← Quay lại trang sách

- 7 - John Faa-

Giờ đây khi đã có nhiệm vụ cần phải hoàn thành, Lyra cảm thấy khá lên nhiều. Giúp đỡ Phu nhân Coulter cũng rất vui, nhưng Pantalaimon nói đúng: cô bé không thật sự làm gì ở đó cả, cô chỉ đơn thuần là một con thú cưng xinh xắn. Trên thuyền của người du mục thì có công việc hẳn hoi, và Má Costa luôn đảm bảo rằng cô phải làm việc. Cô lau chùi quét dọn, gọt khoai pha trà, tra dầu cho giá trục chân vịt, làm sạch miếng chắn rong rêu bên trên chân vịt, rửa bát, mở cửa cống, buộc tàu vào trụ neo, và chỉ trong vài ngày cô đã quen với cuộc sống mới này đến mức cứ như cô vốn được sinh ra là dân du mục vậy.

Lyra không hề nhận ra rằng gia đình Costa luôn cảnh giác với bất cứ dấu hiệu quan tâm bất thường nào đến cô từ những cư dân trên bờ. Có lẽ cô cũng không nhận ra tầm quan trọng của mình, rằng Phu nhân Coulter và Ủy ban Hiến tế đang quyết tâm lùng sục khắp nơi để tìm cô. Quả vậy, Tony nghe người ta bàn tán trong các quán rượu dọc đường rằng cảnh sát đang lùng soát nhà cửa, trang trại, sân các tòa nhà và xí nghiệp mà không có lời giải thích nào, mặc dù có tin đồn rằng họ đang tìm một cô bé mất tích. Bản thân điều đó thật kì lạ, trong khi tất cả những đứa khác bị mất tích thì không có ai đi tìm. Cả dân du mục trên sông lẫn cư dân trên đất liền đều đang bồn chồn lo lắng.

Còn có một lí do khác cho sự quan tâm của nhà Costa đến Lyra; nhưng phải vài ngày nữa cô mới nhận ra được.

Họ bắt đầu có thói quen giữ cô phía dưới boong khi đi qua nhà của người canh cửa cống hay vịnh kênh, hoặc bất cứ nơi nào có khả năng xuất hiện những kẻ rảnh rỗi đi lang thang. Có lần họ đã đi qua một thị trấn nơi cảnh sát đang lục soát tất cả thuyền bè qua lại trên đường thủy và chặn giao thông ở cả hai hướng. Nhưng nhà Costa cũng không hề kém cạnh. Có một gian bí mật dưới giường ngủ của Má, Lyra đã ở rịt trong đó suốt hai giờ đồng hồ trong lúc cảnh sát ầm ầm lùng sục khắp chiều dài thuyền trong vô vọng.

“Nhưng sao linh thú của họ lại không tìm thấy cháu?” Cô bé hỏi sau khi mọi chuyện kết thúc. Má chỉ cho cô lớp gỗ che tường của không gian bí mật: gỗ tuyết tùng, thứ vật liệu có tác dụng gây buồn ngủ lên các linh thú. Quả thực, suốt cả thời gian đó Pantalaimon đã ngủ ngon lành bên đầu Lyra.

Dần dần, với nhiều lần phải dừng lại hoặc đi đường vòng, thuyền của nhà Costa đã đến gần Fen, một vùng đất hoang dã rộng lớn với bầu trời bao la và khu đầm lầy vô tận của Đông Anglia, nơi chưa từng được lập bản đồ một cách đầy đủ. Đường rìa xa nhất của nó hòa lẫn vào với những con lạch và vịnh nước triều của vùng biển nông, còn bờ bên kia của biển lại hòa lẫn vào đất Hà Lan. Vài phần của vùng Fen đã được người Hà Lan - một trong số những người sống định cư tại đó - tát cạn và đắp đê, vì vậy ngôn ngữ của vùng Fen đặc chất Hà Lan. Nhưng cũng có những phần chưa từng bị tát cạn, trồng cây hay định cư chút nào. Tại những vùng trung tâm hoang dã nhất, nơi lươn bò trườn và vịt nước tụ họp, nơi những đốm lửa đầm lầy lập loè đầy ma quái và những kẻ lừa đường dụ các du khách bất cẩn tới cái chết rình rập trong những khu đầm lầy và bùn đọng, thì dân du mục lại luôn thấy an toàn để tập hợp tại đây.

Giờ đây, bằng vô vàn những kênh rạch và đường nước ngoằn nghèo, các thuyền du mục đang tiến vào Byanplats, mảnh đất duy nhất hơi nhô lên giữa hàng trăm dặm vuông đầm lầy và bùn đọng. Tại đây tọa lạc một hội trường bằng gỗ cổ với một đống tạp nham những nhà định cư quanh đó, rồi các bến tàu, cầu tàu và một khu chợ lươn. Khi một Byanroping - cuộc triệu tập hay tụ họp của dân du mục - được loan báo, toàn bộ hệ thống đường nước sẽ được lấp kín bởi nhiều tàu thuyền đến mức ta có thể đi cả dặm theo bất cứ hướng nào qua boong của chúng; hoặc ít ra là người ta đồn như thế. Dân du mục thống trị vùng Fen. Không kẻ nào khác dám tiến vào, và chừng nào những người dân du mục vẫn duy trì hòa bình và giao thương sòng phẳng, các cư dân đất liền cũng bỏ qua tình trạng buôn lậu liên miên cũng như vài mối thù hằn thỉnh thoảng nổ ra. Còn nếu một xác du mục trôi xuống bờ biển hoặc bị vướng vào lưới đánh cá, ừ thì - chỉ là một tên du mục thôi mà.

Lyra mê mẩn lắng nghe sự tích về các cư dân của vùng Fen, về con chó ma khổng lồ Black Shuck, về những đốm lửa đầm lầy dâng lên từ bong bóng của dầu phù thủy, và bắt đầu cho rằng bản thân là dân du mục trước cả khi họ tới được Fen. Cô đã sớm quay lại với âm điệu Oxford của mình, và giờ thì cô lại đang học giọng của dân du mục, hoàn thiện nó với từ vựng của Fen-Hà Lan. Má Costa đã phải nhắc nhở cô vài điều.

“Cháu không phải dân du mục, Lyra ạ. Nếu luyện tập, cháu có thể được coi là du mục, nhưng với chúng ta, ngoài ngôn ngữ còn nhiều thứ khác nữa. Trong chúng ta có những điều sâu thẳm và những dòng chảy cuồn cuộn mạnh mẽ. Chúng ta hoàn toàn là những con người của sông nước, nhưng cháu thì khác, cháu là con người của lửa rực. Thứ cháu giống nhất là lửa đầm lầy, đó là vị trí của cháu trong biểu đồ của người du mục; cháu có chất dầu phù thủy trong tâm hồn mình. Gian xảo, đó chính là phẩm chất của cháu, cô bé ạ.”

Lời nói đó làm Lyra bị tổn thương.

“Cháu chưa từng lừa một ai cả! Bà hỏi…”

Hẳn nhiên là chẳng có ai để hỏi cả. Má Costa cười phá lên, nhưng tiếng cười đó đầy thành ý.

“Cháu không thấy là ta đang khen ngợi cháu à, đồ ngỗng con?” Bà nói. Lyra cảm thấy nhẹ nhõm hơn mặc dù cô không hiểu ý bà.

Khi họ tới được Byanplats thì trời đã về chiều, vầng thái dương dần chìm xuống trên nền trời đỏ au. Hòn đảo nhỏ và Zaal khom mình dưới ánh sáng thành một bóng đen thẫm, giống như những cụm nhà xung quanh đó; từng dải khói lan tỏa trong bầu không khí tĩnh mịch, và từ đám tàu bè chen chúc khắp bốn phương phảng phất mùi cá rán, mùi lá thuốc, hay mùi rượu jenniver.

Họ buộc thuyền lại gần Zaal, tại một cột neo mà Tony nói rằng đã được gia đình nhà anh dùng qua hàng thế hệ. Vào lúc đó, đám lươn béo mẫm trên chảo rán của Má Costa đang cháy xèo xèo, ấm nước đã được bắc sẵn sàng cho món bột khoai tây. Tony và Kerim vuốt dầu lên tóc, khoác lên cái áo da bảnh bao nhất và chiếc khăn quàng chấm bi xanh, xỏ ngón tay đầy những nhẫn bạc, rồi đi chào hỏi đôi người bạn cũ trên các con thuyền lân cận và làm vài li rượu tại quầy bar gần nhất. Họ quay về với tin tức quan trọng.

“Chúng ta đến vừa đúng lúc. Buổi Roping sẽ diễn ra vào đúng tối hôm nay. Mọi người trong thị trấn đang đồn rằng - mọi người nghĩ gì về việc này? - họ nói rằng đứa trẻ mất tích đang ở trên một con thuyền du mục, và nó sẽ xuất hiện tối nay tại buổi Roping!”

Anh cười lớn rồi bới tóc Lyra. Kể từ khi tiến vào vùng Fen, anh ngày càng vui vẻ, như thể vẻ u ám cáu bẳn trên gương mặt anh khi ở bên ngoài chỉ là một lớp hóa trang vậy. Bản thân Lyra thì thấy một sự phấn khích đang lớn dần trong ngực trong khi cô ăn vội, rửa chén bát rồi chải tóc, nhét chiếc Chân Kế vào túi áo khoác da sói, sau đó nhảy lên bờ cùng với tất cả các gia đình khác đang leo lên dốc tới Zaal.

Cô bé cứ nghĩ rằng Tony chỉ nói đùa. Nhưng cô đã sớm nhận ra rằng không phải thế, hoặc rằng trông cô ít giống một người dân du mục hơn bản thân cô nghĩ, vì có rất nhiều người đang nhìn cô chòng chọc, trẻ con thì chỉ trỏ. Khi tới được những cánh cửa vĩ đại của Zaal, họ đứng trơ trọi giữa hai đám đông nán lại ở hai bên để nhìn và dành chỗ cho họ.

Lúc này Lyra bắt đầu cảm thấy thực sự căng thẳng. Cô bé nép sát vào Má Costa, còn Pantalaimon thì biến hình to nhất có thể và dùng hình dạng con báo của mình để trấn an cô. Má Costa lê chân lên từng bậc thang như thể chẳng có gì trên thế giới này có thể ngăn cản bà hay khiến bà đi nhanh hơn, còn Tony và Kerim thì hãnh diện bước đi hai bên như những vị hoàng tử.

Hội trường được thắp sáng bởi những chiếc đèn dầu, một thứ ánh sáng đủ để chiếu rọi gương mặt và cơ thể của những người đến dự, nhưng lại để mặc nóc nhà cao tít chìm trong tăm tối. Người mới vào phải chật vật tìm chỗ trên sàn vì những chiếc trường kỉ đều đã chật ních người; nhưng các gia đình đều ngồi sát lại để nhường chỗ, trẻ con ngồi trong lòng còn linh thú cuộn tròn dưới chân hay đậu trên những bức tường gỗ xù xì để không tốn diện tích.

Ở phần trước của Zaal có một bục diễn thuyết với tám chiếc ghế gỗ chạm khắc được đặt sẵn. Khi Lyra và nhà Costa tìm được chỗ đứng bên rìa của sảnh (không còn chỗ nào để ngồi), tám người đàn ông bước ra từ bóng tối phía sau bục và đứng vào trước những chiếc ghế. Một làn sóng hứng khởi tràn qua phía khán giả khi họ nhắc nhau giữ im lặng và ép người vào những chỗ trống trên chiếc ghế gần nhất. Cuối cùng khi hội trường yên lặng trở lại, bảy trong số những người đàn ông trên bục ngồi xuống.

Người còn đang đứng tầm bảy mươi tuổi, nhưng cao to, cổ dày và khỏe khoắn, trông đầy uy lực. Ông khoác áo bằng vải bạt giản dị bên ngoài chiếc sơmi kẻ ô, giống như nhiều người đàn ông du mục khác; trông ông không có gì nổi bật ngoài khí chất mãnh liệt và uy quyền. Lyra liền nhận ra: Bác Asriel cũng có khí chất đó, và cả Hiệu trưởng trường Jordan nữa. Linh thú của người đàn ông này là một con quạ, giống như của Hiệu trưởng vậy.

“Đó là John Faa, vua của dân du mục miền tây,” Tony thì thầm.

John Faa cất tiếng nói với một giọng trầm và chậm rãi.

“Hỡi những người dân du mục! Chào mừng đến với Roping. Chúng ta đến để lắng nghe và đến để quyết định. Tất cả các vị đều biết lí do. Có rất nhiều gia đình ở đây có trẻ con bị mất tích. Có người mất đến hai đứa. Có kẻ nào đó đang bắt chúng đi. Xin hãy nhớ rằng cư dân trên đất liền cũng bị mất con. Chúng ta không có gì bất hòa với dân đất liền về việc này cả.

“Gần đây có tin đồn về một đứa trẻ và một giải thưởng. Tôi xin thông báo sự thật để ngừng mọi lời bàn tán. Tên của đứa bé là Lyra Belacqua, cô bé đang bị cảnh sát trên mặt đất lùng sục. Giải thưởng một nghìn đồng vàng sẽ được trao cho ai giao nộp lại cô bé. Lyra vốn là dân mặt đất, nhưng giờ cô bé đang được chúng ta chăm sóc, và đây cũng là nơi cô bé sẽ lưu lại. Bất cứ ai ham muốn một nghìn đồng vàng đó tốt hơn hết nên tìm một nơi không phải trên mặt đất cũng không phải trên sông ngòi. Chúng ta sẽ không giao cô bé ra.”

Lyra cảm thấy nóng bừng từ chân tóc đến bàn chân; Pantalaimon đã biến thành một con bướm đêm màu nâu để trốn. Ánh mắt từ mọi hướng đang dồn vào họ, và cô bé chỉ còn biết nhìn lên Má Costa để được trấn an.

Nhưng John Faa lại nói tiếp:

“Dù có nói đến mấy cũng không thay đổi được gì. Chúng ta phải hành động nếu muốn thay đổi sự việc. Đây là một sự thật khác dành cho quý vị: Những Kẻ háu ăn, lũ trộm trẻ con này, đang đưa các tù binh của mình lên một thị trấn ở vùng viễn Bắc, tít xa trên vùng đất tăm tối. Tôi không biết chúng làm gì với lũ trẻ ở trên đó. Vài người nói chúng giết bọn trẻ, những người khác lại nói khác. Chúng ta không biết.

“Điều chúng ta biết là chúng thực hiện việc đó với sự hỗ trợ của đám cảnh sát đất liền và giới tăng lữ. Mọi thế lực trên đất liền đều đang giúp đỡ chúng. Hãy nhớ lấy điều đó. Họ biết chuyện gì đang xảy ra và sẽ trợ giúp bất cứ khi nào có thể.

“Vậy nên điều tôi đề xuất sắp tới hoàn toàn không dễ dàng. Và tôi cần sự đồng thuận của các vị. Tôi đề xuất rằng chúng ta sẽ cử một đội chiến binh lên Phương Bắc để giải cứu lũ trẻ và đưa chúng về an toàn. Tôi đề xuất rằng chúng ta dồn vàng vào công việc này, cùng toàn bộ tàu thuyền và lòng dũng cảm mà mình có thể tập hợp được. Vâng, Raymond van Gerrit?”

Một trong số những người tham dự đang giơ tay lên. John Faa ngồi xuống để ông ta nói.

“Tôi xin phép, thưa Ngài Faa. Trên đó có cả bọn nhóc đất liền lẫn dân du mục bị bắt giữ. Có phải ngài đang nói chúng ta cũng nên cứu cả chúng không?”

John Faa đứng dậy để trả lời.

“Raymond, ý ông là chúng ta phải chiến đấu với đủ mọi nguy hiểm để cứu một nhóm nhỏ những đứa bé đang hoảng sợ, rồi nói với vài đứa trong số đó rằng chúng có thể về nhà, còn với những đứa còn lại rằng chúng phải ở lại? Không, ông là một người tuyệt vời hơn thế mà. Vậy, tôi có được sự đồng thuận của mọi người không, các bạn của tôi?”

Câu hỏi khiến họ bất ngờ, vì có một khoảnh khắc lưỡng lự; nhưng rồi một tiếng hét vang trời chiếm trọn lấy hội trường, những cánh tay giơ cao vỗ hưởng ứng, những nắm đấm rung lên, những tiếng hô vang đầy phấn khích. Nóc hội trường Zaal rung chuyển, từ những xà nhà cao khuất trong bóng tối, một đàn chim đang say ngủ hoảng hốt bật tỉnh rồi đập cánh loạn xạ, khiến bụi lả tả rơi xuống.

John Faa để cho tiếng ồn kéo dài một lúc, rồi giơ tay lên để lấy lại trật tự.

“Việc này sẽ cần thời gian để thiết lập. Tôi muốn lãnh đạo các gia tộc tăng thuế và tập hợp quân lực. Chúng ta sẽ gặp lại ở đây sau ba ngày. Từ giờ đến lúc đó tôi sẽ nói chuyện với đứa trẻ đã nhắc đến lúc trước, và với Farder Coram, sau đó sẽ lập một kế hoạch để trình bày trước mọi người khi chúng ta gặp lại. Chúc mọi người một buổi tối tốt lành.”

Dáng vẻ đồ sộ, mộc mạc và chân chất của ông đủ để làm họ bình tĩnh lại. Khi người tham dự bắt đầu rời khỏi những cánh cửa khổng lồ để bước vào màn đêm lạnh giá, về thuyền của họ hoặc tới những quầy bar chật ních người của khu định cư nhỏ bé, Lyra nói với Má Costa:

“Những người còn lại trên bục là ai vậy ạ?”

“Lãnh đạo của sáu gia tộc, người còn lại là Farder Coram.”

Không khó để đoán được người còn lại là ai, vì ông ta là người già nhất ở đó. Ông đi lại với một cây gậy và suốt thời gian ngồi đằng sau John Faa, người ông luôn run lên như thể có gì đó muốn tranh cãi vậy.

“Đi nào,” Tony nói. “Tốt nhất là anh nên đưa em lên chào hỏi John Faa. Gọi ông ấy là Ngài Faa nhé. Anh không biết em sẽ bị hỏi gì, nhưng nhớ nói sự thật đấy.”

Pantalaimon, lúc này đã biến thành chim sẻ, đang ngồi trên vai Lyra đầy vẻ hiếu kì, móng quặp sâu vào lớp áo da sói, trong khi cô đi theo Tony qua đám đông lên bục diễn thuyết.

Anh nhấc cô lên. Biết rằng những người vẫn còn lưu lại hội trường đang nhìn mình, và ý thức được về một nghìn đồng vàng mà mình đột nhiên đáng giá, cô bé đỏ mặt ngập ngừng. Pantalaimon lao vào lòng cô rồi biến thành một con mèo rừng, ngồi thẳng trên tay cô, vừa nhìn quanh quất vừa khẽ rít lên.

Khi cảm thấy có ai đó khẽ đẩy, Lyra bước tới trước John Faa. Trông ông nghiêm nghị, cao lớn và vô cảm, giống một cột đá hơn là một con người, nhưng ông liền cúi xuống và chìa tay ra bắt. Khi cô bé đưa tay mình vào, nó gần như mất hút trong đó.

“Chào mừng cháu, Lyra,” ông nói.

Khi ở gần, cô bé cảm thấy giọng nói của ông rung chuyển như chính trái đất vậy. Cô hẳn đã thấy căng thẳng nếu không nhờ có Pantalaimon, và sự thật là biểu cảm lạnh lùng sắt đá của John Faa đã ấm áp hơn một chút. Ông đang đối xử với cô rất dịu dàng.

“Cảm ơn Ngài Faa,” cô nói.

“Giờ thì vào phòng hội đàm và nói chuyện thôi,” John Faa nói. “Họ có cho cháu ăn uống đầy đủ không đó, nhà Costa ấy?”

“Ồ có ạ. Chúng cháu vừa ăn lươn cho bữa xế.”

“Lươn chính hiệu của Fen, ta tin là thế.”

Phòng hội đàm là một nơi dễ chịu với lò sưởi lớn, những chiếc tủ buffet bày đồ bạc và đồ sứ, cùng chiếc bàn nặng nề được năm tháng đánh bóng thành một màu thẫm, nơi mười hai chiếc ghế được xếp sẵn.

Những người khác trên bục diễn thuyết đã đi đâu mất, nhưng ông già run rẩy thì vẫn ở đó với họ. John Faa đỡ ông tới chiếc ghế bên bàn.

“Cháu ngồi phía bên phải của ta đây,” John Faa nói với Lyra còn bản thân thì ngồi xuống chiếc ghế chủ tọa. Lyra thấy mình đang ngồi đối diện với Farder Coram. Cô thấy hơi hoảng vì khuôn mặt xương xẩu và cơn run rẩy không ngừng của ông. Linh thú của ông là một con mèo cỡ bự có bộ lông mang sắc thu tuyệt đẹp. Nó sải bước dọc theo chiếc bàn với cái đuôi vểnh cao, kiều diễm xem xét Pantalaimon rồi khẽ chạm mũi với nhau trước khi yên vị trong lòng Farder Coram, nhắm hờ mắt và khẽ rên lên gừ gừ.

Một người phụ nữ mà Lyra không biết bước ra từ trong bóng tối với một khay li thủy tinh, đặt nó xuống bên cạnh John Faa, cúi chào rồi rời đi. John Faa rót chút rượu jenniver từ bình đá cho mình cùng Farder Coram, và một cốc rượu vang cho Lyra.

“Lyra,” John Faa nói. “Vậy là cháu đã chạy trốn.”

“Vâng.”

“Người phụ nữ mà cháu trốn khỏi là ai vậy?”

“Bà ta được gọi là Phu nhân Coulter. Cháu cứ nghĩ đó là người tốt nhưng cháu đã phát hiện ra bà ta là một trong số Những Kẻ háu ăn. Cháu nghe có người nói về tổ chức của Những Kẻ háu ăn, chúng được gọi là Tổng Ủy ban Hiến tế, và bà ta phụ trách nó, đó hoàn toàn là ý tưởng của bà ta. Tất cả bọn chúng đều đang tiến hành một kế hoạch nào đó, cháu không biết nó là gì, chỉ biết là chúng định bắt cháu giúp bà ta kiếm thêm trẻ con cho tổ chức. Nhưng chúng không hề biết…”

“Chúng không hề biết gì?”

“À, đầu tiên là chúng không biết rằng cháu quen vài đứa đã bị bắt cóc. Bạn cháu Roger phụ bếp của Học viện Jordan, rồi Billy Costa, và một bạn gái trong Chợ Mái che ở Oxford. Còn một điều nữa… Bác của cháu, vâng, là Ngài Asriel. Cháu nghe chúng bàn tán về những cuộc hành trình của ông ấy lên Phương Bắc, và cháu không nghĩ ông ấy có liên quan gì đến Những Kẻ háu ăn cả. Vì cháu đã bí mật theo dõi Hiệu trưởng và các Học giả của Jordan, vâng, cháu trốn trong Phòng nghỉ nơi đáng ra không ai được vào ngoài họ, và nghe bác cháu kể với họ toàn bộ chuyến thám hiểm của ông ấy trên Phương Bắc, về thứ Bụi mà ông ấy thấy. Ông ấy còn mang về cái đầu của Stanislaus Grumman đã bị bọn Tartar đục lỗ nữa. Hiện giờ Những Kẻ háu ăn đã bắt nhốt ông ấy ở một nơi nào đó. Đám gấu mặc giáp đang canh giữ ông ấy. Cháu muốn giải thoát cho ông ấy.”

Cô bé ngồi đó, lọt thỏm trong lưng ghế cao chạm trổ, nhưng khuôn mặt lại chứa đầy sự dữ dội và ngoan cường. Hai người đàn ông lớn tuổi không thể không mỉm cười, nhưng trong khi nụ cười của Farder Coram là một biểu hiện lưỡng lự, phong phú và phức tạp đang run rẩy hiện lên trên khuôn mặt ông như ánh mặt trời xua đuổi bóng tối vào một ngày tháng Ba lộng gió, thì nụ cười của John Faa lại chậm rãi, ấm áp, bình dị và thân mật.

“Cháu nên kể với chúng ta những điều đã nghe bác mình nói vào buổi tối đó,” John Faa nói. “Nhớ đừng để sót gì cả. Kể với chúng ta mọi chuyện.”

Lyra làm theo, chậm rãi hơn khi cô kể với nhà Costa nhưng cũng thành thật hơn nữa. Cô bé e sợ John Faa, và điều khiến cô sợ nhất chính là sự tử tế của ông. Khi cô trình bày xong, Farder Coram cất tiếng lần đầu tiên. Ông có chất giọng dày dặn và du dương, có bao nhiêu âm sắc trong giọng ông thì có bấy nhiêu tông màu trên bộ lông của con linh thú.

“Thứ Bụi này,” ông nói. “Người ta có bao giờ gọi nó bằng một tên khác không, Lyra?”

“Không ạ. Chỉ là Bụi thôi. Phu nhân Coulter có nói cho cháu biết đó là những hạt cơ bản, nhưng bà ấy chỉ gọi nó như thế thôi.”

“Và chúng nghĩ rằng bằng cách làm gì đó với bọn trẻ con, chúng có thể khám phá thêm về nó?”

“Vâng. Nhưng cháu không biết chúng định làm gì. Ngoại trừ việc bác cháu… Có một điều cháu quên không nói. Trong lúc ông ấy cho họ xem ảnh từ đèn chiếu, còn có một bức khác nữa. Đó là Quang Cực…”

“Cái gì cơ?” John Faa hỏi.

“Là hiện tượng Cực Quang,” Farder Coram nói. “Đúng thế không, Lyra?”

“Vâng, là nó ạ. Trong quầng sáng của Quang Cực có thứ gì đó như một thành phố vậy. Đủ các tòa tháp, nhà thờ, mái vòm và nhiều thứ nữa. Nó hơi na ná Oxford, chỉ là cháu nghĩ vậy thôi. Cháu nghĩ Bác Asriel còn có hứng thú với nó hơn, nhưng Hiệu trưởng và các Học giả khác lại quan tâm đến Bụi nhiều hơn, giống như Phu nhân Coulter, Ngài Boreal và bọn chúng vậy.”

“Ta hiểu rồi,” Farder Coram nói. “Rất thú vị.”

“Vậy, Lyra,” John Faa nói, “ta sẽ nói với cháu một điều. Farder Coram đây, ông ấy là một người thông thái. Một nhà tiên tri. Ông ấy vẫn đang dõi theo toàn bộ sự việc xảy ra với Bụi, với Những Kẻ háu ăn, với Ngài Asriel và tất cả những việc khác, ông ấy cũng dõi theo cả cháu nữa. Mỗi lần nhà Costa hay nửa tá gia đình khác đến Oxford, họ đều mang về chút ít thông tin. Về cháu, cô bé ạ. Cháu có biết điều đó không?”

Lyra lắc đầu. Cô bé bắt đầu thấy sợ. Tiếng Pantalaimon gầm gừ quá trầm để mọi người có thể nhận ra, nhưng cô bé có thể cảm thấy điều đó trên những đầu ngón tay sục trong lông của nó.

“Phải,” John Faa nói, “mọi việc cháu làm đều được thông báo cho Farder Coram hết.”

Lyra không thể kìm được nữa.

“Chúng cháu không phá hỏng nó! Thật đấy! Nó chỉ dính tí bùn thôi! Mà bọn cháu cũng không đi xa…”

“Cháu đang nói về chuyện gì thế, cô bé?” John Faa hỏi.

Farder Coram phá lên cười. Khi làm vậy, cơn run rẩy của ông ngừng lại, khuôn mặt ông trở nên rạng rỡ và trẻ trung.

Nhưng Lyra thì không cười nổi. Vừa lập bập môi cô vừa nói: “Kể cả khi tìm thấy nút thuyền, bọn cháu cũng không hề tháo nó ra! Đó chỉ là một trò đùa thôi. Bọn cháu không đời nào lại đánh chìm nó cả!”

Đến lượt John Faa cũng bắt đầu cười lớn. Ông đập bàn tay to bè lên bàn mạnh đến mức những cái li kêu lanh canh, đôi vai đồ sộ của ông rung lên, và ông phải đưa tay lên gạt nước mắt. Lyra chưa từng chứng kiến cảnh tượng nào như thế, chưa từng nghe thấy tiếng rống nào lớn như thế; cứ như thể là cả ngọn núi đang cười vậy.

“À phải rồi,” ông nói khi đã có thể lên tiếng trở lại, “chúng ta cũng nghe về cả chuyện đó rồi, cô gái nhỏ ạ! Ta nghĩ kể từ đó nhà Costa không đi đâu mà lại không nhắc đến chuyện ấy. Cậu nên để lại một người canh gác trên thuyền đi, Tony, người ta khuyên. Đám con gái dữ tợn đang ở quanh đây! Ôi, câu chuyện đó được lan truyền khắp vùng Fen rồi, nhóc ạ. Nhưng chúng ta không định phạt cháu vì điều đó đâu. Không đâu! Thư giãn đi.”

Ông nhìn sang Farder Coram, rồi hai ông lại phá lên cười, nhưng lần này thì nhẹ nhàng hơn. Lyra cảm thấy yên tâm và an toàn.

Cuối cùng John Faa lắc đầu và trở lại nghiêm túc.

“Ta đang nói, Lyra ạ, rằng chúng ta biết về cháu kể từ khi cháu còn là một đứa trẻ. Một em bé sơ sinh. Cháu cần phải hiểu những gì chúng ta biết. Ta không thể đoán được người ta đã nói gì với cháu ở Học viện Jordan về nơi cháu tới, nhưng họ không biết toàn bộ sự thật về nó. Họ có bao giờ nói với cháu cha mẹ cháu là ai không?”

Giờ thì Lyra hoàn toàn bị sững sờ.

“Có ạ,” cô bé đáp. “Họ nói cháu là - họ nói họ - họ nói Ngài Asriel gửi cháu ở đó vì mẹ và cha cháu đã mất trong một tai nạn khí cầu. Đó là điều họ nói với cháu.”

“À, thế à? Vậy nghe này cô bé, ta sẽ kể cho cháu một chuyện, một câu chuyện có thật. Ta biết nó là sự thật vì một phụ nữ du mục đã kể với ta, mà họ thì đều nói sự thật với John Faa và Farder Coram. Vậy nên đây là sự thật về cháu, Lyra ạ. Cha cháu không hề bỏ mạng tại một tai nạn khí cầu nào cả, vì ông ấy là Ngài Asriel.”

Lyra chỉ có thể ngồi sững người vì kinh ngạc.

“Sự việc là như thế này,” John Faa nói tiếp. “Khi còn là một thanh niên, Ngài Asriel đã đi khám phá khắp nơi trên Phương Bắc và mang về một gia tài kếch xù. Ông ấy là một người sôi nổi, dễ cáu giận, một người đầy nhiệt huyết.

“Còn mẹ cháu, bà ấy cũng rất nồng nhiệt. Không có xuất thân khá giả như cha cháu, nhưng là một phụ nữ thông minh, thậm chí còn là một học giả nữa. Những người nhìn thấy bà ấy đều nói rằng bà rất đẹp. Bà ấy và cha cháu, họ yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên.

“Vấn đề là, mẹ cháu đã có chồng. Bà ấy đã cưới một chính trị gia. Ông ấy là thành viên của phe Quốc vương, một trong những cố vấn thân cận nhất của ngài. Một người đang phất lên trong sự nghiệp.

“Khi mẹ cháu phát hiện ra mình mang thai, bà ấy sợ phải nói với chồng mình rằng đứa trẻ không phải của ông ta. Khi đứa bé được sinh ra - là cháu đấy, cô bé ạ - chỉ cần nhìn là thấy rõ cháu không giống chồng bà ấy mà giống cha đẻ của mình hơn. Bà ấy đã nghĩ là tốt hơn hết nên giấu cháu đi và thông báo rằng cháu đã chết.

“Vậy là cháu được đưa tới Oxfordshire, nơi cha cháu có đất sở hữu, và giao cho một phụ nữ du mục chăm sóc. Nhưng có kẻ nào đó đã rỉ tai với chồng của mẹ cháu về chuyện đã xảy ra. Ông ta lập tức lao tới lục soát căn nhà mà người phụ nữ du mục đang sống, có điều bà đã kịp chạy sang nhà lớn. Ông chồng liền đuổi theo với quyết tâm sát hại bà.

“Lúc đó cha cháu đang ra ngoài đi săn, nhưng khi nghe tin, ông đã kịp quay về và bắt gặp chồng của mẹ cháu dưới chân cầu thang lớn. Chỉ thêm một chút nữa thôi là ông ta có thể đã phá cửa vào tủ đồ nơi người phụ nữ du mục đang trốn cùng với cháu, nhưng Ngài Asriel đã thách đấu ông ta, họ giao tranh tại đó và rồi Ngài Asriel đã giết ông ta.

“Người phụ nữ du mục đã nghe và thấy tất cả, Lyra ạ, đó là lí do chúng ta biết chuyện.

“Hậu quả dẫn tới một vụ tố tụng ầm ĩ. Cha cháu không phải loại người phủ nhận hay che giấu sự thật, và điều đó khiến các thẩm phán gặp khó khăn. Đúng là ông ấy đã giết người, đã gây đổ máu, nhưng đó là vì ông đang bảo vệ căn nhà và đứa con của mình trước một kẻ đột nhập. Mặt khác, luật pháp lại cho phép bất cứ ai trả thù kẻ đã xâm hại vợ của mình, và các luật sư của người đã chết tranh cãi rằng hành động của ông ta chỉ nhằm mục đích đó.

“Phiên tòa kéo dài hàng tuần trời, với vô vàn lời qua tiếng lại tranh cãi nhau. Kết cục là ban bồi thẩm phạt Ngài Asriel giao nộp toàn bộ tài sản và đất đai, khiến ông thành một kẻ nghèo khó, trong khi ông từng giàu có hơn cả một ông vua.

“Về phần mẹ cháu thì bà ấy không muốn dính gì vào chuyện này, hay vào cháu cả. Bà ấy đã quay lưng lại. Bà vú người du mục kể với ta rằng bà ấy thường lo sợ không biết mẹ cháu sẽ đối xử với cháu ra sao, vì bà ấy là một người kiêu ngạo và hay khinh thường người khác. Nói về bà ấy như vậy đủ rồi.

“Rồi đến cháu. Nếu mọi chuyện diễn tiến khác, Lyra ạ, cháu có thể đã được dân du mục nuôi nấng, vì bà vú đã xin tòa cho bà ấy được nhận nuôi cháu; nhưng dân du mục chúng ta có địa vị rất thấp kém trong luật pháp. Tòa quyết định rằng cháu sẽ được đưa vào Tu viện, và cháu đã ở đó với các Nữ tu Phục lệnh ở Watlington. Cháu sẽ không nhớ được đâu.

“Nhưng Ngài Asriel không chịu được điều đó. Ông ấy căm ghét tu viện, giáo sĩ và nữ tu. Vốn là một người chuyên quyền, một ngày nọ ông cứ thế xông vào mà mang cháu đi. Không phải để tự mình chăm sóc hay gửi cho những người du mục; ông ấy đã đưa cháu tới Học viện Jordan, và thách thức luật pháp dám cản trở việc đó.

“Luật pháp để mọi chuyện diễn ra như vậy. Ngài Asriel quay lại với những cuộc thám hiểm của mình, còn cháu thì lớn lên tại Học viện Jordan. Điều duy nhất ông ấy nói, cha cháu ấy, điều kiện duy nhất ông đặt ra, là mẹ cháu không được phép gặp cháu. Nếu bà ấy có định làm điều đó thì bà ấy sẽ phải bị ngăn chặn, còn ông sẽ được thông báo, vì lúc này tất cả mọi căm phẫn trong ông đều chuyển hết về phía bà. Ông Hiệu trưởng hứa thực hiện điều đó một cách chắc chắn; và thời gian cứ như vậy trôi đi.

“Sau đó thì mối lo âu về Bụi xuất hiện. Trên khắp đất nước, khắp thế giới, những người đàn ông thông thái và cả phụ nữ nữa, bắt đầu lo lắng về nó. Nó vốn chẳng có giá trị gì với dân du mục chúng ta cả, cho tới khi bọn chúng bắt đầu bắt cóc bọn trẻ đi. Đó là khi chúng ta trở nên quan tâm. Chúng ta có mối quan hệ ở đủ mọi loại địa điểm mà cháu sẽ không tưởng tượng nổi, bao gồm cả Học viện Jordan. Cháu không biết chứ từ khi cháu đến, ở đó luôn có người dõi theo cháu và báo cáo lại cho chúng ta. Bởi vì chúng ta quan tâm đến cháu, và người phụ nữ du mục đã nuôi nấng cháu, bà ấy chưa bao giờ ngừng lo lắng cho cháu cả.”

“Người đã luôn theo sát cháu là ai vậy ạ?” Lyra hỏi. Cô cảm thấy cực kì quan trọng và kì lạ, rằng toàn bộ hành động của mình lại có thể là đối tượng quan tâm của một nơi xa xôi đến vậy.

“Đó là người phục vụ bếp. Bernie Johansen, người làm bánh ngọt. Ông ấy mang nửa dòng máu du mục; ta dám chắc là cháu không hề biết điều đó.”

Bernie là một người tốt bụng nhưng cô độc, một trong những người hiếm hoi có linh thú cùng giới tính với mình. Chính Bernie là người đã bị cô hét lên trong nỗi tuyệt vọng khi Roger bị bắt mất. Ông cũng là người đã kể với dân du mục mọi chuyện! Cô bé cảm thấy kinh ngạc.

“Nói chung là,” John Faa nói tiếp, “chúng ta nghe nói về việc cháu rời khỏi Học viện Jordan, rồi mọi việc diễn tiến như thế nào vào đúng lúc Ngài Asriel bị bắt giam nên không thể ngăn cản điều đó. Chúng ta vẫn nhớ điều ông ấy đã dặn Hiệu trưởng tuyệt đối không được làm, chúng ta còn nhớ rằng người đàn ông mà mẹ cháu đã kết hôn, chính trị gia mà Ngài Asriel đã giết, có tên là Edward Coulter.”

“Phu nhân Coulter?” Lyra sững sờ kêu lên. “Bà ta không phải mẹ cháu đấy chứ?”

“Đó là mẹ cháu đấy. Nếu cha cháu vẫn còn tự do thì bà ấy sẽ chẳng dám thách thức ông ấy, và cháu vẫn sẽ ở Jordan, không biết gì về mọi việc. Nhưng việc Hiệu trưởng để cho cháu đi là một điều bí ẩn mà ta không thể giải thích được. Ông ấy đã nhận nhiệm vụ chăm sóc cháu. Ta chỉ có thể đoán là bà ta có quyền thế chi phối ông ấy.”

Lyra đột nhiên hiểu ra hành vi kì cục của Hiệu trưởng vào buổi sáng khi cô khởi hành.

“Nhưng ông ấy không muốn vậy…” Cô bé nói, cố gắng nhớ lại chính xác. “Ông ấy… Cháu đã phải đi gặp ông ấy ngay đầu buổi sớm, và không được phép nói cho Phu nhân Coulter… Như thể ông ấy muốn bảo vệ cháu khỏi Phu nhân Coulter vậy…” Cô ngừng lại, cẩn thận quan sát hai người đàn ông, rồi quyết định kể với họ toàn bộ sự thật về Phòng nghỉ. “Thật ra là còn một việc nữa. Tối hôm đó cháu trốn trong Phòng nghỉ, cháu đã nhìn thấy Hiệu trưởng định bỏ độc Ngài Asriel. Cháu thấy ông ấy đổ thứ bột gì đó vào trong rượu nên cháu đã nói với bác cháu. Bác ấy liền đánh đổ chiếc bình khỏi bàn và khiến rượu bên trong tràn ra. Vậy là cháu đã cứu sống bác ấy. Cháu vẫn không thể hiểu tại sao Hiệu trưởng lại muốn bỏ độc bác ấy, vì ông ấy lúc nào cũng rất tử tế. Rồi vào buổi sáng trước khi lên đường, ông ấy gọi cháu tới phòng làm việc rất sớm, cháu đã phải đi rất bí mật để không ai biết, và ông ấy nói…” Lyra cố vặn óc để nhớ lại chính xác câu nói của Hiệu trưởng. Vô ích; cô bé lắc đầu. “Điều duy nhất cháu có thể hiểu được là ông ấy đã đưa cho cháu một thứ và cháu phải giữ bí mật với bà ấy, với Phu nhân Coulter. Cháu nghĩ sẽ không vấn đề gì nếu nói với các ông…”

Cô lần trong túi áo khoác da sói rồi lấy ra cái bọc nhung. Cô đặt nó lên bàn và cảm thấy sự hiếu kì mạnh mẽ từ John Faa cũng như tri thức sáng lấp lánh của Farder Coram đều đang hướng vào vật đó như những chiếc đèn pha.

Khi cô gỡ chiếc Chân Kế ra, Farder Coram liền lên tiếng trước.

“Tôi không nghĩ mình lại có thể được nhìn thấy một trong số chúng. Đó là một chiếc máy đọc biểu tượng. Ông ấy có nói gì về nó với cháu không, cô bé?”

“Không ạ. Ngoài việc cháu sẽ phải tự tìm cách sử dụng nó. Với cả ông ấy gọi nó là Chân Kế.”

“Có nghĩa là gì?” John Faa hỏi, quay sang phía ông bạn của mình.

“Đó là một từ cổ. Tôi đoán Chân có nghĩa là chân thực. Nó là một chiếc máy đo sự thật. Vậy cháu đã tìm ra cách sử dụng nó chưa?” Ông hỏi cô bé.

“Chưa ạ. Ít nhất thì cháu cũng có thể làm ba kim ngắn chỉ vào những bức hình khác nhau, nhưng cháu chẳng thể làm gì với cái kim dài. Nó cứ chạy loạn lên. Chỉ trừ thỉnh thoảng, vâng ạ, thỉnh thoảng khi đang khá tập trung, cháu có thể làm chiếc kim dài đi theo hướng này hay hướng khác chỉ bằng cách nghĩ về điều đó.”

“Nó có tác dụng gì vậy, Farder Coram?” John Faa hỏi. “Mà đọc nó như thế nào?”

“Tất cả những bức hình quanh viền này,” Farder Coram nói, nhẹ nhàng đưa chiếc máy về phía ánh nhìn chòng chọc của John Faa, “chúng là các biểu tượng, mỗi cái tượng trưng cho một chuỗi các ý nghĩa. Lấy ví dụ như cái mỏ neo kia. Ý nghĩa đầu tiên của nó là hi vọng, vì hi vọng giữ người ta chắc như một cái mỏ neo để họ không bỏ cuộc. Ý nghĩa thứ hai là tính kiên định. Ý nghĩa thứ ba là khó khăn đột xuất, hay sự ngăn trở. Ý nghĩa thứ tư là biển cả. Và cứ thế, lên tới mười, mười hai, có khi là một chuỗi vô hạn những ý nghĩa.”

“Vậy ông có biết tất cả những ý nghĩa đó không?”

“Tôi biết một vài thôi, tôi sẽ cần một cuốn sách nếu muốn đọc được nó trọn vẹn. Tôi từng thấy cuốn sách đó và biết nó ở đâu, nhưng tôi không sở hữu nó.”

“Chúng ta sẽ quay lại vấn đề đó sau,” John Faa nói. “Tiếp tục giải thích ông đọc nó như thế nào đi.”

“Có ba kim mà ta có thể điều khiển được,” Farder Coram giải thích, “và ta dùng chúng để đặt câu hỏi. Bằng cách trỏ vào ba biểu tượng, ta có thể hỏi bất cứ câu nào tưởng tượng được ra, vì có rất nhiều mức độ cho mỗi biểu tượng. Sau khi đã dựng được khung câu hỏi, chiếc kim còn lại sẽ quay vòng quanh và trỏ vào nhiều biểu tượng khác để cho ta câu trả lời.”

“Nhưng làm thế nào nó biết được ta đang nghĩ ở mức độ nào khi đặt câu hỏi?” John Faa thắc mắc.

“À, tự nó thì không thể. Nó chỉ hiệu quả khi người đặt câu hỏi giữ được các mức độ trong tâm trí mình. Đầu tiên, ta sẽ phải biết tất cả các ý nghĩa, mà chắc chắn là sẽ còn có cả nghìn ý nghĩa khác nữa. Rồi ta sẽ phải có khả năng giữ chúng trong đầu mà không bực bội hay thúc ép nó ra câu trả lời, chỉ đơn thuần quan sát khi chiếc kim dài quay lung tung. Khi nó đã quay hết phạm vi của mình, ta sẽ biết được câu trả lời. Tôi biết cách nó vận hành nhờ đã xem một nhà thông thái ở Uppsala thực hiện, và đó là lần duy nhất tôi được thấy cái máy. Các vị có biết chúng hiếm đến thế nào không?”

“Hiệu trưởng nói với cháu rằng chỉ có sáu cái được chế tạo,” Lyra đáp.

“Dù con số có là bao nhiêu thì nó cũng không lớn.”

“Vậy cháu đã giữ bí mật này với Phu nhân Coulter, đúng như Hiệu trưởng dặn chứ?” John Faa hỏi.

“Vâng. Nhưng con linh thú của bà ấy, phải rồi, nó thường ra vào phòng cháu. Cháu dám chắc nó đã tìm thấy cái máy.”

“Ta hiểu rồi. Vậy, Lyra, ta không biết liệu chúng ta có bao giờ biết được toàn bộ sự thật hay không, nhưng đây là suy đoán khả dĩ nhất mà ta có. Hiệu trưởng được Ngài Asriel giao nhiệm vụ chăm sóc cháu và giữ cháu an toàn khỏi tay mẹ cháu. Và đó là điều ông ấy đã làm, trong mười năm hoặc hơn thế. Rồi bạn bè của Phu nhân Coulter trong Giáo hội giúp bà ta lập nên Ủy ban Hiến tế này, vì mục đích gì thì chúng ta không biết, rồi bà ta trở nên quyền lực theo cách của mình không khác gì Ngài Asriel theo cách của ông ấy. Cha mẹ cháu, cả hai đều có thế lực trên thế giới này, đều tham vọng, còn Hiệu trưởng trường Jordan thì giữ cháu trong sự cân bằng giữa bọn họ.

“Giờ đây Hiệu trưởng có cả trăm thứ cần phải để mắt tới. Mối quan tâm hàng đầu của ông ấy là học viện và nền giáo dục ở đó. Nên nếu thấy có gì đe dọa đến điều đó, ông ấy sẽ phải chống lại nó. Mà Giáo hội vào thời nay, Lyra ạ, đang ngày càng trở nên hùng mạnh. Có các hội đồng cho việc này và hội đồng cho việc kia; người ta còn bàn việc khôi phục lại Văn phòng Thẩm tra nữa, lạy trời đừng để chuyện đó xảy ra. Hiệu trưởng sẽ phải hành xử một cách thận trọng giữa tất cả những thế lực này. Ông ấy phải giữ cho Học viện Jordan ở đúng phía của Giáo hội, nếu không nó sẽ không tồn tại được.

“Và một mối quan tâm khác của Hiệu trưởng là cháu, cô bé ạ. Bernie Johansen luôn chắc chắn về điều đó. Hiệu trưởng trường Jordan và các Học giả khác yêu quý cháu như con cái của chính mình vậy. Họ sẵn sàng làm mọi thứ để bảo đảm an toàn cho cháu, không phải chỉ vì họ đã hứa với Ngài Asriel sẽ làm như vậy, mà là vì bản thân cháu. Vậy nên nếu Hiệu trưởng để cháu đi với Phu nhân Coulter trong khi đã hứa với Ngài Asriel là không làm như thế, ông ấy hẳn phải cho rằng cháu ở với bà ta sẽ an toàn hơn là ở Học viện Jordan, dù bề ngoài có thế nào đi chăng nữa. Còn khi dàn xếp để bỏ độc Ngài Asriel, hẳn ông ấy đã nghĩ rằng việc Ngài Asriel đang làm có thể đặt tất cả bọn họ vào nguy hiểm, và có lẽ tất cả chúng ta nữa; có khi là cả thế giới. Ta thấy Hiệu trưởng là một người phải thực hiện những lựa chọn tồi tệ; dù ông ấy có chọn gì cũng sẽ dẫn đến tổn hại; nhưng có lẽ nếu ông ấy chọn lựa chính xác, tổn thất sẽ ít hơn một chút so với khi ông ấy chọn sai. Cầu Chúa cho con không phải thực hiện những lựa chọn như vậy.

“Khi tới mức phải để cháu đi, ông ấy đã cho cháu chiếc máy đọc biểu tượng và dặn cháu phải giữ nó an toàn. Không hiểu ông ấy định để cháu làm gì với cái máy; vì cháu không đọc được nó, ta thật sự không hiểu nổi ông ấy đang nghĩ gì.”

“Ông ấy nói Bác Asriel đã tặng chiếc Chân Kế cho Học viện Jordan nhiều năm trước,” Lyra nói, cố gắng nhớ lại. “Ông ấy định nói thêm gì đó thì có người gõ cửa nên phải dừng lại. Cháu nghĩ là, có lẽ ông ấy cũng muốn cháu bảo vệ nó khỏi Ngài Asriel nữa.”

“Hoặc thậm chí là ngược lại,” John Faa nói.

“Ý ông là gì, John?” Farder Coram hỏi.

“Có thể ông Hiệu trưởng có ý định nhờ Lyra trả lại nó cho Ngài Asriel, như một cách chuộc lỗi vì đã định bỏ độc ông ấy. Có lẽ ông ấy cho rằng mối họa từ Ngài Asriel đã qua. Hoặc rằng Ngài Asriel có thể đọc được những điều sáng suốt từ dụng cụ này và sẽ kiềm chế thực hiện mục đích của mình. Nếu lúc này Ngài Asriel đang bị giam cầm, nó có thể sẽ giúp giải thoát ông ấy. Lyra à, tốt hơn hết cháu nên giữ an toàn cho chiếc máy đọc biểu tượng này. Ta không thấy lo lắng khi giao nó cho cháu vì cháu đã giữ được nó an toàn cho đến tận giờ. Nhưng có thể một thời điểm nào đó chúng ta sẽ cần tham khảo tới nó, ta nghĩ lúc đó chúng ta sẽ hỏi về chiếc máy.”

Ông bọc lớp vải nhung lên chiếc máy và đẩy nó lại phía bên kia bàn. Lyra muốn hỏi đủ thứ, nhưng đột nhiên cô cảm thấy ngượng ngùng trước người đàn ông to lớn với đôi mắt nhỏ sắc sảo và dịu dàng giữa những đường gấp và nếp nhăn này.

Nhưng có một điều cô bắt buộc phải hỏi.

“Người phụ nữ du mục đã nuôi nấng cháu là ai vậy ạ?”

“Trời ạ, đó là mẹ của Billy Costa, đương nhiên rồi. Bà ấy không nói với cháu vì ta không cho phép, nhưng bà ấy biết chúng ta đang nói chuyện gì ở đây, vậy nên không còn gì giấu giếm nữa rồi.

“Giờ thì cháu nên quay lại với bà ấy đi. Cháu sẽ có rất nhiều thứ phải suy nghĩ đó, cô bé ạ. Ba ngày nữa chúng ta sẽ lại có một buổi Roping và thảo luận tất cả những việc cần phải làm. Cháu phải ngoan đấy nhé. Ngủ ngon, Lyra.”

“Chúc ngủ ngon, Ngài Faa. Chúc ngủ ngon, Farder Coram,” cô bé lịch sự đáp lại, một tay ôm chặt chiếc Chân Kế trong ngực, tay còn lại bồng lấy Pantalaimon.

Hai người đàn ông mỉm cười dịu dàng với cô. Ngoài cửa phòng hội đàm Má Costa đang đợi sẵn và, như thể chẳng có gì xảy ra từ khi Lyra sinh ra, bà mẹ chủ thuyền ôm lấy cô bé trong vòng tay lực lưỡng của mình rồi hôn cô trước khi đưa cô về giường ngủ.