- 15 - Lồng chứa linh thú
Lyra không phải kiểu người hay suy nghĩ ủ ê; cô là một đứa trẻ lạc quan và thực tế. Hơn nữa, cô bé không hay tưởng tượng. Chẳng có ai giàu trí tưởng tượng lại đi nghiêm túc nghĩ rằng việc vượt qua một chặng đường dài để cứu người bạn Roger của mình là khả thi; hay nếu có nghĩ về việc đó thì một đứa trẻ giàu trí tưởng tượng sẽ lập tức tìm ra vài cách chứng minh rằng nó bất khả thi. Là một kẻ nói dối thuần thục không có nghĩa là người đó có một trí tưởng tượng phong phú. Nhiều kẻ nói dối xuất sắc không hề có chút trí tưởng tượng nào, và chính điều đó khiến những lời dối trá của họ mang sức thuyết phục đến kinh ngạc.
Vậy nên giờ đây khi đã nằm trong tay của Ủy ban Hiến tế, Lyra không lo sợ về những chuyện đang xảy đến với đoàn dân du mục. Họ đều là những chiến binh cừ khôi, và mặc dù Pantalaimon nói rằng mình đã thấy John Faa bị bắn, có thể nó đã nhìn lầm; hoặc nếu không phải nhầm lẫn thì John Faa có thể không bị thương nặng. Thật không may là cô đã bị rơi vào tay đám Samoyed, nhưng dân du mục sẽ sớm đến giải cứu cô. Giả dụ họ có không làm được thì cũng chẳng gì ngăn nổi Iorek Byrnison đưa cô ra ngoài; rồi họ sẽ bay tới Svalbard trên khí cầu của Lee Scoresby và giải cứu Ngài Asriel.
Trong tâm trí cô, mọi việc chỉ đơn giản như vậy.
Vì vậy vào sáng hôm sau khi thức dậy trong kí túc xá, cô bé rất tò mò và sẵn sàng đối phó với bất cứ việc gì sẽ xảy ra ngày hôm đó. Cô cũng háo hức muốn gặp Roger nữa - đặc biệt là háo hức gặp cậu bé trước khi nó nhìn thấy cô.
Cô đã không phải chờ đợi lâu. Trẻ con từ các kí túc xá khác được các y tá chăm sóc chúng đánh thức vào lúc bảy giờ rưỡi. Chúng rửa ráy, thay đồ rồi cùng những đứa khác tới phòng ăn để dùng bữa sáng.
Và Roger cũng ở đó.
Nó đang ngồi cùng với năm cậu nhóc khác tại chiếc bàn ngay bên trong cửa ra vào. Hàng xếp vào quầy phục vụ đi qua sát bên cạnh chúng nên cô có thể giả vờ đánh rơi khăn tay để khom người nhặt nó lên. Cô cúi thấp xuống cạnh ghế của cậu bé để Pantalaimon có thể nói chuyện với Salcilia, linh thú của Roger.
Đó là một con chim sẻ khướu, nó đang đập cánh loạn xạ nên Pantalaimon phải hóa thành mèo để nhảy lên ghìm nó xuống và thì thầm. May là những cuộc chiến hay xô xát nhanh chóng như vậy giữa linh thú của những đứa trẻ là chuyện khá phổ biến, và chẳng có ai để tâm nhiều đến nó, nhưng Roger thì lập tức tái mặt. Lyra chưa từng thấy ai trắng nhợt đến thế. Nó ngước lên nhìn vẻ mặt cực kì ngạo mạn của cô bé, rồi hai má ửng hồng trở lại khi tràn đầy hi vọng, phấn khích và vui sướng; và chỉ có Pantalaimon đang lay mạnh Salcilia mới có thể ngăn Roger hét to và nhảy lên chào đón đồng bọn Jordan của mình.
Lyra ngoảnh mặt đi, cố tỏ ra khinh khỉnh nhất có thể, cô đảo mắt với đám bạn mới của mình, để việc giải thích cho Pantalaimon. Bốn đứa con gái nhận lấy khay thức ăn chứa ngũ cốc và bánh mì nướng rồi ngồi lại cùng nhau, một hội thiết lập trong tức khắc, loại trừ tất cả những đứa khác để có thể buôn dưa lê về chúng.
Không ai có thể giữ một đám trẻ lớn ở một chỗ quá lâu mà không giao cho chúng đủ thứ để làm, mà Bolvangar thì về vài mặt lại điều hành như một ngôi trường, với những hoạt động được lên thời khóa biểu như thể dục và “nghệ thuật”. Nam và nữ bị tách riêng trừ lúc nghỉ giải lao và giờ ăn, nên phải đến giữa buổi sáng, sau một tiếng rưỡi học khâu vá từ một trong những y tá ở đó, Lyra mới có cơ hội nói chuyện với Roger. Nhưng mọi thứ phải trông thật tự nhiên; đó là phần khó khăn. Tất cả trẻ con ở đó đều khoảng cùng một độ tuổi, cái tuổi mà con trai nói chuyện với con trai còn con gái nói chuyện với con gái, bên nào cũng tỏ rõ thái độ không quan tâm đến giới còn lại.
Cô bé lại tìm thấy cơ hội ở phòng ăn, khi lũ trẻ vào lấy đồ uống và bánh quy. Lyra cử Pantalaimon trong dạng ruồi đến nói chuyện với Salcilia trên bức tường cạnh bàn của chúng trong khi cô bé và Roger yên lặng ngồi trong hai nhóm riêng biệt của mình. Rất khó để có thể nói chuyện khi linh thú của mình đang chú tâm vào chỗ khác, nên Lyra làm ra vẻ rầu rĩ và nổi loạn khi hớp từng ngụm sữa với những đứa con gái khác. Phân nửa tâm trí cô đang tập trung vào tiếng rì rầm nhỏ xíu giữa hai con linh thú nên cô không thật sự lắng nghe, nhưng đột nhiên cô bé nghe thấy một đứa con gái khác với mái tóc vàng hoe nhắc tới một cái tên khiến cô ngồi bật dậy.
Đó là tên của Tony Makarios. Khi sự chú ý của Lyra đột ngột chuyển sang phía đó, Pantalaimon phải kìm cuộc nói chuyện thì thầm với linh thú của Roger lại, và cả hai đứa trẻ lắng nghe điều đứa con gái kia nói.
“Không, tớ biết vì sao họ lại mang cậu ta đi,” nó nói khi những cái đầu chụm sát vào gần đó. “Đó là vì linh thú của cậu ta không biến hình. Họ nghĩ cậu ta lớn hơn vẻ bề ngoài, hoặc kết luận là cậu ta không thật sự là một đứa bé. Nhưng thật ra linh thú của cậu ta không thường xuyên biến hình lắm vì bản thân Tony chẳng bao giờ nghĩ nhiều về bất cứ điều gì. Tớ đã thấy nó biến đổi. Nó tên là Ratter…”
“Sao họ lại có hứng thú với linh thú đến vậy?” Lyra hỏi.
“Chẳng ai biết cả,” đứa con gái tóc vàng hoe đáp.
“Tớ biết đấy,” một cậu nhóc đang lắng nghe lên tiếng. “Việc họ đang tiến hành là giết linh thú của bọn mình rồi xem bọn mình có chết theo hay không.”
“Nhưng tại sao họ lại cứ lặp đi lặp lại việc đó với những đứa trẻ khác nhau?” Có ai đó lên tiếng. “Chẳng phải làm một lần là biết rồi sao?”
“Tớ biết họ làm gì đấy,” đứa con gái đầu tiên nói.
Giờ thì nó đã thu hút được sự chú ý của cả đám. Nhưng vì chúng không muốn cho nhân viên ở đó biết mình đang nói về chuyện gì nên phải giả bộ xa lạ, hơi lơ đễnh và thờ ơ trong khi vẫn lắng nghe cao độ vì tò mò.
“Sao cậu biết?” Ai đó hỏi.
“Vì tớ đã ở cùng cậu ấy khi họ đến tìm. Chúng tớ đã ở trong phòng chứa ga gối,” nó nói.
Mặt nó đỏ lựng lên, chờ đợi những tiếng giễu cợt và trêu chọc, nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Tất cả bọn trẻ đều không tỏ vẻ quan tâm, thậm chí còn chẳng có ai cười nữa.
Nó nói tiếp: “Chúng tớ đang giữ im lặng thì một y tá với giọng nói dịu dàng bước vào. Bà ta nói: Ra nào, Tony, ta biết cháu đang ở đó, nào, chúng ta sẽ không làm cháu đau đâu… Cậu ấy nói: Chuyện gì sẽ xảy ra? Rồi bà ta nói: Chúng ta chỉ cho cháu ngủ rồi tiến hành một cuộc phẫu thuật nhỏ, sau đó cháu sẽ lại tỉnh dậy khỏe mạnh như trước. Nhưng Tony không tin bà ta. Cậu ấy nói…”
“Những cái lỗ!” Một đứa nào đó thốt lên. “Họ sẽ đục một lỗ trên đầu cậu ấy giống như đám người Tartar! Dám cá đấy!”
“Im đi! Bà y tá còn nói gì nữa?” Ai đó nói chêm vào. Vào lúc này, hơn chục đứa trẻ đang xúm xít lại quanh bàn, lũ linh thú cũng háo hức muốn biết không kém gì chủ, tất cả đều tròn mắt kinh ngạc và hồi hộp.
Đứa con gái tóc vàng hoe nói tiếp: “Tony muốn biết họ định làm gì với Ratter, vậy đấy. Bà y tá trả lời: À, nó cũng sẽ ngủ giống như cháu thôi. Tony liền nói: Các người sẽ giết nó đúng không? Tôi biết các người sẽ làm thế. Chúng tôi đều biết đó là việc sẽ xảy ra. Vậy là bà y tá nói: Không, đương nhiên là không rồi. Chỉ là một cuộc phẫu thuật nhỏ thôi. Chỉ là một vết cắt bé xíu. Thậm chí nó còn chẳng hề đau đớn, nhưng chúng ta cứ để cháu ngủ cho an toàn.”
Giờ thì cả căn phòng đã im bặt. Bà y tá giám sát vừa đi khỏi một lúc, còn cửa quầy phục vụ thông vào trong bếp thì đã đóng nên không ai có thể nghe được từ đó.
“Vết cắt kiểu gì cơ?” Một cậu nhóc hỏi rất khẽ, vẻ sợ sệt. “Bà ta có nói là cắt kiểu gì không?”
“Bà ta chỉ nói: Đó là thứ giúp cháu trưởng thành hơn. Bà ta nói mọi người đều phải có nó, đó là lí do vì sao linh thú của người lớn không biến đổi như của chúng ta. Vì vậy cần một vết cắt để ổn định chúng ở một hình dạng mãi mãi, đó là cách người ta lớn lên.”
“Nhưng…”
“Như thế có nghĩa là…”
“Gì cơ, tất cả người lớn đều có vết cắt này á?”
“Vậy còn…”
Đột nhiên tất cả các tiếng nói dừng bặt, như thể chính bản thân chúng vừa bị cắt đứt vậy. Mọi ánh mắt đổ dồn về phía cửa. Y tá Clara đứng đó, dịu dàng, hòa nhã và thản nhiên, bên cạnh bà ta là một người đàn ông mặc áo choàng trắng mà Lyra chưa từng nhìn thấy.
“Bridget McGinn,” ông ta gọi.
Đứa con gái tóc vàng hoe lẩy bẩy đứng dậy. Con linh thú sóc của nó bấu chặt lấy ngực chủ.
“Vâng, thưa ông?” Nó đáp, giọng gần như không thể nghe nổi.
“Uống nốt cốc của cháu đi rồi theo Y tá Clara,” ông nói. “Các cô cậu bé còn lại thì quay lại lớp học đi.”
Đám trẻ ngoan ngoãn chồng cốc của chúng lên chiếc xe đẩy bằng thép không gỉ rồi lặng lẽ đi ra. Không ai nhìn Bridget McGinn ngoại trừ Lyra, cô thấy nỗi sợ hãi hiển hiện trên gương mặt cô bé tóc vàng.
Tiết thể dục chiếm trọn phần còn lại của buổi sáng. Tại Trạm có một phòng thể chất nhỏ, vì rất khó có thể luyện tập bên ngoài giữa buổi đêm vùng cực dài đằng đẵng. Vậy là từng nhóm trẻ con lần lượt chơi ở đó dưới sự giám sát của một y tá. Chúng phải lập đội và ném bóng vòng quanh. Lyra chưa từng bao giờ chơi một thứ như thế này nên ban đầu cô bé không biết phải làm gì cả. Nhưng nhờ sự nhanh nhẹn, thần kinh vận động tốt, lại là một nhà chỉ huy bẩm sinh nên cô đã sớm thấy hứng thú với trò này. Tiếng hò hét của lũ trẻ, tiếng rú rít của linh thú ngập tràn nhà thể chất nhỏ bé và chẳng mấy chốc đã xua tan đi những suy nghĩ sợ hãi; hẳn nhiên đó chính xác là mục đích của việc luyện tập thể dục này.
Vào giờ ăn trưa, khi bọn trẻ lại một lần nữa xếp hàng trong phòng ăn, Lyra cảm thấy Pantalaimon ríu rít kêu lên vì nhận ra điều gì đó. Cô bé quay lại và thấy Billy Costa đang đứng ngay phía sau mình.
“Roger kể với tớ là cậu đang ở đây,” nó thì thầm.
“Anh cậu đang đến, cả John Faa và nguyên một đội quân du mục nữa,” cô nói. “Họ sẽ đưa cậu về nhà.”
Thằng nhóc gần như hét toáng lên vì mừng rỡ, nhưng nó đã kịp nén lại thành một tiếng ho.
“Mà cậu phải gọi tớ là Lizzie đấy,” Lyra nói, “cấm gọi Lyra. Với cả cậu phải kể cho tớ nghe mọi thứ cậu biết nữa.”
Chúng ngồi cùng nhau, với Roger sát bên. Thật dễ để thực hiện việc này vào giờ ăn trưa, lúc lũ trẻ dành phần lớn thời gian đi tới đi lui giữa các bàn, trong khi quầy phục vụ và phòng ăn thì chật kín người. Trong tiếng lách cách của dao dĩa va vào đĩa ăn, Billy cùng Roger kể cho cô bé nghe tất cả những gì chúng biết. Billy đã nghe được từ một y tá rằng những đứa trẻ đã bị tiến hành phẫu thuật thường được đưa tới những nhà trọ xa dưới phía nam. Điều đó có thể giải thích việc làm thế nào Tony Makarios lại đi lang thang trên hoang mạc. Nhưng Roger còn có thứ kì thú hơn để kể với cô.
“Tớ đã tìm được một chỗ trú ẩn,” nó nói.
“Hả? Ở đâu?”
“Nhìn cái tranh kia kìa…” Ý nó là bức hình lớn thể hiện cảnh bãi biển nhiệt đới. “Nhìn vào góc phải phía trên đi, có thấy miếng ván trần đó không?”
Trần nhà được cấu thành từ những miếng ván lớn hình chữ nhật đặt trong một khung cuốn dây kim loại, và mép của miếng ván phía trên bức tranh đang hơi vênh lên.
“Tớ thấy nó,” Roger nói, “và nghĩ rằng những miếng khác có thể cũng như vậy nên tớ đã thử nâng chúng lên. Chúng đều được lắp rất lỏng lẻo nên đẩy một cái là lên ngay. Tớ và đứa nữa đã thử vào một đêm trong kí túc xá của mình, trước khi người ta đưa cậu ấy đi. Có một khoảng không trên đó và ta có thể bò bên trong…”
“Có thể bò bao xa trong đó vậy?”
“Chịu. Bọn tớ chỉ vào có tí thôi. Bọn tớ nghĩ rằng khi cần chúng ta có thể trốn trên đó, nhưng họ có thể sẽ tìm ra chúng ta.”
Lyra không nhìn nhận về nó như một chỗ trốn mà như một đường cao tốc. Đó là điều tuyệt vời nhất cô được nghe kể từ khi đến đây. Nhưng trước khi chúng có thể nói thêm điều gì, một bác sĩ dùng thìa đập lên bàn và bắt đầu nói.
“Lắng nghe đây, các cô cậu bé,” ông ta nói. “Nghe thật kĩ nhé. Thỉnh thoảng chúng ta sẽ phải có một cuộc tập huấn hỏa hoạn. Điều rất quan trọng là chúng ta đều phải ăn mặc chỉnh tề, không hoảng loạn và thoát được ra bên ngoài. Vì vậy chiều nay chúng ta sẽ có một cuộc tập huấn thử nghiệm. Khi chuông kêu, các cháu phải ngừng tất cả những gì đang làm và làm theo những điều mà người lớn gần nhất nói. Hãy ghi nhớ địa điểm mình được đưa đến. Đó là nơi các cháu sẽ phải đến nếu có hỏa hoạn thật sự.”
À, Lyra nghĩ, có ý tưởng rồi.
Trong suốt phần đầu của buổi chiều, Lyra và bốn đứa con gái khác được tiến hành kiểm tra Bụi. Các bác sĩ không để lộ rằng đó là việc họ sẽ làm, nhưng chẳng khó gì để đoán được. Từng đứa một được đưa tới phòng thí nghiệm, và hẳn nhiên là điều này khiến bọn trẻ đều rất sợ hãi; thật tàn nhẫn làm sao, Lyra nghĩ, nếu cô bé phải bỏ mạng mà không táng cho chúng được một quả! Nhưng xem ra chúng chưa có ý định thực hiện cuộc phẫu thuật đó vội.
“Chúng ta muốn thực hiện vài đo đạc,” bác sĩ giải thích. Thật khó để phân biệt những người này: tất cả đàn ông trông đều na ná nhau trong tấm áo khoác trắng cùng chiếc kẹp tài liệu và bút chì, phụ nữ trông cũng giống nhau nữa, bộ đồng phục và vẻ ngoài ôn tồn, bình tĩnh của họ khiến họ trông chẳng khác gì chị em.
“Hôm qua cháu được đo rồi mà,” Lyra nói.
“À, hôm nay chúng ta sẽ thực hiện các phép đo khác. Đứng lên miếng kim loại đi - quên, tháo giày ra trước đã. Cứ ôm lấy linh thú của mình nếu muốn. Nhìn về phía trước, đúng rồi, nhìn thẳng vào đốm sáng màu xanh ấy. Ngoan lắm…”
Có thứ gì đó lóe lên. Bác sĩ chỉnh mặt cô sang hướng khác rồi sang trái và sang phải, mỗi lần đều có tiếng cách và ánh sáng lóe lên.
“Vậy là được rồi. Giờ thì tới bên máy này rồi đặt tay vào ống đi. Không đau đâu, ta hứa đấy. Duỗi thẳng ngón tay ra. Đúng rồi.”
“Ông đang đo cái gì vậy?” Cô bé hỏi. “Là Bụi à?”
“Ai nói với cháu về Bụi vậy?”
“Một trong những bạn gái khác, cháu không biết tên bạn ấy. Bạn ấy nói rằng chúng cháu bị phủ đầy Bụi. Cháu đâu có bụi bặm gì, ít nhất thì cháu cũng nghĩ thế. Hôm qua cháu vừa tắm xong mà.”
“À đó là một loại bụi khác. Cháu không thể thấy nó bằng mắt thường đâu. Đó là một loại bụi đặc biệt. Giờ thì nắm chặt tay vào - đúng rồi. Giỏi lắm. Giờ thì lần tìm trong đó một cái tay cầm đi - thấy chưa? Nắm lấy nó, ngoan lắm. Đặt tay còn lại của cháu về phía này đi - đặt nó lên quả cầu bằng đồng này. Tốt. Giỏi lắm. Giờ cháu sẽ cảm thấy hơi nhói lên một chút nhưng đừng có lo, chỉ là một dòng mạch nhẹ thôi…”
Pantalaimon, trong hình dạng mèo rừng căng thẳng và cảnh giác nhất của mình, đi quanh chiếc máy với đôi mắt lóe lên vẻ ngờ vực, liên tục quay lại cọ vào người Lyra.
Lúc này cô bé đã biết chắc rằng họ chưa định tiến hành thí nghiệm trên người cô, và cũng chắc chắn rằng thân phận Lizzie Brooks của cô được đảm bảo; vì vậy cô đã liều hỏi một câu.
“Sao các ông lại cắt rời linh thú của mọi người đi vậy?”
“Hả? Ai nói với cháu điều đó vậy?”
“Một bạn gái cháu không biết tên. Bạn ấy nói các ông cắt rời linh thú của người ta đi.”
“Vớ vẩn…”
Dù nói vậy ông ta vẫn tỏ ra bối rối. Cô bé nói tiếp:
“Vì các ông đưa từng người đi một và họ chẳng bao giờ quay về. Vài bạn cho rằng các ông đã giết họ, những bạn khác lại nói khác, còn bạn gái này thì nói với cháu là các ông cắt…”
“Hoàn toàn không đúng chút nào. Chúng ta đưa trẻ con đi vì đã đến lúc chúng cần chuyển đến một nơi ở mới. Chúng đã trưởng thành. Ta e là bạn cháu đang tự dọa bản thân đấy. Không có chuyện như vậy đâu! Đừng nghĩ về điều đó nữa. Bạn cháu là ai thế?”
“Cháu mới chỉ đến hôm qua nên cháu chẳng biết tên ai cả.”
“Cô bé trông như thế nào?”
“Cháu quên mất rồi. Cháu nghĩ tóc bạn ấy hình như có màu nâu… nâu nhạt, chắc vậy… cháu không biết nữa.”
Bác sĩ tới rỉ tai thật khẽ với y tá. Trong lúc hai người bàn bạc, Lyra quan sát linh thú của họ. Linh thú của bà y tá này là một con chim xinh xắn, cũng gọn gàng và lãnh đạm chẳng khác gì con chó của Y tá Clara, còn của bác sĩ là một con bướm đêm to lớn nặng nề. Không con nào động đậy. Chúng đều đang thức, vì đôi mắt của con chim sáng bừng còn râu của con bướm đêm thì đang đung đưa chậm rãi, nhưng chúng không sinh động như cô tưởng tượng. Có lẽ chúng không thật sự lo lắng hay tò mò chút nào.
Chẳng mấy chốc bác sĩ đã quay trở lại và họ tiếp tục cuộc kiểm tra, cân cô bé và Pantalaimon riêng biệt, quan sát cô từ phía sau một tấm màn đặc biệt, đo nhịp tim của cô, đặt cô dưới một cái vòi đang rít lên và phả ra thứ mùi giống như không khí sạch.
Vào nửa chừng một trong những đợt kiểm tra, một tiếng chuông lớn bắt đầu vang lên rồi cứ liên tục reo như thế.
“Chuông báo cháy,” bác sĩ thở dài nói. “Được rồi. Lizzie, đi theo Y tá Betty đi.”
“Nhưng toàn bộ quần áo ngoài trời của chúng đều ở dưới tòa nhà kí túc xá cả, thưa Bác sĩ. Cô bé không thể đi ra ngoài thế này được. Chúng ta có nên qua đó trước không?”
Ông bác sĩ búng ngón tay tanh tách, khó chịu vì thí nghiệm của mình bị gián đoạn.
“Tập huấn là thế này đây,” ông ta than vãn. “Thật là phiền phức.”
“Khi cháu tới vào ngày hôm qua,” Lyra tỏ vẻ muốn giúp đỡ, “Y tá Clara đã cho quần áo của cháu vào tủ đồ ở phòng đầu tiên nơi bà ấy gặp cháu. Nó ở kế bên phòng này. Cháu có thể mặc chúng.”
“Ý kiến hay lắm!” Bà y tá nói. “Vậy đi nhanh đi.”
Vừa sướng thầm trong bụng, Lyra vừa vội vàng theo sau bà y tá đi lấy lại chiếc áo choàng lông, quần tất và đôi bốt tử tế của mình, rồi mặc vội chúng lên trong lúc bà y tá khoác lên mình chiếc áo lụa than.
Sau đó họ nhanh chóng đi ra. Trong trường đấu rộng mênh mông trước khu nhà chính, khoảng một trăm người cả người lớn lẫn trẻ con đang đi lại tán loạn: vài người thì háo hức, có kẻ lại cáu bẳn, nhưng phần lớn tỏ ra hoang mang.
“Thấy chưa?” Một người lớn đang nói. “Cần phải làm thế này để thấy được khi có hỏa hoạn thật chúng ta sẽ hỗn loạn đến mức nào.”
Có ai đó đang huýt sáo và vẫy tay, nhưng không ai chú ý nhiều đến điều đó. Lyra nhìn thấy Roger và vẫy lại. Roger kéo tay Billy Costa và chẳng mấy chốc cả ba đã tụ lại với nhau giữa một đám trẻ con đang chạy tán loạn.
“Chúng ta có đi xem xét xung quanh cũng chẳng có ai nhận ra đâu,” Lyra nói. “Họ sẽ tốn cả tỉ năm để đếm được tất cả mọi người, mà chúng ta thì có thể nói rằng mình đi theo ai đó và bị lạc.”
Chúng đợi cho tới khi phần lớn những người trưởng thành đang nhìn đi chỗ khác. Lyra lấy một vốc tuyết lên, nèn nó lại thành một cục xốp rồi ném bừa vào đám đông. Chỉ trong khoảnh khắc tất cả đám trẻ đã bắt chước theo, khiến không khí ngập tràn cầu tuyết bay. Những tiếng cười vang lấn át hoàn toàn tiếng người lớn hét lên, cố gắng kiểm soát tình hình. Cùng lúc đó ba đứa trẻ đã lẻn ra góc phòng và biến mất khỏi tầm mắt.
Tuyết quá dày khiến chúng chẳng thể đi nhanh nổi, nhưng xem ra việc đó cũng không phiền hà gì vì chẳng có ai theo sau cả. Lyra và những đứa còn lại bò trên mái vòm của một trong những đường hầm và thấy mình lạc vào một khung cảnh kì lạ khi ánh trăng tràn ngập trên những gò đất và hố trũng thông thường, vạn vật chìm trong một màu trắng muốt dưới nền trời đen, lấp lánh ánh phản chiếu từ những ngọn đèn xung quanh đấu trường.
“Chúng ta sẽ tìm gì đây?” Billy hỏi.
“Chịu. Cứ tìm đã,” Lyra nói rồi dẫn đường tới một tòa nhà thấp bè hơi tách rời khỏi các tòa còn lại, một ngọn đèn yếu ớt được thắp lên ở góc nhà.
Tiếng huyên náo ở phía sau vẫn inh ỏi như thế, chỉ là đã trở nên xa xăm hơn. Rõ ràng là bọn trẻ đang tận dụng sự tự do của mình hết mức có thể, còn Lyra thì mong rằng chúng sẽ duy trì việc đó càng lâu càng tốt. Cô bé đi vòng qua rìa của tòa nhà to bè, tìm kiếm một cái cửa sổ. Mái nhà chỉ cách mặt đất tầm hai mét, và không giống như những tòa nhà khác, nó không có đường hầm lợp mái để kết nối với phần còn lại của Trạm.
Chẳng có cái cửa sổ nào cả, nhưng có một cánh cửa ra vào. Một biển báo trên đó ghi dòng chữ CẤM VÀO bằng mực đỏ.
Lyra đặt tay lên đó để thử, nhưng trước khi cô có thể vặn nắm đấm thì Roger kêu lên:
“Nhìn kìa! Một con chim! Hay là…”
Từ hay là của cậu bé là một tiếng cảm thán đầy nghi hoặc, bởi vì sinh vật đang sà xuống từ bầu trời đen thẫm hoàn toàn không phải một con chim: Lyra đã từng gặp nó rồi.
“Là linh thú của phù thủy!”
Con ngỗng vỗ đôi cánh vĩ đại của mình, làm bùng lên một cơn lốc tuyết trắng khi đáp xuống đất.
“Xin chào, Lyra,” nó nói. “Ta đã theo cô đến đây, mặc dù cô không nhìn thấy ta. Ta đã đợi cô ra ngoài trời suốt thời gian qua. Chuyện gì đang diễn ra vậy?’”
Cô bé nhanh nhẩu thuật lại.
“Những người du mục đâu rồi?” Cô hỏi. “John Faa vẫn an toàn chứ? Họ có đánh đuổi được lũ Samoyed không?”
“Phần lớn bọn họ đều an toàn. John Faa bị thương nhưng không quá nặng. Những kẻ đã đưa cô tới đây là lũ thợ săn và trộm thường tấn công các nhóm khách lữ hành. Do hành động độc lập, chúng có thể di chuyển nhanh hơn một nhóm người lớn. Đoàn du mục vẫn còn cách nơi đây một ngày đường nữa.”
Hai thằng nhóc đang sợ sệt nhìn con linh thú ngỗng và nhìn điệu bộ thân mật của Lyra với nó, bởi vì hẳn nhiên là chúng chưa từng thấy một con linh thú nào mà không đi cùng với chủ, chúng biết rất ít về giới phù thủy.
Lyra nói với chúng: “Nghe này, các cậu nên đi trông chừng đi. Billy, cậu đi hướng đó, còn Roger, canh chừng lối đi mà chúng ta vừa đến. Chúng ta không có nhiều thời gian đâu.”
Chúng chạy đi làm theo điều cô bé nói, còn Lyra thì quay lại phía cửa ra vào.
“Sao cô lại cố tìm cách vào trong đó vậy?” Con linh thú ngỗng hỏi.
“Vì những điều người ta đang làm ở đây. Họ cắt…” Cô hạ giọng: “… họ cắt rời linh thú của người khác. Của trẻ con. Tôi nghĩ có thể họ tiến hành việc đó ở đây. Ít nhất thì cũng có thứ gì đó ở đây nên tôi định đi xem. Nhưng nó bị khóa mất rồi…”
“Ta có thể mở nó ra,” con ngỗng nói rồi vỗ cánh một vài lần, hất tuyết về phía cửa; nó vừa làm vậy thì Lyra nghe thấy có thứ gì đó đang vặn trong ổ khoá.
“Vào cẩn thận nhé,” con linh thú nói.
Lyra kéo cánh cửa trên nền tuyết rồi lẻn vào trong. Con linh thú ngỗng đi cùng với cô. Pantalaimon đang rất lo lắng và sợ hãi, nhưng nó không muốn con linh thú của phù thủy thấy mình run rẩy nên đã bay tới trú trong ngực áo choàng lông của Lyra.
Ngay khi mắt cô làm quen được với ánh sáng, Lyra đã hiểu tại sao.
Trong một dãy lồng thủy tinh đặt trên những cái giá chạy quanh tường là toàn bộ số linh thú của những đứa trẻ bị cắt rời: những hình dạng ma quái của mèo, chim, chuột hay những sinh vật khác, cái nào cũng đầy kinh hoàng và khiếp đảm, tất cả đều nhợt nhạt như khói.
Con linh thú của phù thủy kêu lên tức giận, Lyra thì ghì chặt lấy Pantalaimon và nói: “Đừng nhìn! Đừng nhìn!”
“Đám trẻ con của các linh thú này đâu rồi?” Con linh thú ngỗng nói, cả người run lên vì phẫn nộ.
Lyra kinh hãi giải thích về cuộc gặp gỡ của cô với Tony Makarios bé bỏng rồi quay lại nhìn về phía những con linh thú tội nghiệp đang bị giam cầm, chúng đang dồn về phía trước, ấn những gương mặt nhợt nhạt lên lớp kính. Lyra có thể nghe thấy những tiếng kêu yếu ớt trong đau đớn và khổ sở. Trong ánh sáng lờ mờ từ một bóng đèn mạch yếu thế, cô bé có thể thấy những cái tên viết trên thẻ đặt trước từng lồng, và quả vậy, cái lồng có tên Tony Makarios trên đó đang rỗng không. Ngoài ra còn có khoảng bốn hoặc năm lồng rỗng đính kèm tên khác.
“Tôi muốn thả những sinh vật tội nghiệp này đi!” Cô giận dữ nói. “Tôi sẽ đập vỡ kính và giải phóng chúng…”
Cô nhìn quanh quất để tìm một vật gì đó khả dĩ, nhưng nơi đó trống không. Con linh thú ngỗng lên tiếng: “Khoan.”
Nó là linh thú của phù thủy, lại lớn tuổi hơn và mạnh hơn cô rất nhiều. Cô phải nghe theo những gì nó nói.
“Chúng ta phải khiến cho những kẻ này nghĩ rằng có người đã quên khóa cửa và đóng các lồng lại,” nó giải thích. “Nếu họ thấy kính vỡ và dấu chân trên tuyết, cô nghĩ thân phận giả của mình sẽ tồn tại được bao lâu? Nó cần phải giữ cho tới khi đoàn du mục đến. Giờ thì hãy làm đúng theo những gì ta nói: lấy một nắm tuyết, và khi ta bảo thì lần lượt thổi một ít vào từng chiếc lồng.”
Cô bé chạy ra ngoài. Roger và Billy vẫn đang đứng gác, từ đấu trường vẫn vọng ra những tiếng la hét và cười nói, vì mới chỉ tầm một phút trôi qua.
Cô vốc đầy hai tay một nắm tuyết bông xốp rồi quay lại làm như con linh thú ngỗng nói. Trong khi cô thổi một ít tuyết lên từng cái lồng, con ngỗng tạo một tiếng tách tách trong cổ họng, vậy là then cài ở phía trước lồng bật mở.
Sau khi đã mở hết cửa lồng, cô nhấc mặt trước của cái đầu tiên lên. Hình dạng nhợt nhạt của một con chim sẻ run rẩy bay ra, nhưng chưa kịp bay lên thì nó đã rơi phịch xuống sàn. Con ngỗng dịu dàng cúi xuống, lấy mỏ đẩy nhẹ cho nó đứng dậy, con chim sẻ liền hóa thành chuột, loạng choạng và bối rối. Pantalaimon nhảy xuống dỗ dành nó.
Lyra nhanh chóng tiến hành công việc, và chỉ trong vài phút tất cả số linh thú đã được thả tự do. Một số cố gắng nói, chúng túm tụm xung quanh chân cô bé và thậm chí còn cố giật tất chân của cô, mặc dù điều cấm kị đã ngăn chúng lại. Cô bé hiểu được vì sao, những con vật đáng thương; chúng nhớ hơi ấm vững chãi từ cơ thể chủ nhân của mình, cũng giống như điều Pantalaimon hẳn sẽ làm. Chúng muốn được nép người vào nơi có nhịp tim đập.
“Nào, nhanh lên,” con ngỗng nói. “Lyra, cô phải chạy về trà trộn vào với những đứa trẻ khác. Dũng cảm lên, cô bé. Đoàn du mục đang đến nhanh nhất có thể. Ta sẽ phải giúp những linh thú đáng thương này tìm lại chủ nhân của mình…” Nó tiến gần lại rồi khẽ nói: “Nhưng chúng sẽ không bao giờ hợp nhất lại được nữa. Chúng đã bị chia tách mãi mãi. Đây là điều tội lỗi nhất mà ta từng thấy… Cứ mặc kệ những dấu chân mà cô đã tạo ra; ta sẽ xóa chúng đi sau. Giờ thì nhanh lên…”
“Ôi, làm ơn! Trước khi ông đi! Các phù thủy… Họ có bay đúng không? Đêm trước tôi không mơ khi thấy họ bay đúng không?”
“Phải, bé con ạ; sao thế?”
“Họ có kéo được một chiếc khí cầu không?”
“Chắc chắn rồi, nhưng…”
“Serafina Pekkala sẽ đến chứ?”
“Không có thời gian giải thích về chính trị của dân tộc phù thủy đâu. Có những thế lực to lớn liên quan đến chuyện này, và Serafina Pekkala phải bảo vệ lợi ích của bộ tộc mình. Nhưng có thể những chuyện đang xảy ra ở đây là một phần của toàn bộ diễn biến ở những nơi khác. Lyra, cô cần phải vào trong nhà. Chạy đi, nhanh!”
Cô bé lao đi. Roger, đang tròn mắt nhìn đám linh thú nhợt nhạt dạt ra khỏi tòa nhà, thấy thế liền lội qua lớp tuyết dày đuổi theo cô bé.
“Chúng là - giống như hầm mộ ở Jordan - chúng là các linh thú!”
“Phải, khẽ chứ. Đừng có nói với Billy đó. Đừng nói với ai vội. Quay trở về thôi.”
Đằng sau chúng, con ngỗng đang hùng hục đập cánh, quạt tuyết lên những dấu chân mà chúng đã tạo ra. Bên cạnh nó, đám linh thú lạc chủ đang túm tụm lại hoặc dạt ra xa, kêu lên những tiếng thê lương đầy mất mát và khát khao. Khi các dấu chân đã được lấp, con ngỗng quay ra dồn đám linh thú lại với nhau. Nó nói, và từng con một biến hình, dù không khó để thấy chúng đã phải nỗ lực nhường nào, cho đến khi tất cả đều thành chim. Giống như lũ chim non, chúng theo đuôi con linh thú phù thủy, lảo đảo, vấp ngã, chạy trên tuyết theo sau nó, và cuối cùng, vô cùng khó nhọc, chúng cất cánh. Chúng bay lên theo một hàng rời rạc, nhợt nhạt và ma quái trên nền trời đen thẫm, rồi nâng dần độ cao, dù một vài con tỏ ra yếu ớt và chập chờn còn những con khác nhụt chí và lảo đảo bay xuống; nhưng con ngỗng xám khổng lồ đã lượn vòng tới và đẩy chúng trở lại, dịu dàng dẫn đoàn tiến lên cho tới khi tất cả biến mất trong bóng tối sâu thẳm.
Roger đang kéo tay Lyra.
“Nhanh lên,” nó giục, “họ sắp xong rồi đấy.”
Chúng hấp tấp chạy tới nhập bọn với Billy, lúc đó đang ra hiệu từ góc tòa nhà chính. Bọn trẻ lúc này đã mệt, hoặc nếu không thì đám người lớn đã lấy lại được chút quyền lực, vì mọi người đang xếp hàng một cách rời rạc bên cạnh cửa chính, vừa đứng vừa chen lấn xô đẩy. Lyra và hai đứa còn lại lẻn ra khỏi góc nhà rồi trà trộn vào chúng, nhưng trước khi làm vậy, Lyra nói:
“Truyền tin cho tất cả mọi người - họ phải sẵn sàng chạy trốn. Họ phải biết được chỗ để quần áo mặc ngoài trời, sẵn sàng đi lấy và chạy ra ngay khi chúng ta đánh tín hiệu. Và tất cả phải đảm bảo giữ thật kín chuyện này, hiểu chứ?”
Billy gật đầu, còn Roger nói: “Tín hiệu gì cơ?”
“Chuông báo cháy,” Lyra đáp. “Khi thời cơ đến, tớ sẽ rung chuông.”
Chúng chờ cho tới khi được điểm danh. Nếu có bất cứ ai trong Ủy ban Hiến tế có chút liên quan gì tới trường học thì hẳn họ đã sắp xếp việc này tốt hơn: vì bọn nhóc không có một nhóm chính thức nào để tham gia, người ta phải đánh dấu từng đứa một trong một danh sách đầy đủ. Đương nhiên là chúng không được xếp theo trật tự chữ cái, mà người lớn thì chẳng có ai quen với việc quản lí cả. Vậy nên mặc dù không còn ai chạy loanh quanh nữa nhưng mọi việc vẫn rất hỗn loạn.
Lyra quan sát và nhận ra điều đó. Họ không hề giỏi trong việc này chút nào. Những người này tỏ ra bê trễ về rất nhiều mặt; họ càu nhàu về việc luyện tập phòng cháy, họ không biết nơi quần áo mặc ngoài trời nên được cất, họ không thể bảo ban lũ trẻ đứng vào hàng ngay ngắn; và sự chểnh mảng của họ có thể lại có lợi cho cô bé.
Tuy vậy, khi họ gần hoàn thành thì lại có một việc khác gây xao lãng, và theo như Lyra thấy thì đó là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra.
Cô bé nghe thấy âm thanh mà tất cả những người khác đều nghe thấy. Những cái đầu bắt đầu quay đi, rà soát bầu trời đêm để tìm một chiếc khí cầu zeppelin có động cơ chạy gas đang kêu rộn rã trong bầu không khí tĩnh lặng.
Có một điều may mắn là nó tới từ hướng ngược lại so với hướng mà con ngỗng xám vừa bay đi. Nhưng đó là nguồn an ủi duy nhất. Chẳng bao lâu sau chiếc khí cầu đã hiện rõ, khiến một tiếng rì rầm đầy hứng khởi lan tỏa trong đám đông. Hình dạng màu bạc tròn lẳn và bóng loáng của nó trôi qua trên con đường ánh sáng, còn những luồng sáng của chính nó thì chiếu rực rỡ xuống dưới từ đầu mũi và khoang treo phía dưới thân tàu.
Viên phi công giảm tốc rồi bắt đầu thực hiện công việc điều chỉnh độ cao đầy phức tạp. Giờ Lyra đã nhận ra cái cột to bè đó dùng để làm gì: hẳn nhiên là để neo khí cầu rồi. Khi những người lớn dẫn bọn trẻ vào nhà trong lúc chúng không ngừng ngoái lại nhìn và chỉ trỏ, đội nhân viên mặt đất đã leo lên thang dựng trên cột và chuẩn bị móc cáp neo tàu. Động cơ gầm rú, tuyết bay thốc lên từ mặt đất, và gương mặt của các hành khách hiện ra trên cửa sổ khoang tàu.
Lyra nhìn lên, không hề nhầm lẫn. Pantalaimon ghì chặt lấy cô bé, biến thành một con mèo rừng và rít lên đầy căm ghét, bởi vì người đang tò mò nhìn ra ngoài chính là Phu nhân Coulter với mái tóc sẫm màu xinh đẹp và con linh thú vàng óng trong lòng.