- 14 - Ánh sáng từ Bolvangar
Việc những người du mục không hề nghe ngóng được hay thấy chút gì về Phu nhân Coulter khiến Farder Coram và John Faa lo lắng hơn nhiều những gì họ để cho Lyra biết; nhưng họ không hề biết rằng chính cô cũng rất lo lắng. Lyra sợ Phu nhân Coulter và thường xuyên nghĩ tới bà. Giờ đây trong khi Ngài Asriel đã là “cha”, thì Phu nhân Coulter lại chưa từng là “mẹ”. Nguyên nhân là do con linh thú khỉ vàng của Phu nhân Coulter, kẻ Pantalaimon căm ghét vô cùng, và cũng là kẻ mà Lyra cảm thấy rằng đã soi mói những bí mật của cô, đặc biệt là của chiếc Chân Kế.
Và bọn họ chắc chắn đang đuổi theo cô; thật ngốc nghếch nếu nghĩ khác đi. Chính con bọ gián điệp đã chứng tỏ điều đó.
Nhưng khi có kẻ thù tấn công thì đó lại không phải là Phu nhân Coulter. Đoàn du mục đã dự định dừng chân để cho lũ chó giải lao, sửa sang lại vài chiếc xe trượt, và chuẩn bị sẵn sàng vũ khí cho cuộc đột kích lên Bolvangar. John Faa hi vọng rằng Lee Scoresby có thể tìm thấy nguồn khí gas lòng đất nào đó để bơm căng chiếc khí cầu nhỏ hơn của ông (vì có vẻ như ông có hai cái) rồi bay lên để do thám mặt đất. Tuy nhiên, ông phi công lưu tâm đến tình trạng thời tiết kĩ lưỡng chẳng kém một thủy thủ, và ông nói rằng sẽ có sương mù; quả không sai, họ vừa dừng lại thì một màn sương dày đặc giăng xuống. Lee Scoresby biết rằng mình sẽ chẳng nhìn thấy gì từ trên trời, nên ông đành phải bằng lòng với việc kiểm tra dụng cụ của mình, dù cho nó đã được sắp xếp cực kì cẩn thận. Rồi chẳng hề báo trước, một trận mưa tên phóng ra từ trong bóng tối.
Ba người đàn ông du mục lập tức gục xuống rồi chết lặng lẽ đến mức chẳng một ai nghe thấy bất cứ tiếng động gì. Chỉ khi họ đổ uỳnh xuống trên vệt chó kéo hay đột ngột nằm bất động thì những người gần đó nhất mới nhận thấy chuyện gì đang diễn ra. Nhưng lúc đó thì đã quá trễ vì đang có thêm nhiều mũi tên được phóng về phía họ. Vài người ngước lên nhìn, lúng túng bởi những tiếng lao vun vút bất thường tới từ khắp mọi hướng khi tên xọc vào gỗ hay vải bạt bị đông cứng.
Người đầu tiên định thần lại được là John Faa. Ông đã lập tức hét lên các mệnh lệnh từ giữa hàng. Những bàn tay lạnh cóng và đôi chân cứng đờ cố gắng di chuyển theo lệnh trong khi tên ngày càng rơi xuống dày như mưa, cơn mưa gậy gỗ mang cái chết trên chóp sắt nhọn.
Lyra đang ở bên ngoài, cơn mưa tên bay qua đầu cô. Pantalaimon nghe thấy trước cô bé, nó liền biến thành một con báo rồi đẩy cô ngã xuống, khiến cô khó trở thành mục tiêu hơn. Gạt tuyết ra khỏi mắt, Lyra lăn người lại cố gắng nhìn xem chuyện gì đang diễn ra, do cảnh tranh tối tranh sáng dường như đang ngập tràn sự hỗn độn và tiếng ồn. Cô nghe thấy một tiếng rống hung tợn, rồi tiếng va đập loảng xoảng từ bộ giáp của Iorek Byrnison khi con gấu đóng bộ đầy đủ nhảy lên những chiếc xe kéo rồi biến mất vào màn sương. Tiếp theo đó là những tiếng hét, tiếng gầm gừ, răng rắc và tiếng xé toạc, những cú thụi chết người, tiếng gào khóc kinh hãi và tiếng rống cuồng nộ của loài gấu khi nó đánh quân thù tan tác.
Nhưng chúng là ai? Lyra vẫn chưa thấy bóng dáng kẻ thù nào. Những người du mục đang túm tụm lại bảo vệ đám xe kéo, nhưng việc đó (đến cả Lyra cũng nhận ra) khiến họ trở thành những mục tiêu rõ rệt hơn; trong khi súng trường của họ lại rất khó điều khiển khi đeo găng tay dày; cô bé chỉ nghe thấy bốn hay năm tiếng nổ chống trả lại cơn mưa tên lao xuống vùn vụt không ngớt. Cứ mỗi phút lại có thêm nhiều người ngã xuống.
Ôi, John Faa! Cô khổ sở nghĩ. Ông đã không thấy trước được điều này, và cháu đã không giúp ông!
Nhưng cô đã chẳng có hơn một giây để nghĩ tới điều đó, vì Pantalaimon đã gầm lên dữ tợn, một thứ gì đó - một linh thú khác - vừa lao bổ vào và quật nó ngã xuống, khiến bản thân Lyra cũng bị bóp nghẹt. Rồi những bàn tay vươn tới lôi cô đi, nhấc cô lên và bịt miệng cô bằng đôi găng tay bốc mùi hôi thối, tung cô lên không trung vào tay của một kẻ khác, rồi lại đẩy cô nằm bẹp xuống tuyết, khiến Lyra choáng váng, ngộp thở và đau toàn thân. Tay cô bị bẻ quặt ra phía sau cho đến khi đôi vai kêu lên răng rắc, rồi có ai đó trói hai cổ tay cô lại với nhau, một cái mũ chụp lên đầu để bịt tiếng hét, vì cô bé đang gào thét inh ỏi:
“Iorek! Iorek Byrnison! Cứu tôi với!”
Nhưng liệu con gấu có nghe thấy được không thì cô không dám chắc. Cô bé đang bị quật đủ hướng, bị ép xuống một bề mặt cứng đang bắt đầu tròng trành và xóc nảy lên như một chiếc xe kéo. Những tiếng động dữ dội và lộn xộn vọng tới chỗ cô. Dường như cô đã nghe thấy tiếng rống của Iorek Byrnison, nhưng nó ở rất xa. Rồi cô bị nảy bật lên trên nền đất gồ ghề, tay vặn xoắn, miệng bị bịt, nức nở khóc vì giận dữ và sợ hãi. Những giọng nói xa lạ vang lên xung quanh cô.
“Pan!” Cô thở dốc.
“Tớ đây, suỵt, tớ sẽ giúp cậu thở. Yên nào…”
Bàn chân chuột của nó giật mạnh cái mũ cho tới khi miệng cô được giải phóng. Cô hớp lấy hớp để không khí lạnh buốt.
“Chúng là ai vậy?” Cô bé thì thầm.
“Trông giống dân Tartar lắm. Tớ nghĩ chúng đã đánh trúng John Faa.”
“Không…”
“Tớ đã thấy ông ấy ngã xuống. Nhưng ông ấy hẳn đã chuẩn bị sẵn sàng cho những vụ tấn công kiểu này. Bọn mình biết vậy mà.”
“Nhưng đáng lẽ chúng ta nên giúp ông ấy! Đáng lẽ chúng ta phải quan sát chiếc Chân Kế!”
“Suỵt! Giả vờ bất tỉnh đi.”
Có tiếng roi vụt, nối tiếp theo là tiếng hú của đàn chó đang phóng hết tốc lực. Lyra có thể đoán được họ đang đi nhanh đến mức nào dựa vào cái cách cô bị giật và nảy bật lên. Mặc dù đã cố căng tai lên nghe ngóng những âm thanh từ cuộc chiến, cô chỉ nhận ra được âm thanh tuyệt vọng của loạt bắn bị khoảng cách bóp nghẹt, ngoài ra chỉ có tiếng cót két, tiếng chạy hùng hục và tiếng những bàn chân chó khẽ sục xuống nền tuyết.
“Chúng sẽ chở chúng ta đến chỗ Những Kẻ háu ăn,” cô bé thì thầm.
Cụm từ bị cắt hiện lên trong đầu cô. Nỗi khiếp sợ choáng ngợp tâm trí cô bé, Pantalaimon nép sát bên cạnh cô.
“Tớ sẽ chiến đấu,” nó nói.
“Tớ cũng vậy. Tớ sẽ giết chúng.”
“Iorek cũng sẽ làm vậy khi nhận ra chuyện này. Ông ấy sẽ nghiền chúng đến chết.”
“Còn bao xa nữa mới tới Bolvangar?”
Pantalaimon không biết, nhưng chúng nghĩ rằng chỉ còn chưa đầy một ngày đường. Sau khi đã rong ruổi lâu đến mức cả người cô đau nhức vì tù túng, tốc độ đột nhiên giảm xuống, rồi có người thô bạo kéo cái mũ trùm ra.
Cô bé ngước nhìn lên khuôn mặt Á châu to bè dưới cái mũ trùm lông chồn gulo được thắp sáng bằng ánh đèn leo lét. Đôi mắt đen của hắn lóe lên vẻ thỏa mãn, đặc biệt là khi Pantalaimon luồn ra khỏi áo choàng của Lyra, nhe bộ răng chồn ermine trắng ởn và rít lên đe dọa. Con linh thú chồn gulo to béo nặng nề của người đàn ông gầm gừ đáp lại, nhưng Pantalaimon không hề nao núng.
Gã đàn ông lôi Lyra ngồi dậy rồi đặt cô dựa vào vách xe kéo. Tay cô vẫn đang bị trói sau lưng nên cô liên tục đổ sang một bên, vậy là hắn đành trói chân cô lại với nhau rồi thả tay ra.
Qua màn tuyết rơi và sương mù dày đặc, cô nhận thấy vẻ uy quyền của gã đàn ông và cả của tên đánh xe. Chúng giữ thăng bằng tốt trên xe kéo và tỏ ra rất thân thuộc với vùng đất này theo cách mà dân du mục không có.
Gã đàn ông lên tiếng, nhưng đương nhiên là cô bé chẳng hiểu gì cả. Hắn thử nói một tiếng khác nhưng kết quả vẫn như cũ. Sau đó hắn thử tiếng Anh.
“Tên gì?”
Pantalaimon dựng lông lên cảnh cáo, cô bé lập tức hiểu ý con linh thú. Vậy là những tên này không biết cô là ai! Chúng không bắt cóc cô vì sự liên hệ của cô với Phu nhân Coulter; vậy có lẽ chúng không hề được Những Kẻ háu ăn thuê.
“Lizzie Brooks,” cô đáp.
“Lissie Broogs,” hắn nhắc lại. “Bọn tao sẽ đưa mày đến chỗ tốt. Có người tốt.”
“Các ông là ai?”
“Người Samoyed. Thợ săn.”
“Các ông định đưa tôi đi đâu?”
“Chỗ tốt. Người tốt. Mày có panserbjørn à?”
“Để hộ vệ.”
“Vô dụng! Ha, ha, con gấu vô dụng! Dù gì bọn tao cũng tóm được mày rồi!”
Hắn cười ầm lên. Lyra kiềm chế bản thân và không nói gì cả.
“Những người đó là ai?” Gã đàn ông hỏi tiếp, chỉ về hướng vừa đi qua.
“Lái buôn.”
“Lái buôn… Buôn cái gì?”
“Lông thú, rượu mạnh,” cô đáp. “Lá thuốc.”
“Chúng bán lá thuốc, mua lông thú?”
“Phải.”
Hắn nói gì đó với đồng bọn, tên kia đáp lại cụt lủn. Suốt thời gian đó chiếc xe kéo vẫn đang lao đi, Lyra dựng người dậy dễ dàng hơn, cố nhìn xem họ đang đi đâu; nhưng tuyết đang rơi dày còn trời thì tối sầm, cô bé lập tức bị cóng đến mức không thể nhòm ra lâu hơn được nữa nên đành nằm xuống. Cô và Pantalaimon có thể cảm nhận luồng suy nghĩ của nhau, chúng cố gắng trấn tĩnh, nhưng cứ nghĩ tới việc John Faa đã chết… Còn chuyện gì đã xảy ra với Farder Coram? Liệu Iorek có giết được những tên Samoyed còn lại không? Liệu họ có lần ra dấu vết của cô không?
Lần đầu tiên trong đời, cô bé cảm thấy có chút thương xót cho bản thân.
Một lúc lâu sau, gã đàn ông lay vai rồi đưa cho cô một dải thịt tuần lộc sấy khô để nhai. Miếng thịt vừa dai nhách vừa bốc mùi, nhưng cô bé đang đói, vả lại trong đó cũng có dưỡng chất. Sau khi ăn cô cảm thấy khỏe hơn chút ít. Cô chậm rãi thọc tay vào áo choàng cho tới khi biết chắc được rằng chiếc Chân Kế vẫn còn ở đó, rồi cẩn thận rút cái hộp đựng con bọ gián điệp ra và luồn nó vào một bên ủng. Pantalaimon bò vào trong dạng chuột và đẩy nó xuống sâu nhất có thể, nhét xuống dưới đáy chiếc quần tất làm từ da tuần lộc của cô.
Khi việc đó được hoàn thành, cô nhắm mắt lại. Nỗi sợ hãi khiến cô mệt rã rời, và chẳng mấy chốc cô đã thiếp đi trong lo lắng.
Cô tỉnh dậy khi chuyển động của chiếc xe kéo thay đổi. Nó đột nhiên êm hơn, và khi mở mắt ra, cô bé thấy những luồng ánh sáng chói lòa trôi qua phía trên đầu, chói đến mức cô phải kéo mũ xuống sâu hơn trước khi nhòm ra một lần nữa. Mặc dù toàn thân đang cứng đờ và lạnh toát, cô bé vẫn ngồi thẳng được dậy, đủ để nhìn thấy rằng chiếc xe đang lao đi giữa một hàng cột cao, mỗi cột đều mang một ngọn đèn mạch sáng loá. Khi mắt cô vừa quen được với luồng sáng thì họ phóng qua cánh cổng mở bằng kim loại ở cuối con đường ánh sáng, rồi vào một khoảng đất rộng mênh mông như một khu chợ trống không hay trường đấu cho một loại trò chơi hoặc môn thể thao nào đó. Mặt đất phẳng lì, nhẵn nhụi và trắng xoá, rộng khoảng một trăm mét. Hàng rào kim loại cao chạy quanh rìa của nó.
Chiếc xe đỗ lại tại đầu bên kia của đấu trường. Họ đang ở bên ngoài một tòa nhà thấp tè, hoặc một dãy những tòa nhà thấp phủ dày tuyết. Rất khó để đoán, nhưng cô có cảm giác rằng những đường hầm nối các phần của các tòa nhà với nhau, những đường hầm gồ lên dưới tuyết. Ở một phía là cây cột kim loại to trông rất quen, mặc dù cô chẳng thể đoán nổi nó khiến cô nhớ tới điều gì.
Trước khi cô bé kịp quan sát nhiều hơn, gã đàn ông trong xe trượt đã cắt đứt sợi dây thừng buộc quanh mắt cá chân cô rồi thô bạo lôi cô ra ngoài trong khi tên đánh xe hét lên với đàn chó để chúng đứng im. Cánh cửa tại tòa nhà cách đó vài mét mở ra, ánh đèn mạch chiếu qua đầu họ, đưa qua đưa lại tìm kiếm họ như một cái đèn pha.
Kẻ bắt cóc Lyra đẩy cô tới trước như một chiến lợi phẩm, nhất quyết không rời, và nói gì đó. Bóng người trong chiếc áo choàng lụa than chần bông đáp lại cũng bằng ngôn ngữ đó. Lyra nhìn thấy ông ta: đó không phải là người Samoyed hay Tartar. Ông ta có thể đã từng là Học giả của Jordan. Ông nhìn cô bé, và đặc biệt chú tâm đến Pantalaimon.
Gã người Samoyed lại lên tiếng, sau đó người đàn ông tới từ Bolvangar nói với Lyra: “Cháu nói tiếng Anh à?”
“Phải,” cô đáp.
“Linh thú của cháu lúc nào cũng trong hình dạng đó sao?”
Câu hỏi bất ngờ đến mức Lyra chỉ có thể há hốc miệng kinh ngạc. Nhưng Pantalaimon trả lời câu hỏi đó theo cách của riêng nó bằng cách biến thành một con chim ưng, rồi từ vai cô nó liệng tới linh thú của người đàn ông, một con sóc marmot lớn. Con sóc lanh lẹ quạt về phía Pantalaimon rồi phun phì phì trong khi nó lượn vòng qua thật nhanh.
“Hiểu rồi,” người đàn ông nói với giọng hài lòng khi Pantalaimon bay trở lại vai Lyra.
Gã Samoyed trông có vẻ đang chờ đợi, người đàn ông từ Bolvangar liền gật đầu rồi tháo găng tay để thọc tay vào túi. Ông lấy ra một cái ví có dây rút và đếm lấy mười hai đồng tiền to nặng đặt vào tay tên thợ săn.
Hai người đàn ông kiểm tra số tiền, chia nhau mỗi người một nửa rồi cẩn thận cất đi. Không buồn ngoái đầu nhìn lại, chúng leo lên xe, tên đánh xe vung roi rồi hét lên ra lệnh cho bầy chó. Chúng phóng qua trường đấu mênh mông trắng xóa tuyết vào đại lộ ánh sáng, tăng tốc cho tới khi tan biến vào màn đêm xa xăm.
Người đàn ông lại mở cửa ra.
“Vào mau đi,” ông ta nói. “Bên trong ấm áp thoải mái lắm. Đừng đứng ngoài trong giá lạnh. Tên cháu là gì?”
Giọng ông ta là một chất giọng thuần Anh ngữ, không pha chút trọng âm nào mà Lyra có thể đoán được. Ông có cách nói giống như những người cô đã gặp tại dinh thự của Phu nhân Coulter: khéo léo, uyên bác và quyền thế.
“Lizzie Brooks,” cô bé đáp.
“Vào đi, Lizzie. Ở đây chúng ta sẽ chăm sóc cháu, đừng lo.”
Ông ta còn bị lạnh hơn cả cô, mặc dù cô bé đã ở bên ngoài lâu hơn rất nhiều; ông ta đang nóng lòng muốn trở vào trong căn nhà ấm áp. Quyết định giả bộ chậm chạp, ngốc nghếch và miễn cưỡng, cô lê bước khi đi qua ngưỡng cửa cao dẫn vào trong tòa nhà.
Bên trong có hai cánh cửa, nằm giữa chúng là một khoảng rộng để không khí ấm không bị thất thoát nhiều. Khi họ đã đi qua ô cửa phía trong, Lyra thấy toàn thân đổ mồ hôi nhễ nhại vì thứ hơi nóng hầm hập khó chịu, cô phải phanh áo khoác và bỏ mũ trùm xuống.
Họ đang ở trong một khoảng không rộng chừng hai mét vuông rưỡi, với hành lang ở hai bên trái phải, phía trước cô là một kiểu bàn tiếp tân hay thấy trong bệnh viện. Mọi thứ đều được chiếu sáng rực rỡ, với những bề mặt trắng sáng bóng và thép không gỉ phản chiếu lấp lánh. Không khí phảng phất mùi thức ăn quen thuộc của thịt xông khói và cà phê, cùng với một mùi rất nhẹ nhưng dai dẳng của hóa dược bệnh viện. Phát ra từ những bức tường khắp xung quanh là một tiếng o o khe khẽ, trầm đến mức gần như không nghe thấy được, một thứ âm thanh mà người ta phải làm quen với nó nếu không muốn phát điên.
Pantalaimon ở dạng chim sẻ cánh vàng thì thầm vào tai cô: “Giả bộ ngu ngốc đần độn đi. Càng chậm chạp, ngờ nghệch càng tốt.”
Những người lớn đang nhìn xuống phía cô: người đàn ông đã dẫn cô vào, một người khác khoác áo màu trắng, một phụ nữ mặc đồng phục y tá.
“Người Anh,” người đầu tiên nói. “Có vẻ như là lái buôn.”
“Vẫn là đám thợ săn đó à? Vẫn câu chuyện cũ?”
“Tôi đoán là cùng một bộ tộc. Y tá Clara, bà có thể đưa, ừm, và chăm sóc cô bé được chứ?”
“Sẵn sàng, thưa Bác sĩ. Đi với ta nào, bé con,” người y tá nói, Lyra ngoan ngoãn theo sau.
Họ đi dọc một hành lang ngắn có nhiều cánh cửa bên tay phải và một phòng ăn bên tay trái, trong đó phát ra những tiếng lách cách của dao dĩa, tiếng nói, và thêm nhiều mùi đồ ăn nữa. Lyra đoán rằng người y tá cùng tầm tuổi với Phu nhân Coulter, bà mang một vẻ lanh lợi, nhạy bén nhưng vô cảm; bà hẳn là có thể khâu vết thương hay thay băng gạc, nhưng không có khả năng kể chuyện. Linh thú của bà (khi nhận ra, trong một thoáng Lyra đã cảm thấy một cơn ớn lạnh kì lạ ùa đến) là một con chó nhỏ màu trắng đang chạy lon ton (nhưng một lúc sau cô lại không hiểu tại sao nó lại khiến cô bị ớn lạnh).
“Tên cháu là gì, cô bé?” Bà y tá nói khi mở một cánh cửa nặng nề.
“Lizzie.”
“Chỉ Lizzie thôi à?”
“Lizzie Brooks.”
“Cháu bao tuổi?”
“Mười một.”
Lyra vẫn bị nói là nhỏ hơn so với tuổi. Dù cho điều đó có nghĩa gì đi nữa thì nó cũng chưa hề tác động đến ý thức của cô bé về tầm quan trọng của bản thân, nhưng cô nhận ra rằng lúc này cô có thể tận dụng nó để khiến Lizzie ngượng nghịu, âu lo và tầm thường. Cô khom người nhỏ lại khi bước vào trong phòng.
Cô phần nào trông chờ bà ta sẽ hỏi cô tới từ đâu, đến đây bằng cách nào, và cô đang chuẩn bị sẵn câu trả lời; nhưng bà y tá chẳng những thiếu trí tưởng tượng mà còn thiếu cả sự tò mò nữa. Y tá Clara tỏ ra bàng quan tới mức như thể Bolvangar chỉ là một vùng ngoại ô của London, còn trẻ con thì thường xuyên đến nơi này. Con linh thú nhỏ bảnh bao của bà lon ton theo gót, cũng lanh lẹ và vô cảm hệt như chủ.
Trong căn phòng họ bước vào có một bộ trường kỉ, bàn, hai cái ghế, tủ có ngăn kéo, tủ buffet đựng thuốc và băng gạc, và bồn rửa mặt. Ngay khi vừa bước vào phòng, bà y tá liền cởi áo khoác của Lyra ra và thả xuống nền nhà sáng bóng.
“Cởi nốt chỗ còn lại đi nào, bé con,” bà nói. “Chúng ta sẽ làm một cuộc kiểm tra nho nhỏ để xem cháu có khỏe mạnh, không bị cóng hay có sổ mũi không, rồi sẽ kiếm một bộ quần áo sạch sẽ tươm tất cho cháu. Chúng ta sẽ cho cháu đi tắm nữa,” bà nói thêm, vì Lyra đã nhiều ngày liền không thay đồ hay tắm rửa gì rồi, và trong hơi ấm bao quanh, điều đó càng trở nên rõ ràng.
Pantalaimon rùng mình phản đối, nhưng Lyra đã quắc mắt lên kìm chế nó. Nó đậu trên chiếc trường kỉ trong khi Lyra lần lượt cởi từng lớp quần áo trong sự phẫn nộ và tủi nhục; nhưng cô vẫn kịp nhanh trí che giấu biểu hiện đó đi, giả vờ đần độn và dễ bảo.
“Cả đai đựng tiền nữa, Lizzie,” bà y tá nói rồi tự cởi nó ra bằng những ngón tay lực lưỡng của mình. Bà ta đang định thả cái đai lên đống quần áo của Lyra thì ngừng lại khi rờ thấy mép của chiếc Chân Kế.
“Cái gì đây?” Bà ta nói trong lúc gỡ lớp vải dầu ra.
“Chỉ là một loại đồ chơi thôi,” Lyra đáp. “Nó là của cháu.”
“Phải, chúng ta sẽ không lấy nó đi đâu, bé con,” Y tá Clara nói rồi tháo lớp nhung đen ra. “Đẹp đấy chứ, như một cái la bàn vậy. Đi tắm nào,” bà nói tiếp, đặt chiếc Chân Kế xuống rồi kéo tấm rèm bằng lụa than ở trong góc lại.
Lyra miễn cưỡng bước vào dòng nước ấm và xát xà phòng lên người trong khi Pantalaimon đậu trên thanh ray treo rèm. Cả hai đều ý thức được rằng nó không được tỏ ra quá lanh lợi, vì linh thú của những kẻ đần thì cũng phải đần độn theo. Khi cô bé đã được tắm rửa và lau khô người, bà y tá đo nhiệt độ của cô, kiểm tra mắt, tai, họng, đo chiều cao và cho cô đứng lên cân trước khi ghi chép lên một kẹp tài liệu. Sau đó bà ta đưa cho Lyra một bộ pyjama cùng áo choàng dài. Chúng đều tinh tươm và cao cấp, giống như áo choàng của Tony Makarios, nhưng chúng cũng lại mang vẻ gì đó của đồ đã qua sử dụng. Lyra cảm thấy không thoải mái.
“Mấy cái này không phải của cháu,” cô nói.
“Không, bé con ạ. Quần áo của cháu cần được giặt giũ cẩn thận.”
“Cháu có được lấy lại đồ của mình không?”
“Ta cho là có. Có chứ, đương nhiên rồi.”
“Chỗ này là gì vậy?”
“Nó được gọi là Trạm Thí Nghiệm.”
Đó không phải là một câu trả lời, nhưng nếu Lyra sẽ chỉ ra điều đó và hỏi thêm các thông tin khác, thì cô lại không cho rằng Lizzie sẽ làm vậy; nên cô ngoan ngoãn hài lòng với bộ quần áo đó và không nói gì thêm nữa.
“Cháu muốn đồ chơi của cháu,” cô bướng bỉnh nói sau khi đã mặc đồ xong.
“Cứ lấy lại đi, bé con,” bà y tá nói. “Nhưng cháu không thích một con gấu bông đáng yêu hơn sao? Hoặc một em búp bê xinh đẹp?”
Bà ta mở một cái ngăn kéo chứa những món đồ chơi bằng bông trông đến là vô hồn. Lyra ép mình đứng dậy rồi giả vờ cân nhắc vài giây trước khi nhặt lên một con búp bê rách rưới có đôi mắt to trống rỗng. Cô bé chưa từng sở hữu một con búp bê nào, nhưng cô biết phải làm gì nên bèn lơ đãng ôm chặt nó vào ngực.
“Còn đai đựng tiền của cháu thì sao?” Cô hỏi. “Cháu muốn cho đồ chơi vào trong đó.”
“Vậy lấy đi, bé con,” Y tá Clara nói trong lúc điền vào một mẫu đơn trên giấy màu hồng.
Lyra kéo bộ pyjama lạ lẫm lên rồi buộc cái túi bằng vải dầu quanh eo.
“Còn áo khoác và bốt của cháu?” Cô hỏi. “Rồi cả găng tay và những thứ khác nữa?”
“Chúng ta sẽ đem giặt cho cháu,” bà y tá máy móc đáp.
Đúng lúc đó điện thoại rung lên, và trong lúc bà ta nhấc máy trả lời, Lyra nhanh chóng cúi xuống lấy lại cái hộp chứa con bọ gián điệp rồi nhét nó vào túi cùng với chiếc Chân Kế.
“Đi theo ta nào, Lizzie,” bà ta nói khi đặt ống nghe xuống. “Chúng ta sẽ đi kiếm thứ gì đó cho cháu ăn. Ta đoán là cháu đói lắm rồi.”
Cô bé đi theo Y tá Clara tới phòng ăn, nơi cả chục chiếc bàn tròn màu trắng phủ đầy vụn thức ăn và những vòng tròn dính nhớp do đồ uống bị đặt xuống một cách bất cẩn. Đĩa và dao dĩa bẩn chất đống trên một chiếc xe đẩy bằng thép. Trong phòng không có cửa sổ, nên để tạo ảo giác về ánh sáng và không gian, một bên tường được phủ lên bức tranh khổng lồ vẽ cảnh bãi biển nhiệt đới với bầu trời xanh trong, cát trắng và hàng dừa biếc.
Người đàn ông đã dẫn cô vào đang lấy một cái khay từ quầy phục vụ.
“Ăn đi này,” ông ta nói.
Không cần thiết phải nhịn đói nên cô thích thú nhấm nháp món hầm và khoai tây nghiền. Tiếp theo là một bát chứa đào đóng hộp và kem. Trong khi cô bé ăn, người đàn ông và bà y tá trao đổi khẽ tại một bàn khác, và khi cô ăn xong, bà y tá mang tới một cốc sữa ấm rồi đem cái khay đi.
Người đàn ông tới ngồi xuống đối diện với cô. Con linh thú sóc marmot của ông ta không vô cảm và lãnh đạm như con chó của bà y tá, mà lịch sự ngồi trên vai ông, quan sát và lắng nghe.
“Vậy, Lizzie,” ông lên tiếng. “Cháu ăn đủ no chưa?”
“Rồi ạ, cảm ơn ông.”
“Ta muốn cháu nói cho ta nghe cháu từ đâu tới. Cháu có thể làm vậy không?”
“London,” cô bé đáp.
“Cháu đang làm gì trên phương bắc xa xôi này vậy?”
“Cháu đi với cha cháu,” cô bé lẩm nhẩm. Cô nhìn xuống để tránh ánh mắt của con sóc marmot, cố gắng ra vẻ đang sắp khóc đến nơi.
“Với cha cháu à? Ra vậy. Ông ấy đang làm gì ở tít tận đây vậy?”
“Buôn bán. Chúng cháu đem đến rất nhiều lá thuốc từ Tân Đan Mạch, chúng cháu còn mua lông thú nữa.”
“Vậy cha cháu chỉ có một mình à?”
“Không ạ. Còn có bác cháu và vài người khác nữa,” cô bé mập mờ nói, không rõ tên thợ săn Samoyed đã nói gì với ông ta.
“Sao ông ấy lại cho cháu tham gia vào một chuyến đi như thế này vậy, Lizzie?”
“Vì hai năm trước ông ấy đã đưa anh trai cháu đi và hứa tiếp theo sẽ tới lượt cháu, nhưng ông ấy lại chẳng bao giờ làm thế. Vậy nên cháu cứ cố nài và rốt cuộc ông ấy cũng chịu đưa cháu đi.”
“Cháu bao nhiêu tuổi rồi?”
“Mười một.”
“Tốt, tốt. Lizzie à, cháu là một cô bé may mắn đó. Mấy người thợ săn tìm thấy cháu đã đưa cháu đến nơi tốt nhất thế giới.”
“Họ đâu có tìm thấy cháu,” cô bé ngờ vực nói. “Đã có một cuộc chiến. Có rất nhiều người và họ bắn tên…”
“Ồ, ta không nghĩ vậy đâu. Ta nghĩ cháu hẳn đã đi lang thang khỏi nhóm của cha mình và bị lạc. Các thợ săn đã tìm thấy cháu ở một mình và đưa cháu thẳng đến đây. Đó là chuyện đã xảy ra, Lizzie ạ.”
“Cháu đã chứng kiến một cuộc chiến,” cô nói. “Người ta bắn tên và rồi… Cháu muốn gặp cha,” cô nói to hơn, cảm thấy mình như sắp khóc.
“Thôi nào, cháu sẽ được an toàn tại đây cho đến khi ông ấy tới,” bác sĩ nói.
“Nhưng cháu đã thấy người ta bắn tên!”
“À, là cháu tưởng vậy thôi. Chuyện đó thường xảy ra trong cái lạnh gay gắt, Lizzie ạ. Cháu ngủ thiếp đi rồi gặp ác mộng, sau đó cháu không thể nhớ nổi đâu là thật đâu là mơ nữa. Đó không phải là một cuộc chiến đâu, đừng lo. Cha cháu vẫn bình an vô sự, ông ấy đang đi tìm cháu và chẳng mấy chốc ông ấy sẽ đến đây, vì đây là nơi duy nhất trong vòng vài trăm dặm, cháu biết đấy. Thật ngạc nhiên làm sao khi ông ấy lại tìm thấy cháu an toàn và khỏe mạnh! Bây giờ Y tá Clara sẽ đưa cháu đến kí túc xá, nơi cháu sẽ gặp những cô cậu nhóc khác cũng bị lạc giữa hoang mạc giống như cháu. Đi đi. Sáng mai chúng ta sẽ lại nói chuyện tiếp.”
Lyra đứng dậy, ôm chặt lấy con búp bê của mình. Pantalaimon nhảy lên vai cô khi bà y tá mở cửa dẫn chúng ra ngoài.
Lại thêm nhiều hành lang khác, lúc này Lyra đã mệt bã người, cô buồn ngủ đến mức cứ liên tục ngáp và gần như không thể nhấc chân lên trong đôi dép trần bông mà họ đã cho. Pantalaimon thì đang gục gặc, nó phải biến thành chuột để chui vào nằm trong túi áo choàng dài của cô. Lyra lờ mờ nhận thấy một hàng giường ngủ, những gương mặt trẻ con, một cái gối, và rồi cô đã thiếp đi.
Có ai đó đang lay cô dậy. Việc đầu tiên cô làm là lần sờ quanh eo, cả hai cái hộp vẫn đang ở đó, vẫn an toàn; vậy là cô thử mở mắt ra, nhưng chao ôi, việc đó mới khó khăn làm sao; cô chưa từng thấy buồn ngủ như thế này bao giờ.
“Dậy đi! Dậy đi!”
Đó là tiếng thì thầm của nhiều hơn một giọng nói. Với một nỗ lực khủng khiếp, chẳng khác gì đẩy một tảng đá lên dốc cao, Lyra ép mình phải tỉnh dậy.
Trong ánh sáng tờ mờ phát ra từ bóng đèn mạch có công suất cực thấp treo trên khung cửa ra vào, cô thấy ba bé gái khác đang túm tụm lại quanh mình. Thật không dễ dàng để nhìn vì mắt cô lấy tiêu điểm rất chậm, nhưng chúng khoảng tầm tuổi cô, và đều nói tiếng Anh.
“Cậu ấy tỉnh rồi.”
“Họ chắc chắn đã cho cậu ấy uống thuốc ngủ…”
“Tên cậu là gì?”
“Lizzie,” Lyra lẩm nhẩm.
“Có phải lại có thêm nhiều đứa trẻ khác đang tới không?” Một trong mấy đứa con gái hỏi.
“Chịu. Chỉ có mình tớ thôi.”
“Vậy họ kiếm cậu ở đâu ra thế?”
Lyra khó nhọc ngồi dậy. Cô không nhớ là mình đã uống thuốc ngủ, nhưng rất có thể đã có thứ gì đó trong đồ uống của cô. Đầu cô như bị nèn đầy lông vịt, còn phía sau mắt thì giật giật đau nhức.
“Đây là đâu vậy?”
“Chẳng đâu cả. Họ không chịu nói cho chúng tớ biết.”
“Họ thường đem đến cùng một lúc nhiều đứa trẻ cơ…”
“Họ làm gì ở đây vậy?” Lyra gượng hỏi trong lúc cố gắng khôi phục lại trí não đã bị thuốc làm tê liệt. Pantalaimon cũng đang cựa quậy để tỉnh lại.
“Chúng tớ không biết,” cô bé nãy giờ nói nhiều nhất lại lên tiếng. Đó là một cô nhóc tóc đỏ cao dong dỏng, có điệu bộ nóng vội và một chất giọng đặc London. “Họ đại khái là đo đạc bọn tớ rồi làm đủ kiểu xét nghiệm…”
“Họ đo Bụi đó,” một đứa con gái khác mang vẻ thân thiện, tròn trĩnh với mái tóc đen lên tiếng.
“Làm sao cậu biết được,” đứa con gái đầu tiên vặc lại.
“Thật đấy,” đứa thứ ba lên tiếng, đó là một đứa bé với vẻ cam chịu đang ôm con linh thú dạng thỏ của mình. “Tớ đã nghe được họ nói chuyện.”
“Rồi họ đưa từng đứa chúng tớ đi một, đó là tất cả những gì chúng tớ biết. Chẳng có ai trở về cả,” đứa tóc đỏ nói.
“Phải rồi, có một cậu bé nọ,” đứa con gái tròn trĩnh nói, “cậu ấy nghĩ là…”
“Đừng có kể với cậu ấy chuyện đó!” Đứa tóc đỏ kêu lên.
“Chưa vội.”
“Ở đây có cả con trai à?” Lyra hỏi.
“Phải. Bọn tớ đông lắm. Có khoảng ba mươi đứa, tớ nghĩ vậy.”
“Nhiều hơn chứ,” đứa con gái tròn trĩnh nói. “Phải tầm bốn mươi ấy.”
“Ngoại trừ việc họ cứ đưa chúng tớ đi dần,” đứa tóc đỏ nói. “Thông thường họ bắt đầu với việc đưa đến đây cả một nhóm, nên lúc đó có rất nhiều trẻ con, nhưng rồi từng đứa một sẽ biến mất.”
“Họ là Những Kẻ háu ăn đó,” đứa tròn trĩnh nói. “Các cậu biết Những Kẻ háu ăn mà. Bọn mình đều sợ chúng cho tới khi chính bản thân bị bắt cóc…”
Lyra đang dần hồi tỉnh lại. Linh thú của các cô bé khác, ngoại trừ con thỏ, đang nghe ngóng ở gần cửa ra vào, còn lũ trẻ thì không đứa nào nói to hơn tiếng thì thầm. Lyra hỏi tên của chúng. Cô bé tóc đỏ tên là Annie, đứa tóc đen tròn trịa là Bella, còn đứa bé gầy gò là Martha. Chúng không biết tên lũ con trai, vì phần lớn thời gian nam và nữ phải ở riêng. Chúng không hề bị đối xử tệ.
“Ở đây khá là ổn,” Bella nói, “chẳng có gì nhiều để làm ngoại trừ việc họ cho bọn tớ làm bài kiểm tra, bắt tập thể dục, sau đó cân đo bọn tớ, đo nhiệt độ và đủ thứ khác. Thật sự rất là tẻ nhạt.”
“Trừ khi Phu nhân Coulter tới,” Annie nói.
Lyra phải ngăn bản thân hét lên, nhưng Pantalaimon đập cánh gấp đến mức khiến những đứa khác chú ý.
“Cậu ấy bị căng thẳng quá đó,” Lyra nói, xoa dịu con linh thú. “Họ hẳn đã cho bọn tớ uống thuốc ngủ, như các cậu nói, vì cả hai bọn tớ đều thấy rất mơ màng. Phu nhân Coulter là ai vậy?”
“Đó là người đã gài bẫy chúng tớ, nói đúng hơn là hầu hết chúng tớ,” Martha nói. “Những đứa trẻ khác đều nói về bà ta. Bà ta mà tới là mọi người lập tức biết rằng sẽ có vài đứa biến mất.”
“Bà ta thích quan sát trẻ con. Khi họ đưa chúng tớ đi, bà ta thích xem những việc họ làm với chúng tớ. Bạn Simon cho rằng họ giết chúng tớ, còn Phu nhân Coulter thì đứng nhìn.”
“Họ giết bọn mình á?” Lyra rùng mình nói.
“Chắc vậy. Vì chẳng có ai quay về cả.”
“Họ cũng tiến hành mọi việc với đám linh thú nữa,” Bella nói. “Cân đo chúng đủ kiểu…”
“Họ chạm vào linh thú của các cậu?”
“Không! Chúa ơi! Họ đặt những cái cân ở đó, linh thú của cậu phải bước lên đó và biến hình, rồi họ sẽ ghi chép và chụp ảnh. Sau đó họ sẽ cho cậu vào một cái buồng và đo Bụi, lần nào cũng thế, họ không bao giờ ngừng đo Bụi.”
“Bụi gì cơ?” Lyra hỏi.
“Chúng tớ không biết,” Annie đáp. “Chỉ là một thứ gì đó từ vũ trụ, không phải bụi thật đâu. Nếu cậu không có tí Bụi nào thì tốt. Nhưng rốt cuộc thì ai cũng có Bụi cả.”
“Các cậu có biết tớ nghe được Simon nói gì không?” Bella nói. “Cậu ấy nói rằng người Tartar đục lỗ trên sọ để cho Bụi vào đấy.”
“Phải, cậu ấy biết rõ ghê,” Annie tỏ ra khinh miệt. “Tớ nghĩ tớ sẽ hỏi Phu nhân Coulter khi bà ta tới.”
“Cậu sẽ không dám đâu!” Martha nói vẻ ngưỡng mộ.
“Dám chứ.”
“Khi nào bà ta tới?” Lyra hỏi.
“Ngày kia,” Annie đáp.
Một cơn ớn lạnh kinh hoàng chạy dọc sống lưng Lyra, Pantalaimon nép sát vào cô bé. Cô có một ngày để tìm thấy Roger, khám phá ra mình có thể làm gì với nơi này, rồi hoặc là chạy trốn hoặc được cứu thoát. Giả dụ như tất cả đoàn du mục đều đã bị giết thì ai sẽ giúp lũ trẻ sống sót trong vùng hoang vu giá lạnh này đây?
Những đứa con gái khác tiếp tục câu chuyện, nhưng Lyra và Pantalaimon thì rúc sâu vào trong chăn, cố gắng làm ấm cơ thể vì chúng biết rằng hàng trăm dặm trải dài quanh chiếc giường nhỏ bé này chỉ toàn là nỗi kinh hoàng.