← Quay lại trang sách

- 13 - Kiếm thuật

Thôi thúc đầu tiên của cô bé là quay đầu chạy hoặc nôn mửa. Một con người không có linh thú cũng giống như một kẻ không có mặt, hay lồng ngực bị mở banh ra và tim bị moi: một thứ trái tự nhiên và kì quái chỉ thuộc về thế giới của những con quỷ gieo ác mộng, không phải là thế giới tri giác của người còn sống.

Vậy là Lyra ôm ghì lấy Pantalaimon, đầu óc choáng váng còn bao tử chộn rộn cả lên. Dù trời đêm buốt cóng, một thứ mồ hôi khó chịu vẫn túa ra ướt da cô, người lạnh toát.

“Ratter,” thằng bé cất tiếng. “Cậu có Ratter của tôi không?”

Lyra biết rõ ý nó muốn nói đến cái gì.

“Không,” cô bé nói bằng một giọng mỏng manh và sợ sệt đúng như cảm giác của cô lúc này. Rồi: “Tên cậu là gì?”

“Tony Makarios,” nó đáp. “Ratter đâu rồi?”

“Tôi không biết…” Cô bắt đầu nói, nuốt mạnh một cái để nén xuống cơn buồn nôn. “Những Kẻ háu ăn…” Nhưng cô đã không thể nói hết câu. Cô phải ra khỏi cái lán và ngồi xuống một mình dưới tuyết, nhưng hẳn nhiên là cô không chỉ có một mình, chưa từng một mình, vì Pantalaimon vẫn luôn ở đó. Chao ôi, thử tưởng tượng cô bị cắt khỏi nó giống như cậu bé kia bị chia rời khỏi Ratter của cậu ta mà xem! Đó hẳn là điều tồi tệ nhất trên thế giới! Cô thấy mình khóc nức nở, Pantalaimon cũng đang thút thít, trong lòng cả hai đứa dâng lên nỗi cảm thương và đau xót vô bờ đối với thằng bé bị chia nửa.

Sau đó cô lại đứng dậy.

“Thôi nào,” cô gọi bằng giọng run rẩy. “Tony ra đi. Chúng tôi sẽ đưa cậu đến chỗ an toàn.”

Có tiếng di chuyển trong căn nhà chứa cá, rồi cậu bé xuất hiện ở ngưỡng cửa, vẫn đang cầm chắc con cá khô. Nó đang mặc quần áo đủ ấm, một chiếc áo choàng có mũ trùm bằng lụa than được độn và chần dày cùng với ủng lông, nhưng trông chúng có vẻ là đồ dùng thửa và không vừa vặn cho lắm. Trong vùng sáng rộng hơn ở bên ngoài tới từ những vệt mờ ảo của Cực Quang và mặt đất phủ tuyết, trông thằng bé còn hoang mang và đáng thương hơn cả lúc đầu, khi nó co người trong ánh đèn lồng bên giá phơi cá.

Người dân làng đã mang đèn đến lùi lại vài mét rồi gọi với xuống chỗ họ.

Iorek Byrnison dịch lại: “Ông ta nói cô phải trả tiền cho con cá đó.”

Lyra cảm thấy muốn bảo con gấu giết ông ta đi, nhưng cô lại nói: “Chúng ta sẽ đưa đứa trẻ đi giùm họ. Họ có thể chịu mất một con cá để trả công cho việc đó được chứ.”

Con gấu nói lại. Người đàn ông lầm bầm gì đó nhưng không cãi lại. Lyra đặt đèn lồng xuống tuyết rồi cầm lấy bàn tay thằng bé bị cắt nửa để dẫn nó tới bên con gấu. Nó bất lực đi tới, chẳng hề tỏ ra ngạc nhiên hay sợ sệt gì trước con vật vĩ đại màu trắng đang đứng rất gần đó, rồi khi Lyra đỡ nó lên ngồi trên lưng Iorek, tất cả những gì nó nói là:

“Tôi không biết Ratter của tôi đâu mất rồi.”

“Chúng tôi cũng không biết, Tony ạ,” cô nói. “Nhưng chúng tôi… Chúng tôi sẽ trừng trị Những Kẻ háu ăn. Chúng tôi sẽ làm vậy, hứa đấy. Iorek, tôi cũng lên đó ngồi không sao chứ?”

“Bộ giáp của tôi nặng hơn mấy đứa nhóc nhiều,” nó đáp.

Vậy là cô bé trèo lên đằng sau Tony, bắt nó bám chắc vào bộ lông dài và cứng của con gấu. Pantalaimon ngồi trong mũ trùm của cô, ấm áp, gần gũi và đầy lòng trắc ẩn. Lyra biết rằng Pantalaimon muốn được với tới ôm lấy đứa trẻ bị cắt nửa, được liếm láp vuốt ve và sưởi ấm cho cậu bé như chính linh thú của nó sẽ làm; nhưng hẳn nhiên là điều cấm kị to lớn ngăn cản việc đó.

Họ băng qua làng rồi hướng về phía đỉnh núi. Gương mặt dân làng lộ rõ vẻ kinh hãi xen lẫn nhẹ nhõm khi thấy sinh vật bị cắt xén một cách ghê rợn được một bé gái và con gấu trắng lớn đưa đi.

Trong trái tim Lyra, nỗi ghê sợ vật lộn với lòng trắc ẩn, và lòng trắc ẩn đã thắng. Cô bé quàng tay quanh dáng người nhỏ bé gầy còm để giữ cho thằng bé an toàn. Chặng đường quay trở về với đoàn chính lạnh lẽo hơn, khó khăn hơn, và tối tăm hơn, nhưng vì tất cả những điều đó, dường như nó lại trôi qua nhanh chóng hơn. Iorek Byrnison không hề mệt mỏi, còn Lyra thì đã cưỡi được một cách chủ động, nên cô không bao giờ có nguy cơ bị ngã khỏi lưng gấu. Cơ thể lạnh lẽo trong vòng tay cô nhẹ đến mức về một mặt nào đó nó khá dễ dàng để coi sóc, nhưng thằng bé cứ đơ người ra; nó ngồi không nhúc nhích trong khi con gấu di chuyển, nên mặt khác việc này lại khá khó khăn.

Thỉnh thoảng thằng bé bị cắt nửa lại lên tiếng.

“Cậu nói gì cơ?” Lyra hỏi lại.

“Tôi hỏi là liệu nó có biết tôi ở đâu không?”

“Có chứ, nó sẽ biết, nó sẽ tìm được cậu và chúng ta sẽ tìm được nó. Bám chặt vào nào, Tony. Sắp đến rồi…”

Con gấu chồm lên phía trước. Lyra không hề biết mình đã mệt đến thế nào cho tới khi họ bắt kịp với đoàn du mục. Đoàn xe kéo vừa dừng lại để cho lũ chó giải lao, và đột nhiên tất cả bọn họ đều ở đó, Farder Coram, John Faa, Lee Scoresby, tất cả đều lao tới giúp và rồi im bặt đi khi thấy dáng người đi cùng Lyra. Người cô bé cứng đến mức cô thậm chí còn không thể nới lỏng vòng tay quanh người thằng bé. John Faa đã phải nhẹ nhàng gỡ chúng ra rồi nhấc cô xuống.

“Chúa ơi, gì thế này?” Ông thốt lên. “Lyra, cháu yêu, cháu đã tìm thấy gì thế này?”

“Tên cậu bé là Tony,” cô lẩm nhẩm qua đôi môi lạnh cóng. “Chúng đã tách rời linh thú của cậu ấy. Đó là việc Những Kẻ háu ăn đang làm.”

Những người đàn ông sững lại vì sợ hãi; nhưng trước sự kinh ngạc rệu rã của Lyra, con gấu lên tiếng quở trách họ.

“Thật đáng xấu hổ cho các người! Hãy nghĩ xem đứa trẻ này đã làm gì! Các người có thể không can đảm được như cô bé, nhưng cũng phải biết xấu hổ để đừng tỏ ra kém cỏi hơn chứ.”

“Ông nói đúng, Iorek Byrnison ạ,” John Faa nói rồi quay lại ra lệnh. “Nhóm lửa lên rồi hâm chút súp cho đứa nhỏ đi. Cho cả hai đứa bé. Farder Coram, lều của ông đã được dựng chưa?”

“Rồi, John ạ. Đưa cô bé đến và sưởi ấm cho nó đi…”

“Còn cậu bé,” một ai đó khác lên tiếng. “Nó có thể ăn và sưởi ấm, cho dù…”

Lyra đã định nói với John Faa về các phù thủy, nhưng họ đều quá bận rộn còn cô bé thì đã mệt bã người. Sau vài phút bị rối loạn bởi nào là ánh đèn lồng, khói củi, các bóng người vội vã đi tới đi lui, cô cảm thấy hàm răng chồn ermine của Pantalaimon đang cắn nhẹ lên tai mình. Cô bừng tỉnh và thấy khuôn mặt con gấu chỉ cách mặt mình vài phân.

“Đám phù thủy,” Pantalaimon thì thào. “Tớ đã gọi Iorek đấy.”

“Ồ phải rồi,” cô lẩm nhẩm. “Iorek, cảm ơn ông đã đưa tôi đến đó và quay lại. Tôi có thể sẽ không nhớ để nói với Ngài Faa về các phù thủy ông nên làm việc đó thay cho tôi nhé.”

Cô bé nghe thấy con gấu đồng ý rồi sau đó cô ngủ thiếp đi ngon lành.

Khi Lyra tỉnh dậy, trời đã gần sáng hẳn. Bầu trời phía đông nam mang một màu xanh nhạt, còn không khí thì ướt đẫm sương sớm. Đoàn dân du mục di chuyển qua màn sương như những bóng ma kềnh càng với các xe trượt chất ngất đồ và những chú chó được thắng cương.

Cô bé đang nằm dưới một đống áo lông thú và nhìn ra quang cảnh bên ngoài từ trong chiếc lều trên xe kéo của Farder Coram. Pantalaimon đã tỉnh dậy trước cả cô, nó đang thử biến thành một con cáo Bắc Cực trước khi trở lại hình dạng chồn ermine ưa thích.

Iorek Byrnison đang say ngủ trên nền tuyết gần đó, đầu tựa lên đôi chân đồ sộ. Farder Coram đã dậy và đang rất bận rộn, khi vừa thấy Pantalaimon xuất hiện, ông liền tập tễnh đi tới đánh thức Lyra dậy.

Cô bé nhìn thấy ông tới liền ngồi dậy để nói.

“Farder Coram, cháu đã biết điều mà lần trước cháu không lí giải nổi rồi! Chân Kế cứ liên tục nhắc đến chim và không, và điều đó thật vô nghĩa, vì nó có nghĩa là không có linh thú mà cháu thì cho rằng chuyện đó không thể xảy ra… Có chuyện gì vậy ạ?”

“Lyra, ta sợ phải nói với cháu điều này sau những gì cháu đã làm, nhưng cậu bé đó đã chết một giờ trước rồi. Nó không thể giữ bình tĩnh, không ngồi yên được một chỗ; thằng bé liên tục hỏi về linh thú của mình, nó ở đâu, nó có đến sớm không, vân vân; và thằng bé cứ giữ khư khư lấy miếng cá trơ trụi cũ rích ấy như thể… Ôi, ta không thể nói về chuyện này nữa, cháu gái ạ; nhưng cậu bé cuối cùng đã nhắm mắt lại và nằm im, đó là lần đầu tiên trông nó yên bình, vì lúc đó trông nó không khác gì những người đã mất khác, những người có linh thú biến mất thuận theo tự nhiên. Mọi người đã cố gắng đào một huyệt mộ cho cậu bé, nhưng mặt đất rắn như đá vậy. Vậy nên John Faa đã ra lệnh nhóm lửa, họ sẽ hỏa táng cậu bé, như vậy nó sẽ không bị động vật ăn xác thối cuỗm đi mất.

“Cô bé, cháu đã làm một việc dũng cảm và tuyệt vời, ta rất tự hào về cháu. Giờ chúng ta đã biết những kẻ đó có thể làm những việc độc ác tồi tệ nào, chúng ta có thể thấy nghĩa vụ của mình rõ ràng hơn bao giờ hết. Việc cháu cần phải làm là nghỉ ngơi và ăn uống, vì tối qua cháu ngủ sớm quá nên chưa kịp ăn, nhất là vào nhiệt độ như thế này, cháu cần ăn để giữ sức…”

Ông đang làm việc không ngơi tay, nào là nhét lông vào đúng chỗ, buộc chặt lại sợi dây chăng ngang thân xe kéo, rồi lại dùng tay vuốt dây cương cho khỏi rối.

“Farder Coram, giờ cậu bé đang ở đâu ạ? Họ đã hỏa táng cậu ấy chưa?”

“Chưa, Lyra ạ, cậu bé đang nằm ở đằng sau kia kìa.”

“Cháu muốn đi gặp cậu ấy.”

Ông không nỡ từ chối cô bé, vì cô đã nhìn thấy thứ còn tồi tệ hơn một cái xác chết, mà có khi làm vậy lại khiến cô bình tĩnh hơn. Vậy là cùng với Pantalaimon trong dạng thỏ rừng trắng thanh thoát nhảy bên cạnh, cô bé lê bước dọc theo hàng xe kéo tới nơi vài người đang chất gỗ từ các bụi cây.

Thi thể cậu bé nằm dưới một tấm chăn kẻ carô bên cạnh lối đi. Cô quỳ xuống nhấc tấm chăn lên bằng đôi tay đi găng. Một người định ngăn cô lại, nhưng những người khác lắc đầu.

Pantalaimon rón rén tới sát khi Lyra nhìn xuống gương mặt tội nghiệp. Cô bé tháo tay ra khỏi găng và chạm vào đôi mắt cậu, chúng lạnh như đá. Farder Coram nói đúng, Tony Makarios nhỏ bé tội nghiệp chẳng khác gì những người bình thường bị chia rời khỏi linh thú do cái chết. Ôi, thử tưởng tượng nếu ai đó cướp Pantalaimon đi khỏi cô mà xem! Cô bế Pantalaimon lên và ôm nó như thể muốn ấn nó vào thẳng trái tim mình. Vậy mà cậu bé Tony lại chỉ có miếng cá nhỏ xíu của mình…

Nó đâu rồi?

Cô kéo cái chăn xuống. Mất rồi.

Ngay lập tức cô bé đứng dậy, đôi mắt lóe lên giận dữ với những người đàn ông đứng cạnh đó.

“Con cá của cậu ấy đâu rồi?”

Họ dừng lại, bối rối, không rõ ý cô là gì; mặc dù vài con linh thú của họ thì hiểu chuyện, bèn quay ra nhìn nhau. Một trong số những người đàn ông bắt đầu nhoẻn miệng cười vẻ không chắc chắn.

“Đừng có cười! Tôi sẽ xé xác anh ra nếu anh dám cười cậu ấy! Đó là tất cả những gì cậu ấy có để bấu víu vào, chỉ là một con cá khô cũ mèm, đó là thứ duy nhất cậu ấy có để thay cho một linh thú để yêu thương và ân cần! Ai đã lấy nó đi khỏi cậu ấy? Nó đâu rồi?”

Pantalaimon đang gầm gừ trong dạng một con báo tuyết, giống như linh thú của Ngài Asriel, nhưng cô không thấy điều đó, trong mắt cô chỉ có đúng và sai.

“Bình tĩnh nào, Lyra,” một người nói. “Thư giãn đi cô bé.”

“Ai đã lấy nó đi?” Mắt cô lại lóe lên, khiến người đàn ông lùi lại một bước trước cơn giận dữ điên cuồng của cô.

“Tôi đã không biết,” một người khác nói vẻ hối lỗi, “tôi cứ nghĩ đó chỉ là thứ cậu bé đang ăn. Tôi đã lấy nó ra khỏi tay cậu ta vì nghĩ như vậy sẽ tôn trọng hơn. Chỉ là vậy thôi, Lyra ạ.”

“Vậy nó đâu rồi?”

Người đàn ông đáp vẻ khó xử: “Tôi không nghĩ cậu ta cần nó nên đã cho lũ chó ăn rồi. Tôi rất xin lỗi.”

“Anh không cần xin lỗi tôi, phải xin lỗi cậu ấy chứ,” cô nói rồi lập tức quay đi và lại quỳ xuống, đặt tay lên gò má lạnh toát của đứa trẻ đã chết.

Rồi một ý tưởng chợt đến, cô bèn mò mẫm trong áo khoác. Không khí lạnh ùa vào khi cô mở chiếc áo trùm đầu ra, nhưng chỉ trong vài giây cô đã có được thứ mình muốn. Cô lấy một đồng vàng từ trong ví ra trước khi quấn kín người lại.

“Cho tôi mượn dao của anh,” cô nói với người đàn ông đã lấy con cá. Khi đã nhận được dao từ anh ta, cô hỏi Pantalaimon: “Tên nó là gì?”

Đương nhiên là nó hiểu ý cô, và nói: “Ratter.”

Cô bé giữ chắc đồng xu trong bàn tay trái đi găng của mình rồi cầm dao như cầm bút chì, cô khắc sâu tên con linh thú đã mất vào lớp vàng.

“Hi vọng cậu sẽ hài lòng nếu tôi làm cho cậu giống như với một Học giả Jordan,” cô bé thì thầm với cậu bé đã chết rồi nạy hàm của cậu ra để đẩy đồng xu vào trong mồm. Công việc khá khó khăn nhưng cô xoay xở được, sau cùng cô cũng đóng được hàm cậu bé lại.

Rồi cô trả con dao lại cho người đàn ông và quay đi trong ánh bình minh buổi sớm để trở lại với Farder Coram.

Ông đưa cô một bát súp vừa bắc trên bếp xuống, cô bé ngấu nghiến húp lấy nó.

“Chúng ta sẽ làm thế nào với các phù thủy đây ạ, Farder Coram?” Cô hỏi. “Không biết cô phù thủy của ông có ở trong số họ không.”

“Phù thủy của ta? Ta sẽ không nói đến mức đó đâu, Lyra. Họ có thể đang đi bất cứ đâu. Cuộc đời của các phù thủy có đủ những mối quan tâm; những thứ vô hình đối với chúng ta; những căn bệnh bí ẩn mà họ mắc phải trong khi chúng ta lại chẳng buồn đếm xỉa; những nguyên nhân gây ra chiến tranh vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta; niềm vui và nỗi buồn gắn chặt với sự đơm hoa của những loài thực vật nhỏ xíu trên lãnh nguyên… Nhưng ta ước mình thấy được họ đang bay, Lyra ạ. Ta ước ta có thể thấy được một cảnh tượng như vậy. Uống nốt chỗ súp đó đi nào. Cháu có muốn thêm chút nữa không? Ta cũng đang làm ít bánh mì áp chảo nữa. Ăn hết đi, cháu gái, vì chúng ta sẽ lại sớm lên đường thôi.”

Món ăn giúp Lyra tỉnh lại, chẳng mấy chốc sự lạnh giá trong tâm hồn cô bắt đầu tan chảy. Cùng với những người khác, cô đến xem đứa trẻ bị cắt nửa nằm trên giàn hỏa thiêu, cô cúi đầu và nhắm mắt lại trước những lời cầu nguyện của John Faa; rồi mọi người rưới tinh than lên và châm lửa, chẳng bao lâu sau ngọn lửa đã bùng lên rực rỡ.

Sau khi đảm bảo cậu bé đã được thiêu cẩn thận, cả đoàn lại bắt đầu lên đường. Đó là một hành trình ma quái. Tuyết sớm bắt đầu rơi, chẳng bao lâu sau thế giới xung quanh đã thu hẹp lại chỉ còn là những cái bóng xám của đàn chó phía trước, chiếc xe kéo tròng trành cọt kẹt, cái lạnh nhức nhối, và một biển những bông tuyết bự xoáy cuồng loạn chỉ hơi sẫm hơn bầu trời và hơi sáng hơn nền đất một chút.

Đàn chó vẫn tiếp tục chạy băng qua tất cả, đuôi dựng cao, mồm phả ra từng đợt hơi nước. Họ tiến xa hơn, xa hơn nữa về phía bắc, trong lúc buổi trưa vàng vọt đến rồi đi và ánh chạng vạng lại trải mình ôm lấy thế giới. Cả đoàn dừng lại ăn uống nghỉ ngơi trong một khoảng trống giữa những quả đồi và xác định lại phương hướng. Trong lúc John Faa thảo luận với Lee Scoresby về cách có thể sử dụng khí cầu hiệu quả nhất, Lyra nghĩ về con bọ gián điệp; cô bé hỏi Farder Coram chuyện gì đã xảy ra với chiếc hộp thiếc đựng lá thuốc mà nó đang bị nhốt bên trong.

“Ta đã cất kĩ nó đi rồi,” ông nói. “Nó ở dưới đáy túi đồ nghề kia kìa, nhưng chẳng có gì để xem đâu; ta đã hàn kín nó lúc còn ở trên tàu, như đã nói. Nói thật với cháu, ta cũng không biết chúng ta sẽ phải làm gì với nó; có khi chúng ta sẽ thả nó xuống một mỏ lửa, có lẽ việc đó sẽ giải quyết được vấn đề. Nhưng cháu không cần phải lo đâu, Lyra. Chừng nào ta còn giữ nó thì cháu sẽ vẫn an toàn.”

Ngay khi có cơ hội, cô liền thọc tay xuống lớp vải bạt đông cứng của túi đựng đồ nghề rồi lôi cái hộp thiếc nhỏ lên. Cô có thể cảm thấy nó đang rung lên ì ì trước cả khi chạm tay vào đó.

Trong lúc Farder Coram nói chuyện với các lãnh đạo khác, cô mang cái hộp đến cho Iorek Byrnison và giải thích ý tưởng của mình. Ý tưởng đó tới khi cô nhớ lại việc con gấu dễ dàng cắt xuyên qua lớp kim loại bọc đầu máy.

Nó lắng nghe rồi lấy nắp một hộp bánh quy và khéo léo gập thành một hình trụ dẹt. Cô kinh ngạc trước sự khéo tay của nó: không giống hầu hết những con gấu khác, Iorek Byrnison và họ hàng của mình có ngón cái đối diện với bàn tay nên chúng có thể giữ chắc đồ vật để thao tác trên đó; Iorek Byrnison còn có cảm giác trời phú về sức mạnh và tính mềm dẻo của kim loại, điều đó có nghĩa là nó chỉ cần nhấc tấm kim loại lên một hai lần, bẻ qua bẻ lại một chút là có thể, dùng móng vạch một đường tròn để sau đó gập lại. Hiện giờ Iorek Byrnison đang thực hiện việc đó, gập các mép vào trong cho tới khi chúng dựng đứng lên rồi sau đó làm một cái nắp vừa vặn cho nó. Theo lệnh của Lyra, nó làm hai cái: một cái cùng cỡ với chiếc hộp thiếc đựng lá thuốc nguyên bản, và một cái khác vừa đủ lớn để đựng chính cái hộp thiếc cùng một ít tóc, rêu và địa y được ấn chặt xuống để bịt tiếng ồn. Khi được đóng lại, nó có cùng cỡ và hình dạng với chiếc Chân Kế.

Khi công việc đã được hoàn thành, cô ngồi xuống cạnh Iorek Byrnison trong khi con gấu gặm một cái đùi tuần lộc đóng đá cứng như gỗ.

“Iorek,” cô nói, “không có linh thú có khó khăn không? Ông không thấy cô đơn à?”

“Cô đơn?” Nó đáp. “Tôi không biết. Người ta nói với tôi đây là cái lạnh, mà tôi thì chẳng biết lạnh là gì vì tôi không cảm thấy nó. Vì vậy tôi cũng không biết cô đơn có nghĩa là gì. Gấu được tạo ra để sống cô độc.”

“Còn gấu ở Svalbard thì sao?” Cô hỏi. “Chẳng phải ở đó có hàng nghìn con sao? Tôi nghe nói như vậy.”

Nó chẳng nói chẳng rằng mà xé đôi cái khớp đùi tuần lộc, tạo ra âm thanh như một khúc củi bị bửa dọc.

“Thứ lỗi cho tôi, Iorek,” cô nói. “Tôi hi vọng mình không xúc phạm ông. Chỉ là tôi tò mò thôi. Ông thấy đấy, tôi đặc biệt tò mò về những con gấu ở Svalbard vì cha tôi.”

“Cha cô là ai?”

“Ngài Asriel. Chúng đã bắt giam ông ấy ở Svalbard, vậy đấy. Tôi nghĩ Những Kẻ háu ăn đã phản bội ông ấy và trả công cho lũ gấu để canh giữ ông ấy trong tù.”

“Tôi không biết. Tôi không phải gấu Svalbard.”

“Tôi cứ nghĩ ông đã từng…”

“Không. Tôi đã từng là một con gấu Svalbard, nhưng giờ thì không. Tôi bị trục xuất như một hình phạt vì đã giết một con gấu khác. Do vậy tôi đã bị tước đi địa vị, của cải, áo giáp và bị đẩy ra sống ở rìa xã hội loài người, phải đấu tranh để kiếm việc hay làm những công việc tàn bạo rồi dìm kí ức của mình trong rượu mạnh nguyên chất.”

“Tại sao ông lại giết con gấu kia?”

“Vì giận dữ. Loài gấu có nhiều cách để bỏ qua cơn giận với nhau, nhưng tôi đã bị mất kiểm soát. Tôi đã giết hắn ta và bị trừng phạt đích đáng.”

“Ông đã giàu có và ở địa vị cao sang,” Lyra ngạc nhiên thốt lên. “Giống như cha tôi vậy, Iorek! Giống y như ông ấy sau khi tôi được sinh ra. Ông ấy cũng đã giết người và bị người ta tước đi toàn bộ tài sản của mình. Mặc dù chuyện đó xảy ra rất lâu trước khi ông bị cầm tù ở Svalbard. Tôi chẳng biết gì về Svalbard cả, ngoại trừ việc nó ở tận cùng của Phương Bắc… Có phải nó được bao phủ hoàn toàn bởi băng tuyết không? Có thể vượt qua biển đóng băng để tới đó không?”

“Không phải từ bờ biển này. Biển ở phía nam của nó đôi khi đóng băng, nhưng có lúc thì không. Cô sẽ cần một con thuyền.”

“Hoặc một cái khí cầu, có lẽ vậy.”

“Hoặc một cái khí cầu, phải, nhưng như vậy cô sẽ cần luồng gió thổi đúng hướng.”

Nó gặm tiếp cái đùi tuần lộc. Một ý tưởng điên rồ ập tới tâm trí Lyra khi cô nhớ lại đoàn phù thủy trên bầu trời đêm; nhưng cô không nói gì về điều đó cả. Thay vào đó, cô hỏi Iorek Byrnison về Svalbard, rồi chăm chú lắng nghe khi nó kể về những dòng sông băng chảy chậm; về những tảng đá và băng trôi nơi những con moóc có ngà nhạt màu nằm thành từng nhóm một trăm cá thể hay nhiều hơn, về những vùng biển nhung nhúc hải cẩu, về những con kì lân biển đập chan chát cái ngà trắng dài vào nhau phía trên mặt nước buốt giá; về bờ biển sóng cồn dữ dội, những vách núi cao hàng trăm mét hoặc hơn, nơi những con quỷ vực xấu xí đậu và thình lình tấn công; về các hầm than và mỏ lửa, nơi những con gấu thợ rèn nện búa lên những tấm sắt vĩ đại rồi tán chúng thành giáp chiến…

“Iorek, nếu họ đã lấy giáp của ông đi rồi thì ông kiếm bộ này ở đâu ra vậy?”

“Tôi tự chế tạo từ kim loại trời ở Nova Zembla. Tôi đã không được trọn vẹn cho tới tận lúc đó.”

“Hóa ra gấu có thể tự tạo ra linh hồn của mình…” Cô nói. Có quá nhiều thứ trên thế giới này để cô khám phá. “Ai là Vua xứ Svalbard vậy?” Cô nói tiếp. “Gấu có Vua không?”

“Hắn được gọi là Iofur Raknison.”

Cái tên gợi lại chút kí ức trong tâm trí Lyra. Cô đã từng nghe thấy nó, nhưng ở đâu nhỉ? Mà cái tên ấy được nhắc đến không phải bằng giọng của một con gấu hay một người du mục. Giọng nói đó là của một Học giả, câu nệ, kiểu cách và ngạo mạn một cách hời hợt, rất có thể là giọng của một người của Học viện Jordan. Cô cố gắng nhớ lại một lần nữa. Ôi, cô đã biết nó rất rõ!

Và rồi cô nhớ ra: đó là lúc ở trong Phòng nghỉ, khi các Học giả lắng nghe Ngài Asriel thuyết trình. Chính là Giáo sư Palmerian đã nhắc đến Iofur Raknison. Ông đã dùng từ panserbjørne, từ mà Lyra không biết, và cô cũng không biết Iofur Raknison là một con gấu; nhưng ông ấy đã nói gì nhỉ? Vua xứ Svalbard là một kẻ tự phụ, hắn thích được xu nịnh. Còn có một điều gì khác nữa, giá mà cô có thể nhớ ra được, nhưng từ dạo đó đã có quá nhiều chuyện xảy ra…

“Nếu cha cô là một tù nhân của gấu Svalbard,” Iorek Byrnison nói, “ông ta sẽ không thoát được đâu. Ở đó không có gỗ để đóng thuyền. Mặt khác, nếu ông ta là quý tộc, ông ta sẽ được đối xử tử tế. Họ sẽ cấp cho ông ta một căn nhà để sống, một người hầu để phục vụ, cả thức ăn và nhiên liệu nữa.”

“Liệu những con gấu đó có bao giờ bị đánh bại không, Iorek?”

“Không.”

“Hay là bị lừa chẳng hạn?”

Nó ngừng nhai và nhìn thẳng vào cô. Rồi nó nói: “Cô sẽ không bao giờ đánh bại được gấu mặc giáp đâu. Cô đã thấy giáp của tôi rồi; giờ thì xem vũ khí của tôi đi.”

Nó thả miếng thịt xuống rồi ngửa lòng bàn tay lên để cô nhìn. Mỗi miếng thịt đệm màu đen đều được bao phủ bởi lớp da cứng như sừng dày một tấc hoặc hơn, cái móng nào cũng dài ít nhất là bằng bàn tay của Lyra, và bén như lưỡi dao. Nó để cô bé miết tay lên chúng trong kinh ngạc.

“Chỉ cần một nhát là nát sọ hải cẩu ngay,” con gấu nói. “Hoặc làm gãy lưng người hay phạt đứt một cẳng. Tôi còn có thể cắn nữa. Cô mà không ngăn lúc ở Trollesund thì tôi đã nghiền đầu tên đó như nghiền trứng rồi. Ba hoa về sức mạnh thế đủ rồi, giờ đến các thủ đoạn. Cô không thể lừa một con gấu được đâu. Muốn xem bằng chứng không? Lấy một cái que rồi đấu kiếm với tôi đi.”

Háo hức muốn thử, cô bẻ một cái que ra khỏi bụi cây nặng trĩu tuyết, tỉa hết các cành con đi, rồi vụt nó sang hai bên như đang cầm một thanh kiếm. Iorek Byrnison ngồi xổm xuống chờ đợi, tay đặt trong lòng. Khi đã sẵn sàng, cô quay ra đối diện với nó, nhưng cô không muốn đâm vì trông nó thật yên bình. Vì vậy cô vung mạnh cành cây lên, giả bộ đâm trái đâm phải nhưng lại chẳng hề định đánh trúng nó, mà con gấu thì chẳng buồn cử động. Cô làm vậy vài lần, và chẳng lần nào con gấu nhúc nhích đến một li.

Cuối cùng cô quyết định chọc thẳng vào nó, không mạnh, chỉ là để chạm cái que vào bụng nó. Lập tức, nó vươn tay ra hất cái gậy sang một bên.

Ngạc nhiên, cô thử lại lần nữa nhưng kết quả vẫn vậy. Con gấu cử động lẹ làng và dứt khoát hơn cô rất nhiều. Cô nghiêm túc muốn đánh trúng nó, nắm cái que như gươm của một kiếm sĩ, nhưng chưa một lần nào chạm được vào người con gấu. Dường như nó biết được cô định làm gì trước cả bản thân cô, khi cô nhào tới đâm vào đầu nó, bàn tay khổng lồ dễ dàng gạt cái que sang một bên, còn khi cô giả vờ, nó chẳng thèm cựa quậy.

Cô bé điên tiết lên và lao vào tấn công tới tấp, đâm, vụt, xiên, thọc, nhưng không lần nào qua được đôi bàn tay đó. Chúng di chuyển khắp mọi nơi, chính xác trong thời điểm gạt tay, chính xác cả về vị trí đỡ.

Cuối cùng cô sợ hãi và dừng lại. Mồ hôi đầm đìa trong áo khoác lông, cô thở dốc, kiệt sức, trong khi con gấu vẫn ngồi điềm nhiên như không. Kể cả cô có cầm một thanh kiếm thật với mũi nhọn chết người đi nữa thì nó vẫn sẽ chẳng sứt mẻ gì.

“Tôi dám cá ông có thể bắt được cả đạn nữa,” cô nói rồi quẳng cái que đi. “Sao ông làm được vậy?”

“Bằng cách không phải là con người,” nó đáp. “Đó là lí do cô không bao giờ có thể lừa gạt một con gấu. Chúng tôi thấy những mánh lới và trò lừa phỉnh rõ ràng như thấy tay với chân vậy. Chúng tôi có thể thấy theo cách mà con người đã quên mất. Nhưng cô biết về điều này; cô có thể hiểu được chiếc máy đọc biểu tượng.”

“Hai việc đó đâu có giống nhau chứ?” Cô bé nói. Hiện giờ cô cảm thấy e ngại về con gấu còn hơn cả khi thấy nó nổi giận.

“Giống nhau đấy,” nó nói. “Theo như tôi hiểu thì người lớn không đọc được. Cô đối với người lớn trong việc hiểu chiếc máy cũng giống như tôi đối với các đấu sĩ loài người vậy.”

“Ờ, chắc vậy,” cô bé đáp, bối rối và không thỏa mãn. “Có nghĩa là tôi sẽ quên cách đọc khi lớn lên ư?”

“Ai mà biết được? Tôi chưa từng thấy một cái máy đọc biểu tượng hay gặp bất cứ ai đọc được chúng cả. Có lẽ cô khác với những người khác.”

Iorek Byrnison lại sụp xuống bốn chân rồi tiếp tục gặm nốt miếng thịt. Lyra đã cởi áo khoác ra, nhưng giờ cái lạnh lại ùa vào nên cô lại phải khoác lên. Nhìn chung, đó là một tình tiết khiến cô lo lắng. Cô muốn tham khảo chiếc Chân Kế ngay tại đó, nhưng trời quá lạnh, hơn nữa, mọi người lại đang gọi cô vì đã đến lúc lên đường. Cô cầm lấy cái hộp thiếc mà Iorek Byrnison đã làm, đặt cái hộp rỗng lại vào túi đồ nghề của Farder Coram, rồi nhét cái có con bọ gián điệp vào chiếc túi nhỏ đeo ở thắt lưng cùng với chiếc Chân Kế. Cô thấy mừng vì họ lại chuẩn bị lên đường.

Các lãnh đạo đã nhất trí với Lee Scoresby rằng khi tới điểm dừng chân tiếp theo, họ sẽ bơm phồng khí cầu của ông và ông sẽ do thám từ trên không trung. Hẳn nhiên là Lyra rất háo hức được bay cùng với ông, và đương nhiên là việc đó bị cấm; nhưng cô đã đi cùng với ông suốt chặng đường tới đó và quấy quả ông với cả đống câu hỏi.

“Ông Scoresby, ông sẽ bay đến Svalbard như thế nào?”

“Ta sẽ cần một chiếc khí cầu điều khiển được có gắn động cơ chạy gas, kiểu như một chiếc zeppelin vậy, nếu không thì phải là một luồng gió tốt về hướng nam. Nhưng còn lâu, ta chẳng dám đâu. Cháu đã thấy nó bao giờ chưa? Một nơi khỉ ho cò gáy ở tận cùng thế giới, trơ trọi, trống trải, tiêu điều và khó sống chưa từng thấy.”

“Cháu chỉ đang tự hỏi, không biết Iorek Byrnison có muốn quay về không…”

“Ông ta sẽ bị giết mất. Iorek đang bị đi đày. Ông ta mà đặt chân vào đó là sẽ bị chúng xé xác ngay.”

“Ông bơm phồng khí cầu như thế nào, ông Scoresby?”

“Có hai cách. Ta có thể tạo ra khí hydro bằng cách đổ axit sunfuric lên mạt sắt, sau đó thu lấy khí gas mà nó thải ra rồi dần dần bơm đầy khí cầu lên như thế. Cách khác là tìm một miệng phun khí gas từ dưới lòng đất gần mỏ lửa. Ở đây có rất nhiều khí gas ngầm, thêm cả dầu mỏ nữa. Nếu cần ta có thể tạo ra gas từ dầu mỏ, cả từ than đá nữa; việc tạo ra khí gas không hề khó. Nhưng cách nhanh nhất là dùng khí gas lòng đất. Một miệng phun tốt sẽ bơm đầy khí cầu trong vòng một giờ.”

“Ông có thể chở được bao nhiêu người?”

“Sáu, nếu cần thiết.”

“Ông có thể chở Iorek Byrnison đang mặc giáp không?”

“Ta đã từng làm thế. Có một lần ta đã cứu ông ta khỏi tay quân Tartar khi ông ta đang bị cách li và bỏ đói - đó là vào chiến dịch Tunguska; ta đã bay vào và mang ông ta đi. Nghe thì dễ, nhưng quỷ tha ma bắt, ta đã phải tính toán trọng lượng của anh chàng to xác đó bằng cách phỏng đoán. Rồi ta còn phải trông chờ vào việc tìm được nguồn khí gas lòng đất dưới cái pháo đài bằng băng mà ông ta đã dựng lên. Nhưng ta có thể thấy được loại đất ở đó từ trên không trung, và ta đoán là có đào xới cũng không nguy hiểm. Cháu thấy đấy, để hạ xuống ta phải nhả khí ra khỏi khí cầu, và nếu không được cấp thêm, ta sẽ không bay lên được nữa. Dù sao thì bọn ta cũng đã làm được, đầy đủ cả giáp sắt nữa.”

“Ông Scoresby, ông có biết là dân Tartar đục lỗ trên đầu người ta không?”

“Ồ, có chứ. Chúng đã thực hiện việc đó hàng ngàn năm rồi. Trong chiến dịch Tunguska chúng ta đã bắt sống được năm tên Tartar, ba trong số đó có lỗ trên sọ của mình. Một trong số chúng có hai lỗ.”

“Chúng làm vậy với nhau sao?”

“Phải. Đầu tiên chúng cắt một phần vòng tròn trên da đầu để có thể lật lên và để lộ xương sọ. Rồi chúng đục một vòng tròn xương nhỏ ra khỏi sọ, rất cẩn thận để không chọc vào não, sau đó chúng khâu da đầu lại phía trên.”

“Cháu cứ nghĩ chúng chỉ làm vậy với kẻ thù!”

“Quỷ thần ơi, không đâu. Đó là một đặc ân to lớn. Chúng làm vậy để các vị thần có thể giao tiếp được với chúng.”

“Ông đã từng nghe về một nhà thám hiểm có tên Stanislaus Grumman chưa?”

“Grumman? Rồi. Ta đã gặp một người trong đoàn của ông ta khi bay qua sông Yenisei hai năm trước. Ông ta đã định sống cùng các bộ tộc người Tartar ở trên đó. Thực ra, ta nghĩ ông ta để người ta đục lỗ trên sọ mình. Đó là một phần của lễ kết nạp, nhưng người đã kể chuyện cho ta không biết nhiều về nó.”

“Vậy… Nếu ông ấy là một người Tartar danh dự, chúng sẽ không giết ông ấy phải không?”

“Giết ông ta? Vậy ông ta chết rồi à?”

“Vâng. Cháu đã thấy đầu ông ấy,” Lyra tự hào nói. “Cha cháu đã tìm thấy nó. Cháu thấy nó khi ông ấy cho các Học giả của Học viện Jordan ở Oxford xem. Chúng đã lột da đầu ông ấy.”

“Ai đã làm vậy cơ?”

“À thì, người Tartar ạ, các Học giả đã nghĩ vậy… Nhưng có thể là không phải.”

“Đó có thể không phải là đầu của Grumman,” Lee Scoresby nói. “Có thể cha cháu đã lừa các Học giả.”

“Có lẽ vậy,” Lyra trầm tư nói. “Lúc đó ông ấy đang xin họ tiền.”

“Vậy khi thấy cái đầu, họ đã cấp tiền cho ông ấy?”

“Vâng.”

“Mánh lới giỏi lắm. Người ta sẽ sốc khi thấy một thứ như vậy; họ không muốn nhìn quá kĩ.”

“Đặc biệt là các Học giả,” Lyra nói.

“Cái đó thì cháu biết rõ hơn ta. Nhưng nếu đó là đầu của Grumman, ta dám cá là không phải dân Tartar đã lột da nó. Chúng lột da kẻ thù chứ không phải đồng minh, mà ông ấy thì đã được nhận là người Tartar.”

Lyra cứ suy nghĩ về điều đó mãi trong lúc họ tiến về phía trước. Những dòng chảy rộng lớn mang đầy ý nghĩa trôi nhanh quanh tâm trí cô: Những Kẻ háu ăn và sự tàn nhẫn của chúng, nỗi sợ của chúng đối với Bụi, thành phố trong Cực Quang, cha cô ở Svalbard, mẹ cô… Bản thân cô thì ở đâu nhỉ? Chiếc Chân Kế, đoàn phù thủy bay về hướng bắc. Rồi còn Tony Makarios nhỏ bé tội nghiệp; con bọ gián điệp chạy máy đồng hồ; và tài kiếm thuật phi thường của Iorek Byrnison …

Cô ngủ thiếp đi. Đoàn người đang tiến gần tới Bolvangar từng giờ một.