- 16 - Máy chém bằng bạc
Lyra lập tức rúc đầu vào dưới chiếc mũ trùm lông chồn gulo của mình rồi lẩn vào qua cánh cửa đôi cùng với những đứa trẻ khác. Vẫn đủ thời gian để lo lắng về điều sẽ phải nói khi họ đối mặt, còn bây giờ cô có vấn đề khác cần giải quyết trước, đó là làm cách nào giấu được bộ đồ lông vào một nơi cô có thể lấy mà không cần hỏi ý kiến.
Nhưng may thay, bên trong nhà cũng đang rất lộn xộn khi người lớn cố gắng lùa bọn trẻ vào thật nhanh để dẹp đường cho các hành khách từ chiếc zeppelin, nên không có ai quan sát cẩn thận cả. Lyra cởi áo khoác, tất chân và giày bốt ra rồi bó chúng lại nhỏ nhất có thể trước khi chen qua những hành lang đầy ngập người để về kí túc xá.
Cô bé nhanh chóng kéo một chiếc tủ khóa vào góc phòng, đứng lên nó rồi đẩy lên trần nhà. Tấm ván nâng lên đúng như Roger nói, cô liền đẩy đôi bốt và quần tất vào khoảng không phía trên. Sau khi suy tính lại, cô bé lấy chiếc Chân Kế trong túi đeo ra, giấu nó vào khoang túi trong cùng của áo khoác trước khi đẩy cả nó vào.
Cô nhảy xuống, đẩy lại chiếc tủ khóa rồi thì thầm với Pantalaimon: “Chúng ta chỉ cần giả đò ngu ngơ cho tới khi bà ta phát hiện ra, rồi nói rằng chúng ta đã bị bắt cóc. Không hó hé gì về đoàn du mục và đặc biệt là Iorek Byrnison đâu đấy.”
Nếu trước đây Lyra không để ý thấy thì giờ cô đã nhận ra rằng toàn bộ nỗi sợ trong cô hướng về Phu nhân Coulter cũng giống như kim la bàn hướng về cực vậy. Tất cả những thứ khác mà cô đã từng chứng kiến, thậm chí cả sự tàn bạo ghê tởm của quá trình phẫu thuật cắt đứt, cô cũng đều chịu đựng được; cô đủ mạnh mẽ; nhưng ý nghĩ về gương mặt duyên dáng và giọng nói dịu dàng đó, hình ảnh con khỉ vàng tinh nghịch, đã đủ khiến bụng cô quặn lên, mặt nhợt đi và cảm thấy nôn nao.
Nhưng đoàn người du mục đang đến. Hãy nghĩ về điều đó. Nghĩ về Iorek Byrnison. Và đừng để bị lộ, cô tự nhủ rồi lẻn trở lại phòng ăn, nơi đang phát ra rất nhiều tiếng ồn.
Trẻ con đang xếp hàng nhận đồ uống nóng, vài đứa vẫn đang khoác áo choàng bằng lụa than. Chúng chỉ toàn nói về chiếc zeppelin và hành khách của nó.
“Là bà ta đó - cùng với con linh thú khỉ…”
“Bà ta cũng bắt được cậu à?”
“Bà ta nói sẽ viết thư cho bố mẹ tớ nhưng tớ dám cá là bà ta không hề…”
“Bà ta chưa từng nói với bọn tớ về những đứa trẻ bị giết. Chưa từng đả động chút nào đến việc đó.”
“Con khỉ đó, nó là thứ tồi tệ nhất - nó tóm được Karossa của tớ và suýt nữa thì giết mất Karossa - tớ có thể cảm thấy toàn thân lả đi…”
Bọn chúng cũng sợ hãi chẳng kém gì Lyra. Cô bé ngồi xuống sau khi tìm thấy Annie và những đứa khác.
“Nghe này,” cô lên tiếng, “các cậu giữ bí mật được chứ?”
“Được!”
Ba gương mặt quay lại phía cô, sáng bừng lên trong mong đợi.
“Có một kế hoạch trốn thoát,” Lyra nói khẽ. “Có người đang đến đưa chúng ta đi, phải, khoảng một ngày nữa họ sẽ đến đây. Có thể là sớm hơn. Việc tất cả chúng ta phải làm là sẵn sàng ngay khi có tín hiệu, lập tức đi lấy quần áo rét rồi chạy ra ngoài. Không được nán lại đợi chờ. Chỉ cần phải chạy thôi. Có điều là nếu không lấy được áo khoác, giày bốt và những thứ khác thì các cậu sẽ chết cóng.”
“Tín hiệu gì cơ?” Annie hỏi gặng.
“Chuông báo cháy, giống như chiều hôm nay. Tất cả đều được sắp xếp hết rồi. Toàn bộ trẻ con sẽ được biết nhưng người lớn thì không. Đặc biệt là không phải bà ta.”
Đôi mắt chúng ánh lên đầy hi vọng và hứng khởi. Thông điệp đang được truyền đi khắp phòng ăn. Lyra có thể nhận thấy bầu không khí đã thay đổi. Bên ngoài, đám trẻ vẫn đang tràn trề năng lượng và hăng hái chơi đùa; rồi khi vừa thấy Phu nhân Coulter, trong chúng dấy lên nỗi sợ hãi tột độ nhưng phải kìm nén lại. Nhưng giờ đây những câu chuyện của chúng đã được kiểm soát và có mục đích hơn. Lyra lấy làm ngạc nhiên trước ảnh hưởng mà niềm hi vọng có thể đem lại.
Cô bé nhìn qua ô cửa mở, thận trọng và luôn sẵn sàng trùm mũ lên đầu, vì có tiếng người lớn đang vọng đến, rồi chính Phu nhân Coulter cũng thoáng hiện ra. Bà ta nhìn vào rồi mỉm cười với những đứa trẻ hạnh phúc đang cầm đồ uống nóng và bánh ngọt, được sưởi ấm và cho ăn đầy đủ. Gần như ngay lập tức, một cơn rùng mình khẽ lan tỏa ra khắp phòng ăn, đứa nào đứa nấy đứng đờ ra và lặng thinh nhìn người đàn bà.
Phu nhân Coulter mỉm cười rồi lẳng lặng đi tiếp. Dần dần những cuộc bàn tán lại vang lên.
Lyra nói: “Họ đi nói chuyện ở đâu vậy?”
“Có lẽ là phòng hội thảo,” Annie nói. “Họ có đưa chúng tớ đến đó một lần,” nó nói thêm, ngụ ý chỉ bản thân và linh thú của mình. “Có khoảng hai mươi người trưởng thành ở đó và một trong số họ đang thuyết trình. Tớ phải đứng đó và làm theo những gì ông ta bảo, ví dụ như kiểm tra xem Kyrillion có thể tách rời khỏi tớ bao xa, rồi ông ta thôi miên tớ và làm những việc khác nữa… Đó là một căn phòng lớn có rất nhiều bàn ghế và một cái bục nhỏ. Nó ở phía sau văn phòng ở mặt tiền. Này, tớ cá họ sẽ giả vờ là buổi huấn luyện phòng cháy đã thành công tốt đẹp. Tớ dám chắc họ cũng sợ bà ta chẳng kém gì bọn mình…”
Trong suốt phần ngày còn lại, Lyra cứ dính chặt lấy đám con gái, quan sát, kiệm lời và kín đáo. Chương trình hôm đó có luyện tập thể chất, may vá, dùng bữa nhẹ, chơi đùa trong phòng khách: một căn phòng lớn tồi tàn chứa các trò chơi cờ bàn, vài cuốn sách tả tơi và một bàn bóng bàn. Đến một lúc, Lyra và những đứa khác nhận ra có sự khẩn cấp kín đáo nào đó đang diễn ra, vì đám người lớn cứ vội vàng chạy tới chạy lui hay đứng thành từng nhóm lo lắng trao đổi đầy cấp bách. Lyra đoán rằng họ đã phát hiện ra vụ tẩu thoát của đám linh thú và đang thắc mắc không hiểu làm sao lại xảy ra việc đó được.
Nhưng cô bé không nhìn thấy Phu nhân Coulter, thật nhẹ nhõm biết bao. Khi tới giờ đi ngủ, cô biết rằng mình phải nói chuyện riêng với những đứa con gái khác.
“Nghe này,” cô nói, “họ có bao giờ đến kiểm tra xem chúng ta đã ngủ chưa hay không?”
“Họ chỉ nhìn vào một lần thôi,” Bella đáp. “Họ chỉ rọi đèn xung quanh chứ không thật sự xem xét gì cả.”
“Tốt. Vì tớ sẽ đi kiểm tra vòng quanh. Có một lối đi trên trần nhà mà cậu bạn này đã chỉ cho tớ…”
Cô bé giải thích, nhưng trước khi kịp nói xong thì Annie đã chen vào: “Tớ sẽ đi với cậu!”
“Không, cậu không nên đi cùng, vì nếu chỉ có một đứa biến mất thì sẽ dễ dàng hơn. Các cậu đều có thể nói là đã ngủ thiếp đi và không biết tớ đi đâu mất.”
“Nhưng nếu tớ đi cùng với cậu…”
“Chỉ tổ dễ bị tóm thôi,” Lyra nói.
Hai con linh thú của chúng nhìn nhau đăm đăm, Pantalaimon trong lốt mèo rừng còn Kyrillion của Annie thì là một con cáo. Cả hai đều đang run lên kích động. Pantalaimon rít lên một tiếng trầm và khẽ nhất, răng nhe ra, trong khi Kyrillion lại ngoảnh đi và bắt đầu tự chải lông vẻ thờ ơ.
“Thôi được rồi,” Annie cam chịu nói.
Việc những xung đột giữa trẻ con được giải quyết bởi linh thú của chúng theo cách này khá là phổ biến, khi một con chấp nhận ưu thế của con còn lại. Nhìn chung chủ nhân của chúng chấp nhận kết quả mà không oán giận, nên Lyra biết rằng Annie sẽ làm theo điều cô yêu cầu.
Cả bọn góp quần áo lại để chất lên giường Lyra, làm cho như thể cô bé vẫn đang ở đó, và thề sẽ nói rằng mình không biết gì về việc đó cả. Sau đó Lyra ra cửa nghe ngóng để chắc chắn rằng không có ai đang tới. Sau đó cô nhảy lên trên tủ khoá, đẩy tấm ván lên và đu người qua đó.
“Đừng có nói gì cả đấy,” cô bé thì thầm xuống với ba khuôn mặt đang dõi theo.
Rồi cô nhẹ nhàng thả tấm ván lại chỗ cũ và nhìn quanh.
Cô đang khom người trong một ống dẫn hẹp bằng kim loại được nâng đỡ bởi bộ khung tạo từ xà nhà và thanh chống. Những tấm ván của trần nhà trong mờ nên một phần ánh sáng từ phía dưới vẫn lọt qua được. Trong ánh sáng yếu ớt đó, Lyra có thể thấy không gian chật hẹp này (chỉ cao chưa đầy một mét) trải dài theo mọi hướng xung quanh cô. Nó đầy nhóc những ống kim loại, rất dễ để bị lạc trong đó, nhưng chỉ cần cô bám theo khối kim loại, tránh đè nặng lên các tấm ván và chừng nào còn không gây ra tiếng động thì chắc hẳn cô sẽ có thể đi từ đầu này đến đầu kia của Trạm.
“Giống như hồi ở Jordan nhỉ, Pan,” cô thì thầm, “lúc nhòm vào Phòng nghỉ ấy.”
“Nếu cậu không làm thế thì những chuyện này đã chẳng xảy ra,” nó thì thầm lại.
“Vậy thì việc giải quyết nó là trách nhiệm của tớ, đúng không?”
Cô bé xác định phương hướng, ước chừng hướng tới phòng hội thảo rồi lên đường. Đó là một cuộc hành trình không hề dễ dàng. Cô phải di chuyển bằng bàn tay và đầu gối vì khoảng không quá thấp để có thể cúi người mà đi. Cứ thỉnh thoảng cô lại phải ép người xuống dưới một ống lớn hình vuông hay nâng người qua vài ống sưởi. Cô có thể đoán được rằng mình đang bò trong những đường ống kim loại men theo đỉnh của những bức tường phía trong, chừng nào còn ở trong đó cô còn cảm thấy an lòng với sự vững chắc bên dưới; nhưng chúng rất hẹp, lại có gờ sắc, sắc đến mức khuỷu tay và đầu gối cô bị chúng cứa rách. Chẳng bao lâu sau toàn thân cô đã đau nhức, tù túng và bám đầy bụi.
Nhưng cô bé biết đại khái mình đang ở đâu, và đống đồ lông thú đen ngòm được nhét trên trần kí túc xá sẽ dẫn lối cho cô về. Cô có thể biết được phòng nào không có người vì ván trần ở đó sẽ tối. Thỉnh thoảng khi nghe thấy tiếng nói vọng từ phía dưới, cô dừng lại lắng nghe, nhưng đó chỉ là những người cấp dưỡng trong nhà bếp, hay các y tá trong căn phòng mà theo lối suy nghĩ Jordan của Lyra là phòng chung của họ. Họ chẳng nói gì thú vị nên cô tiếp tục tiến lên.
Cuối cùng cô cũng tới một khu vực mà theo tính toán thì phòng hội thảo hẳn phải ở đó. Quả vậy, tại đó có một khu vực không chứa một ống dẫn nào, nơi các ống khí điều hòa và sưởi dẫn xuống tại một đầu, và là nơi tất cả các tấm ván lớn hình chữ nhật đều được chiếu sáng như nhau. Cô áp tai xuống ván và nghe thấy giọng những người đàn ông rì rầm, vậy là cô biết mình đã tìm đến đúng chỗ.
Cô bé lắng nghe thật kĩ rồi nhích dần cho tới khi đến được gần nhất có thể với những người đang nói. Sau đó cô nằm xoài ra trong đường ống kim loại và nghiêng đầu sang một bên để nghe được rõ nhất.
Thỉnh thoảng lại có tiếng dao dĩa lách cách, hay tiếng thủy tinh chạm nhau khi đồ uống được rót, hóa ra họ vừa dùng bữa vừa nói chuyện. Cô đoán là có bốn giọng nói, bao gồm cả giọng Phu nhân Coulter. Ba người còn lại là đàn ông. Có vẻ như họ đang thảo luận về những con linh thú đã trốn thoát.
“Nhưng ai phụ trách giám sát khu vực đó vậy?” Giọng nói dịu dàng du dương của Phu nhân Coulter vang lên.
“Một nghiên cứu sinh tên McKay,” một trong những người đàn ông nói. “Nhưng có những cơ chế tự động để ngăn sự việc như thế này xảy ra…”
“Chúng không hiệu quả,” bà ta nói.
“Có đấy, thưa Phu nhân Coulter. McKay quả quyết là cậu ta đã khóa tất cả các cửa lồng khi rời khỏi tòa nhà vào lúc mười một giờ ngày hôm nay. Dĩ nhiên là cửa ngoài cũng không được mở trong bất cứ trường hợp nào, vì cậu ta vào và ra bằng cửa trong như mọi khi. Cần phải nhập mã vào máy kiểm soát các ổ khoá, và trong dữ liệu của nó có ghi nhận việc cậu ta đã làm vậy. Nếu không làm như thế, chuông báo động sẽ đổ.”
“Nhưng chuông đâu có kêu,” bà ta nói.
“Có. Không may là nó kêu khi tất cả đều đang ở bên ngoài để tham gia buổi huấn luyện phòng cháy.”
“Nhưng khi các ông vào lại bên trong…”
“Không may là cả hai chuông báo lại cùng trong một mạch; đó là một lỗi thiết kế cần phải chỉnh sửa. Điều đó có nghĩa là khi chuông báo cháy được tắt sau buổi tập dượt, chuông báo động trong phòng thí nghiệm cũng bị tắt. Có điều, ngay cả khi đó, đáng lẽ sự việc đã phải được phát hiện nhờ những cuộc kiểm tra thông thường sau mỗi lần chu trình hằng ngày bị gián đoạn; nhưng lần này, thưa Phu nhân Coulter, bà đã đến bất ngờ. Nếu bà còn nhớ thì chính bà đã yêu cầu đích danh được gặp nhân viên phòng thí nghiệm ngay tại đó, trong phòng của bà. Do vậy đã không có ai quay lại phòng thí nghiệm trong một khoảng thời gian.”
“Ra vậy,” Phu nhân Coulter lạnh lùng nói. “Nếu vậy thì đám linh thú hẳn đã được giải phóng trong thời gian huấn luyện phòng cháy. Và điều đó nới rộng danh sách nghi phạm thành bao gồm toàn bộ người lớn trong Trạm. Ông đã nghĩ tới điều đó chưa?”
“Bà đã tính tới việc nó có thể được thực hiện bởi một đứa trẻ con chưa?” Một người khác lên tiếng.
Bà ta lặng thinh. Người thứ hai liền nói tiếp:
“Mỗi người lớn đều có một nhiệm vụ phải thực hiện, và mỗi nhiệm vụ sẽ chiếm toàn bộ sự chú tâm của họ, tất cả các nhiệm vụ đều đã được hoàn thành. Không hề có khả năng cho việc bất cứ nhân viên nào ở đây có thể đã mở cửa. Hoàn toàn không. Vì vậy hoặc là có kẻ nào đó tới từ bên ngoài cùng với ý định thực hiện việc đó, hay một trong số những đứa trẻ đã tìm được đường tới đó, mở cửa ra vào và các lồng, rồi quay trở lại mặt tiền của tòa nhà chính.”
“Vậy các ông đang làm gì để điều tra việc đó?” Bà hỏi. “Thôi, tôi nghĩ lại rồi, không cần nói đâu. Xin hãy hiểu cho, Bác sĩ Cooper, tôi không phê phán vì ác ý. Chúng ta cần phải đặc biệt cẩn trọng. Thật là một sai sót tồi tệ khi cho phép cả hai chuông báo được thiết lập trên cùng một mạch. Việc đó cần phải được sửa đổi ngay lập tức. Có lẽ sĩ quan người Tartar đảm nhận việc canh gác có thể giúp các ông điều tra chăng? Tôi chỉ đơn thuần nhắc đến ông ta như một khả năng thôi. Nhân tiện, những người Tartar đã ở đâu vào lúc diễn ra huấn luyện phòng cháy? Tôi cho rằng các ông đã tính đến điều này?”
“Phải, chúng tôi có nghĩ tới,” người đàn ông ngán ngẩm đáp. “Tất cả lính gác đều bận đi tuần, không sót một ai. Họ ghi chép lại rất tỉ mỉ.”
“Tôi chắc chắn là các ông đang làm hết mức có thể,” bà ta nói. “Thôi được rồi. Quả là vô cùng đáng tiếc, nhưng tạm thời thì nói về chuyện đó như vậy là đủ rồi. Kể cho tôi nghe về việc tách rời mới đi.”
Lyra rùng mình sợ hãi. Việc này chỉ có thể ám chỉ một điều duy nhất.
“À,” bác sĩ nói, nhẹ nhõm khi thấy cuộc nói chuyện chuyển sang chủ đề khác, “chúng tôi đã đạt được một bước tiến thực sự. Với mẫu đầu tiên, chúng tôi không thể hoàn toàn loại bỏ được rủi ro bệnh nhân tử vong vì sốc, nhưng giờ thì vấn đề đó đã được khắc phục.”
“Dân Skraeling dùng tay không cũng làm được tốt hơn,” người đàn ông trước đó chưa từng phát biểu nói.
“Tốn hàng thế kỉ để luyện tập,” người kia đáp lại.
“Nhưng đôi khi việc xé toạc một cách đơn thuần lại là lựa chọn duy nhất,” người phát biểu chính lên tiếng, “dù cho việc đó có khiến những người thực hiện phải đau khổ đến mức nào. Nếu bà còn nhớ, chúng ta đã phải sa thải một số lượng khá lớn vì những lí do liên quan đến lo âu và căng thẳng. Nhưng bước đột phá lớn đầu tiên là việc sử dụng thuốc gây mê kết hợp với dao mạch Maystadt. Chúng tôi đã có thể giảm tỉ lệ tử vong do sốc phẫu thuật xuống dưới năm phần trăm.”
“Vậy còn thiết bị mới?” Phu nhân Coulter hỏi.
Người Lyra run lên cầm cập. Máu đang đập thình thịch trong hai tai cô, Pantalaimon ép thân hình chồn ermine vào cạnh sườn cô và thì thầm: “Yên nào Lyra, họ sẽ không làm thế - chúng ta sẽ không để họ làm thế…”
“Phải, chính một phát hiện lạ lùng của Ngài Asriel đã cho chúng tôi chìa khóa tới phương pháp mới này. Ông ta phát hiện ra rằng một hợp kim của mangan và titan có đặc tính làm cách li thân thể khỏi linh thú. Nhân tiện, chuyện gì đang xảy ra với Ngài Asriel vậy?”
“Có lẽ các ông chưa được nghe nói,” Phu nhân Coulter đáp. “Ngài Asriel đang nhận án tử hình treo. Một trong những điều kiện cho việc đi đày ở Svalbard là ông ta phải hoàn toàn từ bỏ công việc nghiên cứu khoa học của mình. Không may là ông ta lại tìm cách lấy được sách vở tài liệu và đã đẩy những nghiên cứu dị giáo của mình lên tới mức việc để ông ta được sống có thể rất nguy hiểm. Dù sao thì Tòa án Công giáo Kỉ luật cũng đã bắt đầu cân nhắc vấn đề án tử hình, và khả năng cao là nó sẽ được tiến hành. Nhưng còn thiết bị mới của ông, Bác sĩ à. Nó hoạt động thế nào?”
“À - phải - bà nói là án tử hình à? Chúa ơi… Tôi rất tiếc. Về thiết bị mới. Chúng tôi đang nghiên cứu xem chuyện gì sẽ xảy ra khi quá trình phẫu thuật cắt đứt được tiến hành trên bệnh nhân trong trạng thái tỉnh táo, và hẳn nhiên là điều đó không thể thực hiện với Phương pháp Maystadt. Vậy nên tôi đoán bà có thể nói rằng chúng tôi đã phát triển một loại máy chém. Lưỡi dao được làm từ hợp kim mangan và titan, đứa trẻ được đặt trong một khoang - kiểu như một buồng nhỏ - làm từ lưới hợp kim, cùng với linh thú trong một khoang tương tự thông với nó. Chừng nào vẫn còn sự kết nối thì hẳn nhiên là mối liên kết vẫn được duy trì. Rồi lưỡi dao được thả xuống giữa hai đứa, lập tức cắt rời mối liên hệ. Lúc đó chúng sẽ trở thành những thực thể biệt lập.”
“Tôi rất muốn được chứng kiến,” bà ta nói. “Sớm, hi vọng vậy. Nhưng giờ thì tôi mệt quá rồi. Tôi nghĩ mình nên đi ngủ. Ngày mai tôi muốn gặp toàn bộ trẻ con ở đây. Chúng ta sẽ tìm ra đứa nào mở cánh cửa đó.”
Có tiếng ghế được đẩy lùi lại, những lời nói khách sáo, tiếng cửa đóng. Rồi Lyra nghe thấy tiếng những người còn lại ngồi xuống tiếp tục nói chuyện, nhưng khẽ khàng hơn.
“Ngài Asriel đang mưu tính gì vậy?”
“Tôi nghĩ ông ta có một quan niệm hoàn toàn khác về bản tính của Bụi. Đó là vấn đề. Điều đó hoàn toàn là dị giáo, các ông thấy đấy, mà Tòa án Công giáo Kỉ luật thì không thể cho phép bất cứ cách diễn giải nào khác ngoài cách đã được cho phép. Bên cạnh đó, ông ta muốn thử nghiệm…”
“Thử nghiệm? Với Bụi sao?”
“Suỵt! Đừng nói to thế…”
“Các ông có nghĩ bà ta sẽ lập một báo cáo không có lợi cho chúng ta không?”
“Không, không. Tôi cho rằng ông đối phó với bà ta rất cừ.”
“Thái độ của bà ta khiến tôi lo lắng…”
“Ý ông là không phải về mặt khoa học?”
“Chính xác. Đó là một sở thích cá nhân. Tôi không muốn dùng từ này, nhưng nó gần như là ghê tởm.”
“Nói thế hơi nặng quá.”
“Nhưng các ông có nhớ những cuộc thí nghiệm đầu tiên, khi bà ta thiết tha được xem chúng bị kéo rời ra…”
Lyra không ngăn nổi một tiếng kêu lên thật khẽ, cùng lúc đó cả người cô cứng đờ và run lẩy bẩy, chân cô đạp phải một cái cột chống.
“Gì vậy?”
“Trên trần nhà…”
“Nhanh lên!”
Có tiếng ghế bị ném sang một bên, tiếng chân chạy, một cái bàn được kéo trên sàn. Lyra cố gắng bò đi nhưng do không gian chật chội, trước khi cô di chuyển được hơn vài mét thì tấm ván trần bên cạnh đã đột ngột bị đẩy lên, khiến cô nhìn thẳng vào khuôn mặt kinh ngạc của một người đàn ông. Cô ở gần đến mức có thể nhìn rõ từng sợi ria mép của hắn. Hắn ta cũng giật mình không kém gì Lyra, nhưng vì được cử động tự do hơn, hắn đã kịp thọc một bàn tay qua khoảng trống và tóm lấy cánh tay cô.
“Một đứa bé!”
“Đừng để nó thoát…”
Lyra cắm ngập răng vào bàn tay to bè đầy tàn nhang của người đàn ông. Hắn ta hét toáng lên nhưng không chịu thả ra kể cả khi đã bị chảy máu. Pantalaimon đang gầm ghè và phun phì phì nhưng vô tác dụng. Người đàn ông khỏe hơn cô bé rất nhiều, hắn ta cứ kéo liên tục cho tới khi bàn tay còn lại đang tuyệt vọng bám lấy cột chống của cô phải nới lỏng ra, khiến cô suýt nữa thì rơi thẳng xuống căn phòng bên dưới.
Nhưng cô vẫn không thốt lên một tiếng nào. Cô ngoắc chân lên cái gờ sắc nhọn của lớp kim loại phía trên và đấu tranh trong tư thế lộn ngược, cào, cắn, đấm, thọc trong cơn cuồng nộ. Đám đàn ông đang thở hổn hển và càu nhàu vì đau đớn hay gắng sức, nhưng chúng vẫn không ngừng kéo.
Rồi đột nhiên toàn bộ sức lực trôi tuột khỏi người cô.
Cứ như thể một bàn tay xa lạ đã thọc vào tận bên trong, nơi không bàn tay nào có quyền xâm phạm, và vặn mạnh lên một thứ sâu thẳm và quý giá.
Cô thấy người lả đi, choáng váng, buồn nôn, ghê tởm, yếu ớt vì sửng sốt.
Một trong những gã đàn ông đang giữ Pantalaimon.
Hắn đã tóm lấy linh thú của Lyra bằng đôi bàn tay người của mình. Pan đáng thương đang run rẩy, gần như mất trí vì kinh hoàng và ghê tởm. Hình dạng mèo rừng của nó, bộ lông của nó lúc thì xỉn đi vì yếu đuối, lúc lại lóe lên những tia mạch cảnh cáo…
Nó oằn người về phía Lyra trong lúc cô bé vươn cả hai tay ra với lấy nó…
Cả hai gục xuống. Chúng đã bị bắt.
Cô bé cảm thấy những bàn tay đó… Việc đó là không được phép… Không được chạm vào… Sai trái…
“Nó đi có một mình thôi à?”
Một gã đàn ông đang nhòm vào khoảng không trên trần.
“Có vẻ như là một mình…”
“Nó là ai?”
“Đứa bé mới đến.”
“Đứa được đám thợ săn Samoyed…”
“Phải.”
“Các ông không nghĩ nó… đám linh thú…”
“Có thể lắm. Nhưng hẳn là không phải một mình?”
“Chúng ta có nên nói…”
“Tôi nghĩ làm vậy sẽ khiến mọi thứ chấm dứt, ông không nghĩ thế sao?”
“Tôi đồng ý. Tốt hơn hết là bà ta không được nghe gì hết.”
“Nhưng chúng ta có thể làm gì với việc này?”
“Con bé không được quay lại với những đứa trẻ khác.”
“Không thể nào!”
“Tôi thấy rằng chỉ có một việc duy nhất chúng ta có thể làm.”
“Bây giờ sao?”
“Hẳn rồi. Không thể để đến khi trời sáng được. Bà ta muốn xem mà.”
“Chúng ta có thể tự làm. Không cần phải dính líu tới ai cả.”
Gã đàn ông có vẻ như là người phụ trách, kẻ không giữ Lyra hay Pantalaimon, dùng móng tay cái gõ gõ lên hàm răng. Đôi mắt hắn không chịu đứng yên; chúng đu đưa và đảo qua đảo lại. Cuối cùng hắn cũng gật đầu.
“Ngay bây giờ. Làm luôn đi,” hắn nói. “Nếu không nó sẽ nói lộ ra mất. Ít nhất thì cơn sốc cũng sẽ ngăn cản điều đó. Nó sẽ không nhớ mình là ai, đã nhìn thấy gì hay nghe thấy gì… Nhanh lên.”
Lyra không thể hé miệng. Cô gần như không thở nổi. Cô đành phải để cho mình bị đưa đi qua Trạm, dọc theo những hành lang màu trắng trống rỗng, băng qua những căn phòng chạy mạch kêu o o, qua các kí túc xá nơi trẻ con ngủ cùng với linh thú của mình trên chiếc gối bên cạnh, chia sẻ những giấc mơ với chúng. Suốt chặng đường, không giây phút nào cô bé rời mắt khỏi Pantalaimon, nó với tới cô, và đôi mắt chúng không hề rời khỏi nhau.
Rồi một cánh cửa được mở ra nhờ bánh xe lớn; tiếng không khí rít lên; và ở đó là một căn phòng được chiếu sáng rực rỡ lắp gạch trắng và thép không gỉ sáng loá. Sự sợ hãi mà cô cảm thấy gần như là một nỗi đau thể chất; nó chính là một nỗi đau thể chất khi người ta kéo cô và Pantalaimon về phía một cái lồng lớn bằng lưới bạc trắng, bên trên treo lơ lửng một lưỡi dao bạc vĩ đại, sẵn sàng chia cắt chúng mãi mãi.
Cuối cùng cô cũng lấy lại được giọng và hét toáng lên. Âm thanh vang vọng trên những bề mặt sáng bóng, nhưng cánh cửa nặng trịch đã rít lên khi đóng sập lại; cô có gào lên cả đời thì cũng chẳng có một âm thanh nào thoát ra được.
Nhưng để đáp lại, Pantalaimon đã vặn người thoát khỏi đôi bàn tay đáng căm hờn đó - nó hóa thành sư tử, thành đại bàng; nó dùng bộ vuốt hung mãnh cấu xé đám đàn ông, đôi cánh khổng lồ đập cuồng loạn, rồi nó biến thành sói, thành gấu, thành chồn nâu - đâm bổ, gầm gừ, cào cấu, một chuỗi biến hóa nhanh đến chóng mặt, liên tục nhún nhảy, bay lượn, luồn lách từ điểm này đến điểm kia trong lúc những đôi tay vụng về của đám đàn ông vụt và vồ vào khoảng không trống rỗng.
Nhưng đám đàn ông cũng có linh thú, hẳn rồi. Đó không phải là hai chọi ba mà là hai chọi sáu. Một con lửng, một con cú và một con khỉ đầu chó cũng không kém phần kiên quyết muốn đè Pantalaimon xuống. Lyra gào lên với chúng: “Tại sao? Tại sao các cậu lại làm thế? Giúp chúng tôi đi! Các cậu không nên giúp họ!”
Rồi cô đạp và cắn mạnh hơn trước, cho tới khi gã đàn ông đang giữ mình thở hổn hển và nới lỏng tay trong tích tắc - vậy là cô đã thoát được, Pantalaimon lao về phía cô nhanh như một tia chớp. Cô bé ghì chặt nó vào lồng ngực đang thở dốc, con linh thú cắm bộ móng mèo rừng của mình vào da thịt cô, nhưng lúc này mỗi cơn đau nhói lại trở nên rất đỗi thân thương.
“Không bao giờ! Không bao giờ! Không bao giờ!” Cô bé hét lên rồi lùi sát vào tường, kiên quyết bảo vệ Pantalaimon.
Nhưng chúng lại lao vào cô, ba gã đàn ông to lớn hung hãn, mà cô thì chỉ là một đứa trẻ, choáng váng và kinh hãi. Chúng giật lấy Pantalaimon, ném cô vào một phía của cái lồng lưới rồi đem con linh thú đang quẫy đạp sang phía bên kia. Giữa hai đứa có một vách lưới ngăn, nhưng Pantalaimon vẫn là một phần của cô, chúng vẫn đang kết nối. Trong một vài giây tới, Pantalaimon vẫn là linh hồn thân yêu của cô.
Trên cả tiếng thở hổn hển của đám đàn ông, tiếng thút thít của chính bản thân cô, và tiếng hú hoang dại của con linh thú, Lyra nghe thấy tiếng kêu o o, rồi cô thấy một người đàn ông (đang chảy máu mũi) điều khiển một loạt nút chuyển mạch. Hai tên còn lại ngước lên nhìn, cô cũng hướng mắt lên nhìn theo. Lưỡi dao bạc trắng khổng lồ đang dần được kéo lên, lấp loáng trong ánh sáng chan hòa. Khoảnh khắc cuối cùng trong cuộc đời trọn vẹn của cô sẽ là khoảnh khắc tồi tệ nhất.
“Chuyện gì đang diễn ra ở đây vậy?”
Một giọng nói nhẹ nhàng, du dương: giọng của bà ta. Mọi thứ ngừng lại.
“Các ông đang làm gì vậy? Còn đứa trẻ này là ai…”
Bà ta không kịp nói hết từ cuối cùng vì đúng lúc đó bà nhận ra Lyra. Qua đôi mắt mờ đi vì lệ, Lyra thấy bà loạng choạng rồi ghì chặt lấy một chiếc ghế băng; khuôn mặt bà ta, thật xinh đẹp và điềm tĩnh, trong thoáng chốc lại hiện lên vẻ hốc hác và khiếp hãi.
“Lyra…” Bà ta thì thào.
Con khỉ vàng phóng đi như một tia chớp từ bên cạnh chủ nhân và lôi mạnh Pantalaimon ra khỏi cái lồng lưới trong khi Lyra tự thoát ra. Pantalaimon bứt mình ra khỏi đôi tay lo lắng của con khỉ rồi lảo đảo ngã vào vòng tay Lyra.
“Không bao giờ, không bao giờ,” cô bé vùi mặt vào bộ lông của con linh thú, còn nó thì ép trái tim đang đập vào lồng ngực cô.
Hai đứa bám chặt lấy nhau như những kẻ sống sót từ một trận đắm tàu, đang run rẩy trên một bờ biển hoang vu. Lyra loáng thoáng nghe thấy Phu nhân Coulter trao đổi với đám đàn ông, nhưng cô thậm chí còn không đoán nổi giọng điệu của bà. Và rồi họ rời khỏi căn phòng đáng ghê tởm đó. Phu nhân Coulter nửa bế nửa đỡ cô đi dọc theo một hành lang, rồi tới một cánh cửa, một phòng ngủ với hương thơm phảng phất và ánh sáng dịu nhẹ.
Phu nhân Coulter dịu dàng đặt cô xuống giường. Tay Lyra ghì chặt lấy Pantalaimon đến mức cả người cô lẩy bẩy vì tác động của nó. Một bàn tay mềm mại xoa lấy đầu cô.
“Cháu yêu của ta,” giọng nói ngọt lịm đó cất lên. “Làm thế nào mà cháu lại tới được đây?”