy?” Cô bé hỏi.

“Trật tự đi nhóc. Có quá đủ vấn đề đang tồn tại rồi, không cần phải xới thêm đâu. Lên thuyền rồi nói chuyện.”

Cậu ta dẫn cô qua một cây cầu gỗ nhỏ vào giữa lòng vịnh kênh. Hai người còn lại lặng lẽ theo sau họ. Tony rẽ theo bến cảng rồi lên một cầu tàu bằng gỗ, từ đó họ bước lên một con thuyền dài và mở cửa vào khoang hành khách.

“Vào đi,” anh ta nói. “Nhanh lên.”

Lyra làm theo, vỗ vỗ lên túi (kể cả lúc mắc trong lưới cô cũng không rời tay khỏi nó) để chắc chắn rằng chiếc Chân Kế vẫn còn ở đó. Trong khoang hành khách dài và hẹp, nhờ vào ánh sáng của chiếc đèn lồng treo trên móc, cô bé thấy một người phụ nữ chắc nịch đầy uy quyền với mái tóc hoa râm đang ngồi bên bàn, tay cầm giấy. Lyra nhận ra bà là mẹ của Billy.

“Ai thế này?” Người phụ nữ nói. “Chẳng lẽ lại là Lyra?”

“Đúng đó ạ. Má, chúng ta phải đi thôi. Bọn con đã giết hai tên trên bờ. Bọn con cứ nghĩ chúng là Những Kẻ háu ăn, nhưng có vẻ chúng lại là thương lái người Turk. Chúng tóm được Lyra. Thôi không nói nữa - cứ lên đường rồi nói sau.”

“Lại đây nào, cháu gái,” Má Costa gọi.

Lyra ngoan ngoãn làm theo, nửa hạnh phúc nửa e sợ, vì Má Costa có đôi tay như hai cái dùi cui, và giờ thì cô đã chắc chắn: thuyền của họ chính là cái mà cô, Roger và những đứa trẻ học viện khác đã cướp. Nhưng bà mẹ chủ thuyền lại đặt hai tay lên hai bên mặt Lyra, còn linh thú của bà, một con diều hâu mắt vàng, vừa kêu lên một tiếng ngắn gọn chào đón Pantalaimon. Sau đó Má Costa vòng cánh tay vĩ đại của mình quanh người Lyra và ôm ghì cô vào lòng.

“Ta không biết cháu đang làm gì ở đây, nhưng trông cháu tã tượi quá. Cháu có thể dùng giường cũi của Billy, ta sẽ mang đồ uống nóng vào cho cháu ngay. Ngồi xuống đó đi nào, cháu gái.”

Có vẻ như tính cướp biển trong bà đã được bỏ qua, hoặc ít nhất là bị quên mất. Lyra nhẹ nhàng ngồi lên chiếc trường kỉ bọc đệm đằng sau mặt bàn gỗ thông được đánh láng bóng trong lúc tiếng ùng ùng từ đầu máy chạy gas làm rung chuyển con thuyền.

“Chúng ta đi đâu vậy?” Lyra hỏi.

Má Costa đang đặt chiếc xoong đựng sữa lên bếp sắt rồi chọc vỉ lò để khơi lửa lên.

“Ra khỏi đây. Bây giờ không nói gì nữa. Chúng ta sẽ nói chuyện khi trời sáng.”

Và bà không nói thêm gì, chỉ đưa cho Lyra cốc sữa sau khi đã được đun nóng rồi nhảy lên boong khi con thuyền khởi hành, thỉnh thoảng lại thì thào gì đó với đám đàn ông. Lyra húp sữa rồi vén góc tấm mành cửa lên nhìn khu cầu tàu tối om lướt qua. Chỉ vài phút sau cô đã chìm sâu vào giấc ngủ.

Lyra tỉnh dậy trên một chiếc giường hẹp, cảm nhận tiếng máy gầm dễ chịu từ sâu bên dưới. Cô ngồi dậy, đập đầu, chửi thề, mò mẫm xung quanh, rồi đứng dậy cẩn thận hơn. Một dải sáng mảnh màu xám cho thấy ba chiếc giường khác, một chiếc phía dưới cô và hai chiếc khác ở phía bên kia căn phòng nhỏ xíu. Tất cả đều trống rỗng với chăn gối được xếp gọn gàng. Cô bé xoay người sang bên và thấy mình đang mặc đồ lót, bộ đầm và chiếc áo khoác da sói được gấp và đặt dưới cuối giường cùng với chiếc túi mua hàng của cô. Chiếc Chân Kế vẫn ở đó.

Cô bé vội vàng mặc đồ rồi bước qua cánh cửa phía cuối căn phòng. Cô thấy mình đang ở trong khoang có lò sưởi, thật ấm áp làm sao. Nhưng chẳng có ai ở đó cả. Qua lớp cửa sổ, cô nhìn thấy sương mù xám xịt cuộn xoáy ở hai bên, thỉnh thoảng lại lấp ló những hình dạng sẫm màu có vẻ như là nhà cửa hay cây cối.

Cô bé chưa kịp bước lên boong thì cánh cửa phía ngoài bật mở. Má Costa bước xuống, quấn mình trong chiếc áo khoác cũ bằng vải tuýt, sương ướt đọng lại trên đó như cả ngàn viên ngọc trai nhỏ li ti.

“Ngủ ngon chứ?” Bà hỏi, với lấy chiếc chảo rán. “Giờ thì ngồi tránh chỗ nào đó đi để ta làm bữa sáng cho cháu. Đừng có đứng loanh quanh, không có chỗ đâu.”

“Chúng ta đang ở đâu vậy?” Lyra hỏi.

“Trên Kênh Nối Lớn. Nhớ tránh mặt đi đấy nhóc. Ta không muốn cháu mò lên phía trên đâu. Rắc rối lắm.”

Bà đẩy vài miếng thịt xông khói mỏng vào chảo rồi đập một quả trứng vào cùng.

“Rắc rối kiểu gì ạ?”

“Chẳng có gì chúng ta không giải quyết được, nếu cháu chịu tránh mặt đi.”

Bà không nói gì thêm cho tới khi Lyra ăn xong. Đến một lúc, chiếc thuyền đi chậm lại, có thứ gì đó đập vào mạn thuyền. Cô bé nghe thấy tiếng đàn ông hét lên giận dữ; nhưng rồi một câu đùa của ai đó đã làm họ cười, những tiếng nói dịu đi và chiếc thuyền lại lên đường.

Đúng lúc đó Tony Costa chạy xuống cabin. Cũng giống như mẹ mình, người anh ta bám đầy những hạt ngọc trai từ sương. Anh giũ chiếc mũ len trên lò sấy, khiến những hạt nước nảy lên và bắn tung tóe.

“Chúng ta sẽ kể gì với cô bé đây, Má?”

“Hỏi trước, kể sau.”

Anh đổ chút cà phê vào cái cốc bằng thiếc rồi ngồi xuống. Đó là một anh chàng cường tráng, mặt đen sậm. Giờ đây khi có thể nhìn anh ta trong ánh sáng ban ngày, Lyra thấy một vẻ dữ dằn pha lẫn buồn bã trên nét mặt anh.

“Được rồi,” anh nói. “Giờ thì nói cho chúng ta nghe em đang làm gì ở London đi, Lyra. Chúng ta đưa em xuống đây vì em suýt bị Những Kẻ háu ăn bắt.”

“Em đang sống với một người phụ nữ…”

Lyra lúng túng chắp nối câu chuyện và xếp theo đúng tuần tự như thể cô đang sắp một bộ bài để chuẩn bị chia vậy. Cô bé kể cho họ nghe tất cả mọi việc, trừ chiếc Chân Kế.

“Rồi tối qua tại bữa tiệc cocktail, em đã phát hiện ra bọn họ đang thực sự tiến hành điều gì. Bản thân Phu nhân Coulter cũng là một trong số Những Kẻ háu ăn, bà ta định lợi dụng em để bắt thêm nhiều trẻ con nữa. Còn việc họ đang làm thì…”

Má Costa rời khỏi cabin để bước sang buồng lái. Tony đợi đến khi cánh cửa đóng lại hẳn rồi mới nói tiếp:

“Bọn anh biết chúng làm gì. Ít nhất thì cũng một phần của việc đó. Bọn anh biết bọn nhóc sẽ không trở về. Lũ trẻ bị bắt tới một nơi rất hẻo lánh ở Phương Bắc, và bị đưa vào làm thí nghiệm. Ban đầu mọi người cho rằng chúng đang thử các loại bệnh và thuốc khác nhau, nhưng chẳng có lí do gì để đột ngột bắt đầu làm chuyện đó vào hai hay ba năm trước cả. Rồi bọn anh nghĩ tới lũ Tartar, có lẽ chúng đang bí mật giao kèo gì đó trên phía Siberia; vì lũ Tartar cũng muốn di dân lên Phương Bắc không kém gì đám còn lại để chiếm tinh than và mỏ lửa*, ngoài ra còn có tin đồn về chiến tranh rất lâu trước khi Những Kẻ háu ăn xuất hiện. Vậy nên bọn anh cho rằng Những Kẻ háu ăn đang mua chuộc đám thủ lĩnh người Tartar bằng cách dâng tặng chúng trẻ con, vì bọn Tartar ăn thịt trẻ con đúng không? Chúng nướng lũ nhóc lên rồi ăn.”

“Làm gì có!” Lyra phản đối.

“Có đấy. Còn nhiều chuyện khác để kể cơ. Em đã nghe về lũ Nälkäinen bao giờ chưa?”

Lyra đáp: “Chưa ạ. Phu nhân Coulter cũng không kể cho em. Chúng là gì vậy?”

“Đó là một loại ma sống trong rừng ở phía trên đó. Cỡ chừng một đứa trẻ, và không có đầu. Buổi đêm chúng lần mò loanh quanh, nếu tìm được ai ngủ lại trong rừng, chúng sẽ tóm chặt lấy, không có cách gì gỡ ra được. Nälkäinen là một từ của Phương Bắc. Cả bọn Hút Gió nữa, chúng cũng rất nguy hiểm. Chúng trôi nổi trong không khí. Thỉnh thoảng người ta lại bắt gặp chúng tụm đống lại rồi trôi cùng nhau, hay bị vướng vào một bụi gai. Chỉ cần bị chúng chạm vào người thôi là bao nhiêu sinh lực lập tức bị rút hết. Không ai có thể thấy chúng trừ một đốm sáng lờ mờ trong không khí. Rồi còn Những Kẻ Tắc thở nữa…”

“Chúng là ai?”

“Những chiến binh bị giết gần chết. Sống là một chuyện, mà chết lại là chuyện khác, nhưng bị giết gần chết thì tồi tệ hơn cả. Chúng không thể chết được, trong khi sống lại là việc vượt quá tầm với. Chúng cứ mãi mãi đi lang thang. Chúng bị gọi là Những Kẻ Tắc thở do điều mà người ta đã làm với chúng.”

“Là gì vậy ạ?” Lyra tròn mắt hỏi.

“Đám Tartar Phương Bắc đã bẻ gãy xương sườn và moi phổi chúng ra. Công việc này đòi hỏi phải rất khéo léo. Chúng đã làm thế mà không giết chết Những Kẻ Tắc thở, nhưng phổi của đám đó không thể hoạt động được nữa nếu không nhờ đám linh thú dùng tay bơm. Kết quả là chúng lơ lửng giữa thở và không thở, sống và chết, bị giết gần chết, em thấy đấy. Linh thú của chúng cứ phải bơm lấy bơm để suốt ngày suốt đêm, nếu không thì cũng sẽ bỏ mạng theo chủ. Anh còn nghe nói thỉnh thoảng ở trong rừng người ta còn bắt gặp nguyên một trung đội Những Kẻ Tắc thở cơ. Rồi còn có panserbjørne - em nghe thấy bao giờ chưa? Nó có nghĩa là những con gấu mặc áo giáp. Chúng dạng như gấu Bắc Cực, chỉ trừ…”

“Có! Em có nghe về chúng rồi! Một trong những gã đàn ông tối qua nói rằng Ngài Asriel bác em đang bị giam cầm trong một pháo đài do những con gấu mặc giáp canh giữ.”

“Hiện tại á? Ông ấy làm gì trên đó vậy?”

“Thám hiểm ạ. Nhưng theo như cách hắn ta nói thì em không nghĩ bác em cùng phe với Những Kẻ háu ăn. Em nghĩ bọn chúng vui mừng vì bác ấy đang bị giam.”

“Chà, bọn gấu mặc giáp mà canh thì ông ấy không thoát nổi đâu. Bọn chúng giống như những kẻ làm công vậy, hiểu ý anh không? Chúng bán sức mạnh cho bất cứ ai trả chúng tiền. Bọn chúng có tay giống như con người, và đã học được thủ thuật rèn sắt, chủ yếu là sắt thiên thạch, chúng chế tạo những tấm và lá sắt để bao bọc cơ thể. Đám này đã tấn công người Skraeling từ hàng thế kỉ nay. Chúng là những tên sát nhân xấu xa và cực kì tàn độc. Nhưng chúng lại biết giữ lời hứa. Nếu có thỏa thuận với một tên panserbjørne, người ta có thể tin tưởng vào điều đó.”

Lyra kinh ngạc trước những tin tức khủng khiếp này.

“Má không muốn nghe về Phương Bắc,” một lúc sau Tony nói tiếp, “vì những thứ có thể đã xảy ra với Billy. Bọn anh biết là chúng đã bắt nó lên Phương Bắc, em thấy đấy.”

“Làm sao các anh biết được?”

“Bọn anh bắt được một trong số Những Kẻ háu ăn, và bắt hắn khai. Nhờ vậy mà bọn anh biết được chút ít về việc chúng đang tiến hành. Hai kẻ tối hôm qua không thuộc Những Kẻ háu ăn; chúng quá vụng về. Chúng mà là Những Kẻ háu ăn thì bọn anh đã bắt sống rồi. Rõ ràng là dân du mục bọn anh bị Những Kẻ háu ăn này gây họa nhiều hơn phần lớn những người khác, nên bọn anh đang tập hợp lại để quyết định phải giải quyết việc này thế nào. Tối qua bọn anh đã vào lòng kênh với mục đích như vậy, để chuyển hàng dự trữ, vì dân du mục sẽ có một buổi tập kết lớn ở Fen, bọn anh gọi đó là Roping. Anh thì đoán là sau khi đã nghe thông tin từ những người du mục khác và ghép nối các tin tức lại với nhau, mọi người sẽ cử ra một đội đi giải cứu. Anh mà là John Faa thì anh sẽ làm thế.”

‘‘John Faa là ai ạ?”

“Vua của dân du mục.”

“Vậy các anh thật sự sẽ đi giải cứu những đứa trẻ? Còn Roger thì sao?”

“Roger nào?”

“Thằng bé phụ bếp trong Học viện Jordan. Cậu ấy cũng bị bắt cóc giống như Billy vào cái ngày trước khi em đi cùng với Phu nhân Coulter. Em dám chắc nếu mình bị bắt cóc, cậu ấy sẽ đến giải thoát cho em. Nếu các anh định cứu Billy, em cũng muốn đi cùng để giải cứu Roger.”

Và cả Bác Asriel nữa, cô bé nghĩ; nhưng cô không nhắc tới điều đó.