- 17 - Đoàn phù thủy
Lyra rên rỉ và run lập cập một cách không thể kiểm soát, cứ như cô vừa được kéo lên khỏi mặt nước lạnh đến mức khiến tim gần như đóng băng. Pantalaimon chui vào trong quần áo và nằm áp sát vào lớp da trần của cô, âu yếm cô nhưng vẫn luôn để tâm đến Phu nhân Coulter đang pha một thứ nước gì đó, và nhất là đến con khỉ vàng, những ngón tay nhỏ cứng ngắc của nó đang lướt đi trên người Lyra trong khi chỉ có Pantalaimon mới nhận ra được điều đó, và chính nó cũng đang lần quanh eo cô bé để tìm cái túi làm bằng vải dầu cùng với những thứ chứa trong đó.
“Ngồi dậy nào, bé ngoan, uống cái này đi,” Phu nhân Coulter nói, cánh tay dịu dàng của bà luồn qua lưng Lyra và nâng cô dậy.
Lyra nghiến chặt răng, nhưng dịu đi gần như ngay lập tức khi Pantalaimon truyền suy nghĩ tới cô: Chúng ta chỉ an toàn khi giả bộ. Cô bé mở mắt ra và thấy rằng chúng đang đầy ậc nước, trước sự ngạc nhiên và xấu hổ của bản thân, cô khóc nức nở.
Phu nhân Coulter kêu lên đầy cảm thương rồi đặt cốc nước vào tay con khỉ trong lúc lau mắt cho Lyra bằng chiếc khăn tay ướp hương.
“Cứ khóc thỏa thích đi, cưng à,” giọng nói mềm mại cất lên, và Lyra quyết tâm sẽ dừng lại ngay khi có thể. Cô đấu tranh để ngăn dòng nước mắt, bặm chặt môi lại và nén những tiếng nức nở vẫn đang khiến lồng ngực rung lên.
Pantalaimon diễn mánh tương tự: lừa họ, lừa họ. Nó biến thành một con chuột, lẩn khỏi tay Lyra rồi rón rén tới hít ngửi cốc nước mà con khỉ đang giữ. Không có độc: chỉ là nước sắc từ cúc La Mã, không hơn. Nó bò trở lại vai Lyra và thì thầm: “Uống nó đi.”
Cô bé ngồi dậy rồi đưa hai tay đón lấy cái cốc nóng hổi, vừa húp vừa thổi cho nguội. Cô giữ cho ánh mắt nhìn xuống. Cả đời cô chưa từng phải cố gắng giả vờ đến mức thế này.
“Lyra, cưng à,” Phu nhân Coulter lẩm nhẩm trong lúc vuốt tóc cô bé. “Ta cứ nghĩ chúng ta đã mất cháu mãi mãi! Chuyện gì xảy ra vậy? Cháu bị lạc à? Có kẻ đã đưa cháu ra khỏi căn hộ ư?”
“Vâng ạ,” Lyra thì thầm.
“Là ai vậy, cháu yêu?”
“Một người đàn ông và một người đàn bà.”
“Khách tại buổi tiệc ư?”
“Cháu nghĩ vậy. Họ nói rằng bà cần một thứ gì đó ở tầng dưới. Khi cháu đi lấy nó thì họ tóm lấy cháu rồi đẩy cháu vào một chiếc xe ở đâu đó. Nhưng khi xe dừng lại, cháu đã nhanh chóng chạy ra ngoài và luồn lách thoát đi, họ không đuổi kịp được cháu. Nhưng cháu không biết mình đang ở đâu…”
Cô lại khẽ nấc lên, nhưng lần này nhẹ hơn nên cô có thể giả bộ như đó là do tác động của câu chuyện vừa kể.
“Cháu cứ đi lang thang, cố gắng tìm đường quay về nhưng lại bị Những Kẻ háu ăn tóm được… Chúng nhét cháu vào trong xe tải cùng với vài đứa trẻ khác rồi đưa tới một nơi nào đó, một tòa nhà lớn, cháu không biết đó là chỗ nào.”
Cùng với từng giây trôi qua, từng lời cô nói, Lyra cảm thấy chút sức lực đang dần hồi phục lại. Và giờ đây khi đang thực hiện một việc khó khăn, quen thuộc nhưng không hề dễ đoán, chính là nói dối, cô lại cảm thấy một chút uy quyền, cùng cái cảm giác phức tạp và kiểm soát mà chiếc Chân Kế đem đến cho cô. Cô phải cẩn thận không được nói lộ ra điều gì rõ ràng là vô lí; cô sẽ phải mập mờ ở một vài điểm và bịa ra những chi tiết hợp lí ở những điểm khác; nói tóm lại, cô phải trở thành một nghệ sĩ.
“Họ đã giữ cháu trong tòa nhà này bao lâu rồi?” Phu nhân Coulter hỏi.
Hành trình của Lyra dọc theo các con kênh và quãng thời gian ở với người du mục kéo dài hàng tuần trời: cô phải tính toán tới khoảng thời gian đó. Cô bịa ra một chuyến đi biển cùng với Những Kẻ háu ăn tới Trollesund, rồi một cuộc tẩu thoát, ngập tràn những chi tiết từ quan sát của cô về thị trấn đó; một thời gian làm hầu gái đa năng tại quán bar Einarsson’s, công việc đánh vần cho một gia đình nông dân trong nước, rồi bị lũ Samoyed bắt và đưa tới Bolvangar.
“Họ đã định - định cắt…”
“Suỵt, yên nào cưng. Ta sẽ tìm hiểu chuyện gì đang diễn ra.”
“Nhưng tại sao họ lại định làm việc đó? Cháu chưa từng làm gì sai trái cả! Tất cả trẻ con đều rất sợ hãi về những điều đang diễn ra ở đó mà chẳng ai biết rõ. Nhưng nó rất khủng khiếp. Tồi tệ hơn bất cứ thứ gì… Tại sao họ lại làm vậy, hả Phu nhân Coulter? Tại sao họ lại tàn nhẫn đến thế?”
“Ngoan nào… Cháu an toàn rồi, cháu yêu ạ. Họ sẽ không bao giờ làm vậy với cháu nữa đâu. Giờ ta đã biết rằng cháu ở đây, cháu sẽ được an toàn, cháu sẽ không bao giờ bị rơi vào nguy hiểm nữa. Không ai làm hại được cháu cả, Lyra yêu quý ạ; không ai được phép làm cháu đau…”
“Nhưng họ làm vậy với những bạn khác! Tại sao vậy?”
“À, tình yêu của ta…”
“Là Bụi phải không ạ?”
“Họ nói với cháu vậy à? Các bác sĩ đã nói vậy sao?”
“Đám trẻ con biết chuyện đó. Tất cả đều bàn tán về nó, nhưng không ai biết rõ cả! Họ suýt nữa đã làm vậy với cháu - bà phải nói cho cháu biết! Bà không có quyền giữ bí mật nữa!”
“Lyra… Lyra, Lyra. Cháu yêu, Bụi và những thứ khác là những ý niệm to lớn và khó hiểu. Đó không phải là thứ trẻ con phải lo đến. Nhưng các bác sĩ làm vậy là vì lợi ích của chính trẻ con thôi, tình yêu của ta ạ. Bụi là một thứ xấu xa, một sai lầm, một thứ tai hại và tội lỗi. Những người trưởng thành và linh thú của họ bị nhiễm Bụi nặng tới mức đã là quá muộn đối với họ. Họ không thể được cứu vãn… Nhưng một cuộc phẫu thuật nhanh cho trẻ con sẽ giúp chúng an toàn khỏi nó. Bụi sẽ không bao giờ dính vào chúng nữa. Chúng sẽ an toàn, hạnh phúc và…”
Lyra nghĩ tới Tony Makarios bé bỏng. Cô đột ngột ngả về trước và bắt đầu nôn oẹ. Phu nhân Coulter lùi lại và thả tay ra.
“Cháu ổn chứ, cưng? Vào phòng tắm đi…”
Lyra cố nuốt lại rồi dụi mắt.
“Bà không cần phải làm thế với chúng cháu đâu,” cô nói. “Bà có thể cứ mặc kệ chúng cháu. Cháu dám chắc là Ngài Asriel sẽ không để ai làm vậy nếu bác ấy biết chuyện gì đang diễn ra. Nếu bác ấy có Bụi, bà cũng có Bụi, Hiệu trưởng trường Jordan và tất cả những người trưởng thành khác đều có Bụi thì chắc là không sao đâu ạ. Khi ra được bên ngoài, cháu sẽ kể với tất cả trẻ con trên thế giới về việc này. Mà nếu việc đó tốt như vậy thì sao bà lại ngăn họ làm thế với cháu? Nếu việc đó là tốt thì đáng ra bà nên để họ thực hiện. Bà nên mừng mới đúng.”
Phu nhân Coulter lắc đầu và hé một nụ cười hiểu biết đầy buồn bã.
“Cưng à,” bà nói, “một vài việc tốt sẽ phải làm chúng ta đau đớn chút ít, và hẳn nhiên nếu cháu khó chịu thì sẽ khiến những người khác lo lắng theo… Nhưng điều đó không có nghĩa là linh thú của cháu sẽ bị cướp đi mất. Nó vẫn ở đó! Lạy Chúa, rất nhiều người trưởng thành ở đây đã được tiến thành phẫu thuật. Các y tá tỏ ra khá hạnh phúc đấy chứ?”
Lyra chớp mắt. Đột nhiên cô hiểu ra sự thờ ơ, đờ đẫn kì lạ của họ, cái cách mà những con linh thú nhỏ của họ chạy lóc cóc như đang mộng du.
Đừng nói gì cả, cô tự nhủ, và ngậm chặt miệng lại.
“Cưng ạ, không ai dám mơ tới việc thực hiện phẫu thuật lên một đứa trẻ mà không thử trước. Và trong cả nghìn năm tới cũng không có ai dám mang linh thú của một đứa trẻ đi đâu! Tất cả những gì xảy ra chỉ là một vết cắt nhỏ, và rồi mọi thứ sẽ yên bình. Mãi mãi! Cháu thấy đấy, linh thú của cháu là một người bạn, một người đồng hành tuyệt vời khi cháu còn trẻ, nhưng đến lứa tuổi mà chúng ta gọi là tuổi dậy thì, lứa tuổi mà cháu sẽ sớm đạt đến, cưng ạ, linh thú sẽ mang đến đủ thứ suy nghĩ và cảm xúc phiền toái, và chính những thứ đó lại cho phép Bụi thâm nhập. Chỉ cần một cuộc phẫu thuật nhỏ và nhanh gọn trước đó là cháu sẽ không bao giờ phải phiền muộn nữa. Linh thú của cháu sẽ ở lại với cháu, chỉ là… không còn gắn kết nữa. Giống như là… một con thú cưng tuyệt vời, nếu cháu muốn. Con thú cưng tuyệt vời nhất thế giới! Cháu không muốn thế sao?”
Ôi, lời nói dối tội lỗi, ôi, sự điêu trá vô liêm sỉ biết nhường nào! Mà kể cả Lyra có không biết đó là những lời nói dối đi nữa (về Tony Makarios và những con linh thú bị nhốt trong lồng) cô cũng sẽ ghét cay ghét đắng nó. Phần linh hồn thân yêu của cô, người bạn mến thương của cô, lại bị cắt rời đi và bị biến thành một con thú cưng nhỏ chỉ biết đi quanh quẩn? Nỗi căm phẫn trong Lyra suýt nữa thì bùng lên, Pantalaimon nằm trong vòng tay cô liền biến thành một con chồn nâu, hình dạng xấu xí và tàn ác nhất trong số các dạng biến hóa của nó, và gầm ghè.
Nhưng chúng không nói gì cả. Lyra ôm chặt lấy Pantalaimon và để cho Phu nhân Coulter vuốt tóc mình.
“Uống nốt nước cúc La Mã đi,” Phu nhân Coulter nhẹ nhàng nói. “Chúng ta sẽ nhờ người dọn giường cho cháu ở trong này. Không cần phải quay lại dùng chung kí túc xá với những cô bé khác đâu, không phải bây giờ khi ta đã có lại được cô trợ lí bé bỏng của mình. Trợ lí yêu thích của ta! Người phụ tá giỏi nhất thế giới. Cháu có biết là chúng ta đã lùng sục khắp London để tìm cháu không cưng? Chúng ta đã điều cảnh sát đi tìm kiếm khắp mọi thị trấn trong nước. Ôi, ta nhớ cháu biết chừng nào! Ta không thể lột tả được hết niềm hạnh phúc của mình khi tìm lại được cháu…”
Suốt thời gian đó, con khỉ vàng cứ đi qua đi lại không yên, lúc trước đang đậu trên bàn ngúc ngoắc đuôi, lúc sau đã bám lấy Phu nhân Coulter và khẽ rủ rỉ vào tai bà, sau đó lại đi quanh sàn với đuôi dựng đứng. Nó đang để lộ sự nôn nóng của Phu nhân Coulter, rõ ràng rồi, và rốt cuộc bà ta cũng không thể kiềm chế được nữa.
“Lyra, cháu yêu,” bà ta nói, “ta cho rằng Hiệu trưởng trường Jordan đã đưa cho cháu một thứ gì đó trước khi đi. Có phải vậy không? Ông ấy cho cháu một chiếc Chân Kế. Vấn đề là, đó không phải là của ông ấy để mà có thể cho đi. Ông ấy đã được nhờ giữ hộ. Nó thật sự quá quý giá để có thể mang đi lung tung - cháu biết không, nó là một trong số hai hay ba chiếc duy nhất trên thế giới! Ta nghĩ Hiệu trưởng đưa cho cháu với hi vọng nó sẽ rơi vào tay Ngài Asriel. Ông ấy bảo cháu không được kể với ta chuyện này, đúng chứ?”
Lyra mím chặt môi.
“Phải, ta có thể thấy được. Thôi, đừng để tâm, cưng ạ, vì cháu đâu có nói với ta, đúng không? Nên cháu không phá vỡ lời hứa nào cả. Nhưng nghe này, cháu yêu, chiếc máy thật sự cần phải được chăm sóc một cách hẳn hoi. Ta e rằng nó quý hiếm và tinh xảo đến mức chúng ta không thể để nó gặp rủi ro thêm một giây phút nào nữa.”
“Tại sao Ngài Asriel lại không nên có nó?” Lyra hỏi, không mảy may nhúc nhích.
“Vì những điều ông ta đang làm. Cháu biết đấy ông ta đã bị đi đày vì có suy nghĩ nguy hiểm và tội lỗi. Ông ta cần chiếc Chân Kế để hoàn thành kế hoạch này nhưng tin ta đi, cháu yêu, để cho ông ta có được nó là điều cuối cùng mà bất cứ ai sẽ làm. Đáng buồn là Hiệu trưởng trường Jordan đã phạm sai lầm. Nhưng giờ khi cháu đã biết chuyện, thật sự sẽ tốt hơn nếu giao nó cho ta, phải vậy không? Như thế cháu sẽ không phải vướng bận chuyện mang nó đi khắp nơi, hay lúc nào cũng phải lo trông giữ nó. Hẳn là cháu đã rất bối rối và tự hỏi cái thứ cũ rích ngớ ngẩn này thì làm được gì…”
Lyra tự hỏi làm thế nào mà cô lại từng cho rằng người phụ nữ này quyến rũ và thông minh cho được.
“Vậy nên nếu giờ cháu đang giữ nó, bé yêu ạ, cháu thật sự nên để ta trông coi nó. Nó đang ở trong cái thắt lưng quanh eo cháu, đúng không? Phải, giấu nó đi như thế là thông minh lắm…”
Đôi tay bà ta đang đặt lên váy Lyra, sau đó bà ta cởi lớp vải dầu thô cứng ra. Cả người Lyra căng lên. Con khỉ vàng đang cúi người ở phía cuối giường, người nó run lên vì hồi hộp, đôi tay đen nhỏ xíu ụp lên miệng. Phu nhân Coulter kéo cái thắt lưng ra khỏi eo Lyra rồi cởi khuy của chiếc túi đeo. Bà ta đang thở gấp. Bà lấy ra cái bọc quấn vải nhung đen rồi gỡ nó ra, tìm thấy trong đó chiếc hộp thiếc mà Iorek Byrnison đã làm.
Pantalaimon đã lại hóa thành mèo, căng người sẵn sàng xông tới. Lyra rút chân ra xa khỏi Phu nhân Coulter rồi thả chúng xuống sàn để có thể chạy đi khi thời cơ tới.
“Gì thế này?” Phu nhân Coulter hỏi, có vẻ vui thích. “Thật là một cái hộp cũ ngộ nghĩnh! Cháu cho nó vào trong này để giữ an toàn à, cháu yêu? Còn cả lớp rêu này nữa… Cháu cũng cẩn thận đấy chứ? Lại một hộp nữa, bên trong cái hộp đầu tiên! Lại còn được hàn mép! Ai làm cái này đây, cháu yêu?”
Bà ta quá hăm hở muốn mở cái hộp nên chẳng buồn đợi câu trả lời. Trong túi cầm tay bà giữ một con dao với rất nhiều phụ tùng khác nhau. Bà kéo ra một lưỡi dao rồi cắm nó xuống dưới cái nắp.
Ngay lập tức tiếng vo ve đầy giận giữ choán lấy căn phòng.
Lyra và Pantalaimon ngồi im như tượng. Phu nhân Coulter, bối rối, tò mò, kéo cái nắp lên, còn con khỉ vàng thì cúi sát vào để nhìn.
Rồi, trong một khoảnh khắc đầy sửng sốt, hình dạng đen trũi của con bọ gián điệp lao vọt ra khỏi cái hộp và đâm sầm vào mặt con khỉ.
Nó gào lên rồi nhảy bổ về phía sau; đương nhiên là điều đó cũng khiến Phu nhân Coulter bị đau. Bà ta hét lên đau đớn và sợ hãi cùng với con khỉ. Rồi con quỷ nhỏ chạy máy đồng hồ trèo lên người bà ta, lên ngực rồi cổ, tiến tới phía mặt.
Lyra không tốn thời gian do dự. Pantalaimon lao về phía cửa còn cô bé ngay lập tức chạy theo nó. Cô mở tung cửa ra rồi phóng đi nhanh chưa từng thấy.
“Chuông báo cháy!” Pantalaimon hét lên khi đang lao đi phía trước cô bé.
Lyra thấy một cái nút bấm ở góc nhà tiếp theo, cô đập vỡ lớp kính bằng nắm tay dữ dội của mình rồi chạy tiếp, hướng về phía khu kí túc xá, liên tiếp đập các chuông báo. Mọi người bắt đầu ùa ra hành lang, nhìn lên nhìn xuống tìm kiếm ngọn lửa.
Vào lúc này cô đã đến gần nhà bếp, Pantalaimon lóe lên một ý nghĩ vào đầu cô, và cô lập tức lao vào. Một lúc sau cô đã bật hết các ống dẫn gas lên rồi liệng một que diêm vào cái đèn gần nhất. Sau đó cô lôi một túi bột từ trên giá xuống rồi lẳng nó về phía mép bàn, khiến nó bục vỡ và lấp đầy không khí bằng thứ bột trắng. Vì cô có nghe nói rằng bột mì sẽ nổ tung nếu bị làm như thế gần một ngọn lửa.
Rồi cô lao ra ngoài và chạy hết sức bình sinh về phía kí túc xá của bản thân. Các hành lang giờ đã đầy chặt người: trẻ con chạy tán loạn khắp nơi, gương mặt rạng rỡ đầy phấn khích vì từ trốn thoát đã được lan truyền. Những đứa lớn tuổi nhất đang tiến về các phòng kho chứa quần áo, dẫn theo những đứa bé hơn đi cùng. Đám người lớn đang cố kiểm soát tình hình nhưng không ai trong số đó biết chuyện gì đang xảy ra. Người người hò hét, xô đẩy, khóc lóc, chen lấn khắp nơi.
Lyra và Pantalaimon lao xuyên qua tất cả như những con cá, luôn nhắm về phía kí túc xá. Ngay khi chúng vừa tới nơi, một vụ nổ bùng lên phía sau khiến cả tòa nhà rung chuyển.
Những đứa con gái khác đã chạy trốn: căn phòng trống rỗng. Lyra lôi cái tủ khóa vào góc phòng, nhảy lên đó, lôi bộ đồ lông ra khỏi trần nhà rồi lần tìm chiếc Chân Kế. Nó vẫn đang ở đó. Cô nhanh chóng choàng bộ đồ lên, kéo mũ trùm về phía trước, rồi Pantalaimon, đang đậu bên cửa trong dạng chim sẻ, gọi:
“Ra đi!”
Cô bé chạy ra. Tình cờ, một nhóm trẻ con đã tìm được quần áo ấm cũng đang lao qua hành lang về phía cửa chính, cô liền nhập hội với chúng. Người đầm đìa mồ hôi, tim đập thình thịch, cô biết rằng mình phải trốn thoát hoặc là chết.
Tắc đường. Ngọn lửa trong bếp đã lan ra nhanh chóng. Dù là do bột mì hay khí gas thì cũng có thứ gì đó đã làm sập một mảng của mái nhà. Mọi người đang trèo lên các thanh chống và xà nhà oằn cong để thoát ra ngoài không khí lạnh cóng. Không khí nồng nặc mùi gas. Rồi lại thêm một vụ nổ nữa, ẩm ĩ hơn vụ đầu tiên và gần hơn. Chấn động đánh nhào một vài người, những tiếng gào khóc vì sợ hãi và đau đớn choán ngợp không gian.
Lyra vất vả vùng dậy, cô lao mình qua đám đổ nát theo tiếng gọi của Pantalaimon: “Đường này! Đường này!” lẫn trong tiếng kêu thét và đập cánh của các con linh thú khác. Không khí mà cô đang hít vào lạnh thấu xương, cô bé hi vọng rằng những đứa trẻ khác đã tìm được quần áo mặc ngoài trời của chúng; thật tuyệt nếu thoát ra khỏi Trạm chỉ để chết vì cóng.
Giờ thì ngọn lửa đã thật sự bùng phát. Khi đã leo lên được mái nhà dưới bầu trời đêm, cô có thể nhìn thấy những lưỡi lửa quét qua mép một cái lỗ lớn bên sườn tòa nhà. Một đám đông trẻ con và người lớn đang đứng bên cửa chính, nhưng lần này người lớn tỏ ra lo lắng hơn còn trẻ con thì sợ hãi hơn, hơn rất nhiều.
“Roger! Roger!” Lyra gọi. Pantalaimon với đôi mắt cú tinh tường kêu lên báo hiệu rằng nó đã nhìn thấy thằng bé.
Một lúc sau chúng đã tìm được nhau.
“Bảo cả đám đi theo tớ!” Lyra hét vào tai nó.
“Họ không theo đâu - tất cả đều đang rất hoảng loạn…”
“Kể với họ người ta đã làm gì với những đứa trẻ bị mất tích! Họ cắt rời linh thú của chúng bằng một con dao lớn! Kể với họ thứ cậu đã nhìn thấy chiều nay - tất cả số linh thú mà chúng ta đã thả ra! Nói với họ rằng điều đó cũng sẽ xảy ra với họ trừ khi họ trốn thoát!”
Roger há hốc mồm kinh hãi nhưng rồi đã kịp trấn tĩnh lại và chạy về phía nhóm trẻ con đang lưỡng lự gần đó nhất. Lyra cũng làm theo, và khi thông điệp được truyền đi, một vài đứa hét toáng lên rồi ghì chặt lấy linh thú của mình trong sự hãi.
“Đi với tớ!” Lyra hét lên. “Có một đoàn giải cứu đang đến! Chúng ta phải thoát ra khỏi khu đất này! Nào, chạy đi!”
Lũ trẻ nghe thấy lời kêu gọi của cô bé liền chạy theo, túa ra khắp khu đất rào về phía đại lộ ánh sáng, bốt của chúng kêu bồm bộp và loẹt quẹt trong lớp tuyết đóng cứng.
Phía sau, đám người lớn đang hò hét, tiếng ầm ầm và loảng xoảng lại vang lên khi một phần khác của tòa nhà sụp xuống. Tàn lửa phụt lên không trung, còn những ngọn lửa thì cuồn cuộn bùng ra cùng với âm thanh như tiếng vải bị xé toạc; nhưng cắt ngang qua mớ hỗn tạp này là một âm thanh khác, gần và dữ dội khủng khiếp. Lyra chưa từng nghe thấy nó bao giờ, nhưng cô đã đoán được ngay: đó là tiếng tru từ đám linh thú sói của các lính canh người Tartar. Cô bé cảm thấy toàn thân bủn rủn, nhiều đứa trẻ khác hoảng sợ rồi lập bập dừng lại, vì tên lính gác Tartar đầu tiên đang lao đến bằng những bước nhảy thoăn thoắt không mệt mỏi, súng trường giương sẵn, cùng với khối xám linh thú dũng mãnh đang phóng theo bên cạnh.
Rồi một tên khác, và một tên khác nữa đến. Tất cả đều được trang bị áo giáp lưới bên trong. Chúng không có mắt - hay ít nhất là chẳng ai có thể thấy bất cứ đôi mắt nào phía sau khe hở ngập tuyết trên mũ giáp của chúng cả. Những con mắt duy nhất có thể nhìn thấy được là đầu đen tròn của nòng súng và đôi mắt vàng rực của lũ linh thú sói bên trên những cái hàm nhỏ dãi tong tỏng.
Lyra nao núng. Cô đã không lường trước được sự kinh hoàng của những con sói này. Và giờ khi đã biết được những kẻ ở Bolvangar có thể vi phạm điều tối kị một cách thản nhiên đến thế nào, cô thấy chùn bước trước suy nghĩ về những bộ răng đầy nước dãi kia…
Đám người Tartar chạy tới xếp thành một hàng chắn ngang lối vào đại lộ ánh sáng, linh thú của chúng đứng bên cạnh cũng kỉ luật và thiện chiến không kém gì chủ. Chỉ một phút sau đã lại có thêm một hàng thứ hai, vì càng lúc càng có nhiều người tới, cả từ phía sau chúng nữa. Lyra tuyệt vọng nghĩ: trẻ con không thể đấu lại với binh lính được. Nó không giống như những trận chiến ở Claybeds tại Oxford, khi chúng ném những tảng bùn vào lũ trẻ của các nhà nung gạch.
Nhưng có khi lại giống! Cô bé vẫn còn nhớ việc đã ném một vốc đầy đất sét vào bản mặt to bè của một thằng bé nung gạch đang lao về phía cô. Nó vừa dừng lại để gạt bùn ra khỏi mắt thì liền bị đám trẻ thị trấn nhảy bổ lên người.
Cô bé vẫn đang đứng trong bùn. Cô đang đứng trong tuyết.
Cũng giống như đã làm chiều hôm đó, nhưng giờ với quyết tâm ngùn ngụt, cô bé vốc lấy một nắm đầy rồi ném vào tên lính gần nhất.
“Ném vào mắt chúng!” Cô bé hét lên rồi ném một cục khác.
Những đứa trẻ khác bắt đầu tham gia, rồi linh thú của một ai đó có ý tưởng hóa thành chim én bay cạnh quả cầu tuyết và huých nó thẳng vào khe mắt của mục tiêu. Sau đó cả hội đã nhập cuộc, và chỉ trong chốc lát đám Tartar đã loạng choạng, vừa đi vừa khạc nhổ, chửi bới, cố gắng gạt lớp tuyết đóng chặt ra khỏi cái khe hẹp phía trước mắt.
“Đi thôi!” Lyra hét lên rồi lao qua cổng vào đại lộ ánh sáng.
Đám trẻ con ùa theo sau cô, không sót một đứa nào. Chúng vừa né những bộ hàm đang tợp của bầy sói, vừa chạy hết tốc lực xuống đại lộ về phía màn đêm rộng lớn đang mời gọi phía xa.
Tiếng hét chói tai vọng lên từ phía sau khi một sĩ quan hét lên ra lệnh, lập tức một loạt chốt an toàn được mở, tiếp sau đó là tiếng hét khác rồi tất cả chìm vào sự im lặng đầy căng thẳng, chỉ còn tiếng chạy huỳnh huỵch và thở dốc của lũ trẻ đang bỏ trốn.
Chúng đang nhắm bắn. Sẽ không có chuyện bắn trượt.
Nhưng trước khi chúng kịp nổ súng thì một tiếng kêu nghẹt cứng phát ra từ một trong số những tên Tartar, rồi đến tiếng hét kinh ngạc của một tên khác.
Lyra ngừng chạy và quay lại, cô thấy một người đàn ông đang nằm trên tuyết, với một mũi tên gắn lông xám cắm ở lưng. Hắn đang quằn quại, co giật và ho ra máu, những tên lính khác đang nhìn trái phải để tìm kẻ đã bắn nhưng chẳng thể thấy cung thủ đó đâu.
Và rồi một mũi tên từ trên trời lao thẳng xuống, đâm vào sau gáy một tên khác. Hắn lập tức đổ gục xuống. Viên sĩ quan hét lên một tiếng, khiến tất cả ngước lên nhìn bầu trời tối đen.
“Phù thủy!” Pantalaimon thốt lên.
Quả đúng là họ: những bóng hình màu đen tả tơi nhưng đầy thanh nhã đang lướt qua ở cao tít phía trên, đi kèm là tiếng không khí rít lên qua đám lá kim trên những cành thông mây mà họ đang cưỡi. Trong lúc Lyra đứng nhìn, một phù thủy đã nhào xuống thấp và nhả tên: một tên nữa gục xuống.
Lập tức toàn bộ quân Tartar đều chĩa súng lên trời và khai hỏa vào màn đêm. Chúng bắn vào hư vô, vào những cái bóng, vào mây còn trận mưa tên thì ngày càng trút xuống nhiều hơn.
Nhưng viên sĩ quan phụ trách khi nhìn thấy lũ trẻ con đã trốn gần hết, liền ra lệnh cho một toán quân đuổi theo. Vài đứa trẻ hét lên. Rồi thêm vài đứa nữa cũng hét, chúng không còn tiến về phía trước nữa mà đang quay lại, lúng túng và hoảng sợ trước bóng dáng khổng lồ đang lao tới từ trong bóng đêm đằng sau đại lộ ánh sáng.
“Iorek Byrnison!” Lyra hét lên, lồng ngực cô gần như vỡ òa vì mừng rỡ.
Con gấu mặc giáp đang lao đến mà dường như chẳng buồn chú ý đến chút sức nặng nào trừ cái cho nó động lượng để xông lên. Nó nhảy vọt qua Lyra và đâm sầm vào đám Tartar, hất các binh lính, linh thú, súng ống ra khắp mọi hướng. Rồi nó dừng lại, xoay người với một mãnh lực dẻo dai và đập hai cú trời giáng, mỗi bên một cú, vào đám lính canh đang đứng gần đó nhất.
Một con linh thú sói nhảy bổ vào nó: con gấu chém nó ngay trên không trung, khiến lửa bùng lên trên cơ thể khi con sói ngã xuống tuyết. Con sói tru lên trong đau đớn trước khi tan biến. Chủ của nó chết ngay lập tức.
Viên sĩ quan Tartar dù phải đối mặt với cuộc tấn công kép này cũng không hề nao núng. Sau một tràng mệnh lệnh dài và dữ dội, đoàn quân tách ra làm đôi: một bên để giữ chân đám phù thủy, bên đông hơn để trấn áp con gấu. Đạo quân của hắn ta quả cảm đến đáng khâm phục. Từng nhóm bốn người một tì một đầu gối xuống đất rồi nổ súng như thể đang luyện tập bắn xa, không nhúc nhích lấy một li khi thân hình đồ sộ của Iorek lao tới. Chỉ một lúc sau tất cả đều đã chết.
Iorek lại tấn công, vặn người sang một bên, chém, gầm gừ, đè nghiến, trong lúc đạn bay tứ tung xung quanh nó như ong như ruồi, chẳng gây chút thương tổn nào. Lyra thúc lũ trẻ chạy tiếp vào bóng tối phía bên kia vùng sáng. Chúng phải trốn thoát, vì dù quân Tartar có nguy hiểm thì cũng còn lâu mới bằng đám người lớn ở Bolvangar.
Vậy là cô kêu gọi, ra hiệu và thúc đẩy để ép bọn trẻ đi tiếp. Khi ánh sáng phía sau chúng hắt những cái bóng dài lên nền tuyết, Lyra cảm thấy trái tim mình đang hướng về bóng tối sâu thẳm của buổi đêm Cực Bắc và cái lạnh toàn vẹn, lao về phía trước để yêu thương nó cũng giống như Pantalaimon, lúc này có dạng một con thỏ rừng đang vui sướng nhảy về phía trước.
“Chúng ta đang đi đâu đây?” Có ai đó hỏi.
“Ở đây chẳng có gì ngoài tuyết cả!”
“Có một đoàn giải cứu đang tới,” Lyra nói với chúng. “Có khoảng năm mươi người du mục hoặc hơn. Tớ cá là có cả vài người họ hàng của các cậu nữa. Tất cả những gia đình du mục bị mất con đều cử người đến.”
“Tớ không phải dân du mục,” một thằng bé lên tiếng.
“Chẳng sao hết. Họ vẫn sẽ đưa cậu đi thôi.”
“Đi đâu?” Một đứa nào đó cáu kỉnh hỏi.
“Về nhà,” Lyra đáp. “Đó là lí do tớ đến đây để cứu các cậu, và tớ đã đưa những người du mục đến đây để mang các cậu về nhà. Chúng ta chỉ cần tiến lên chút xíu nữa là sẽ tìm được họ. Con gấu đi cùng với họ nên họ không thể ở quá xa được.”
“Các cậu có thấy con gấu đó không!” Một thằng bé nói. “Khi nó chém đứt con linh thú đó - người đàn ông chết như thể bị ai đó moi tim ra vậy, đúng như thế đó!”
“Tớ không hề biết là linh thú cũng có thể bị giết,” một đứa khác nói.
Cả đám ríu rít nói chuyện; sự phấn khích và nhẹ nhõm đã khiến chúng thoải mái nói năng hơn. Miễn là chúng tiếp tục tiến lên thì có nói chuyện cũng không thành vấn đề.
“Có thật không,” một đứa con gái lên tiếng, “việc họ làm ở đằng kia ấy?”
“Thật,” Lyra đáp. “Tớ chưa từng nghĩ mình sẽ thấy bất cứ ai không có linh thú đi kèm. Nhưng trên đường đến đây, chúng tớ đã tìm thấy một cậu bé chỉ có một mình, không có linh thú nào bên cạnh cả. Cậu ấy cứ liên tục hỏi về nó, nó đang ở đâu, liệu nó có tìm được cậu ấy không. Cậu ấy tên là Tony Makarios.”
“Tớ biết cậu ấy!” Một đứa lên tiếng, và những đứa khác hùa vào: “Phải, khoảng một tuần trước người ta đã đưa cậu ấy đi…”
“Ừ, họ đã cắt rời linh thú của cậu ấy,” Lyra nói, ý thức được điều đó sẽ ảnh hưởng tới chúng thế nào. “Cậu ấy chết sau khi được chúng tớ tìm thấy một lúc. Còn toàn bộ số linh thú bị cắt rời thì bị nhốt trong những cái lồng tại một tòa nhà to bè ở đằng đó.”
“Là thật đấy,” Roger nói. “Lyra đã thả chúng ra trong lúc huấn luyện phòng cháy.”
“Phải, tớ đã thấy chúng!” Billy Costa nói. “Ban đầu tớ không biết chúng là cái gì, nhưng tớ đã thấy chúng bay đi cùng với con ngỗng đó.”
“Nhưng tại sao họ lại làm thế?” Một cậu nhóc gặng hỏi. “Sao họ lại cắt rời linh thú của người ta đi? Như vậy là tra tấn! Sao họ lại làm thế?”
“Bụi,” một đứa nào đó gợi ý vẻ hồ nghi.
Nhưng thằng bé kia lại phá lên cười khinh miệt. “Bụi!” Nó nhại lại. “Làm gì có thứ gì như thế chứ! Chắc chắn là người ta bịa chuyện! Tớ không tin.”
“Kìa,” có ai đó nói, “xem chuyện gì đang xảy ra với cái zeppelin kìa!”
Tất cả ngoái lại nhìn. Phía bên kia ánh sáng chói loà, nơi cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn, chiếc khí cầu vĩ đại không còn tự do lơ lửng tại cột neo nữa; đầu được thả tự do đang rũ xuống, còn phía sau đang dâng lên một quả cầu của…
“Khí cầu của Lee Scoresby!” Lyra hét lên, sung sướng vỗ đôi tay đang đi găng dày của mình.
Những đứa trẻ khác bị phân tâm. Lyra lùa chúng đi tiếp trong lúc thắc mắc không hiểu làm thế nào mà ông phi công có thể lái khí cầu đi xa đến vậy. Việc ông ấy đang làm thì quá rõ rồi, và đó quả là một ý tưởng khôn ngoan khi lấy khí gas của đối phương để làm phồng khí cầu của mình, khi trốn thoát đồng thời cũng tiệt đường truy đuổi của đối phương!
“Nào, tiếp tục tiến lên đi, nếu không các cậu sẽ chết cóng đó,” cô bé nói, vì vài đứa trẻ đang run lẩy bẩy và rên rỉ vì lạnh, linh thú của chúng cũng khẽ rít lên bằng thứ giọng cao chót vót.
Thấy vậy, Pantalaimon liền nổi cáu. Trong dạng chồn gulo, nó quay ra quát con linh thú sóc của một đứa con gái, con vật đang nằm khóc thút thít trên vai chủ.
“Vào trong áo cậu ấy đi! Biến hình to vào và sưởi ấm cho cậu ấy nữa!” Nó nạt. Con linh thú của đứa con gái sợ quá liền lẩn ngay vào trong chiếc áo choàng lụa than của chủ nhân.
Vấn đề là cái áo lụa than đó không ấm bằng một cái áo choàng lông tử tế, dù cho nó có được nhồi đầy những sợi lụa than rỗng đi chăng nữa. Một vài đứa trẻ trông như những cục bông di động, quần áo chúng quá kềnh càng nhưng lại được sản xuất trong những nhà máy và phòng thí nghiệm cách vùng lạnh rất xa, nên không thật sự có thể chống chọi được. Bộ áo lông của Lyra trông tả tơi và bốc mùi, nhưng nó giữ ấm rất tốt.
“Nếu chúng ta không nhanh chóng tìm được đoàn du mục thì họ sẽ không chịu nổi mất,” cô bé thì thầm với Pantalaimon.
“Vậy thì thúc họ đi đi,” nó thì thầm lại. “Nếu nằm xuống là xong đời luôn đó. Cậu biết Farder Coram nói gì…”
Farder Coram đã kể cho cô rất nhiều câu chuyện về những cuộc hành trình của chính ông trên Phương Bắc, cả Phu nhân Coulter cũng vậy - cứ coi như những điều bà ta nói là sự thật. Nhưng họ đều khá chắc chắn về một điểm, đó là luôn phải tiến lên.
“Chúng ta phải đi bao xa?” Một thằng bé hỏi.
“Cậu ta chỉ bắt chúng ra đi ra đây để giết chúng ta thôi,” một cô bé nói.
“Thà ra ngoài này còn hơn ở đằng đó,” có ai đó nói.
“Tớ thì không! Ở Trạm ấm hơn. Lại còn có đồ ăn, đồ uống nóng và mọi thứ.”
“Nhưng nó cháy rụi rồi còn đâu!”
“Chúng ta sẽ làm gì ở ngoài này đây? Kiểu gì cũng chết đói cho coi…”
Tâm trí Lyra đầy ắp những nghi vấn u ám đang lượn qua lượn lại như những phù thủy thoăn thoắt và không thể chạm tới. Nhưng ở đâu đó ngay bên ngoài tầm với của cô là sự huy hoàng và rộn rã mà cô không thể hiểu nổi.
Nhưng điều đó khiến một nguồn sức mạnh bùng lên trong cô. Cô bé kéo một đứa con gái ra khỏi một đám tuyết lớn, đẩy một thằng bé đang đi lờ đờ, và kêu gọi cả bọn: “Tiếp tục đi nào! Theo dấu chân của con gấu! Ông ấy đi cùng với đoàn du mục nên dấu vết sẽ dẫn chúng ta tới chỗ họ! Cứ tiếp tục đi đi!”
Những bông tuyết lớn bắt đầu rơi xuống. Chẳng mấy chốc nữa toàn bộ dấu vết mà Iorek Byrnison để lại sẽ bị phủ lấp. Giờ đây khi đã ra khỏi phạm vi chiếu sáng của Bolvangar và ánh lửa cháy chỉ còn là một đốm sáng mờ, nguồn sáng duy nhất tới từ mặt đất phủ tuyết. Những đám mây dày cộp che mờ bầu trời nên chẳng có trăng hay Bắc Cực Quang gì cả; nhưng khi nhìn thật kĩ, đám trẻ có thể nhận ra dấu chân sâu hoắm mà Iorek Byrnison đã cày trên nền tuyết. Lyra khích lệ, mắng mỏ, đánh đập, dìu, chửi bới, đẩy, lôi, nhẹ nhàng nhấc lên, bất cứ chỗ nào cần thiết, còn Pantalaimon (dựa vào tình trạng linh thú của mỗi đứa trẻ) nói cho cô biết cần phải làm gì vào từng trường hợp.
Mình sẽ đưa mọi người đến đó, cô luôn tự nhủ. Mình tới đây để đưa các bạn ấy đi, và mình chắc chắn sẽ làm được.
Roger bắt chước theo cô bé, còn Billy Costa với đôi mắt tinh tường hơn hầu hết mọi người thì đang dẫn đường. Không lâu sau, tuyết bắt đầu rơi dày đến mức chúng phải bám vào nhau để không bị lạc. Lyra nghĩ, có lẽ nếu tất cả cùng nằm sát vào nhau và giữ ấm như thế này… Đào những cái hố trên tuyết…
Cô bé nghe thấy có tiếng động. Có tiếng máy gầm ở đâu đó, không phải tiếng thùm thụp nặng nề của khí cầu zeppelin mà là một thứ gì đó cao hơn giống như tiếng vo vo của ong bắp cày. Âm thanh đó cứ xuất hiện rồi lại biến mất.
Có cả tiếng tru… Là chó? Chó kéo xe? Nó quá xa nên rất khó đoán chắc, lại bị ngăn trở bởi hàng triệu bông tuyết và bị những cơn gió mạnh vù vù thổi bạt đi khắp mọi hướng. Đó có thể là đoàn chó kéo xe của dân du mục, cũng có thể là những linh hồn hoang dại của vùng lãnh nguyên, hay thậm chí lại là đám linh thú được phóng thích đang gào khóc gọi những đứa trẻ bị lạc mất của chúng.
Cô bé đang nhìn thấy gì đó… Trong tuyết thì làm gì có ánh sáng gì đúng không? Chúng có khi là ma chăng… Trừ khi chúng đang đi lòng vòng và đang quay ngược trở lại Bolvangar.
Nhưng đó là những ánh đèn lồng vàng nhỏ xíu, không phải là tia sáng trắng của đèn mạch. Chúng đang di chuyển, tiếng tru cũng đang tiến tới gần. Trước khi biết chắc được rằng mình có đang ngủ mê hay không, Lyra đã lạc vào giữa những hình bóng thân thuộc, những người đàn ông choàng áo lông đang nhấc bổng cô lên: cánh tay khỏe khoắn của John Faa đã nhấc cô lên khỏi mặt đất, còn Farder Coram đang phá lên cười sảng khoái; ở phía xa nhất trong cơn bão tuyết mà cô có thể nhìn thấy, những người du mục đang nâng trẻ con lên những chiếc xe kéo, đắp áo choàng lông cho chúng, cho chúng ăn thịt hải cẩu. Tony Costa cũng ở đó, anh ôm chầm lấy Billy, khẽ đấm nó để rồi lại ôm lấy và lắc người nó trong vui sướng. Còn Roger…
“Roger sẽ đi cùng chúng ta,” cô bé nói với Farder Coram. “Ngay từ đầu cháu đã xác định sẽ đón cậu ấy đi cùng rồi. Cuối cùng chúng ta cũng sẽ quay về Jordan mà. Âm thanh gì vậy…”
Lại là tiếng gầm đó, cái động cơ đó, cứ như một con bọ gián điệp điên cuồng to gấp mười nghìn lần vậy.
Đột nhiên một cú đòn giáng xuống khiến cô bé nằm sõng soài, Pantalaimon chẳng thể bảo vệ được cô vì con khỉ vàng…
Phu nhân Coulter…
Con khỉ vàng đang vật lộn, cắn xé, cào cấu Pantalaimon. Nó đang chuyển qua nhiều hình dạng đến mức khó có thể nhìn thấy nổi, và đang đấu lại con khỉ: đốt, quất, xé. Trong lúc đó Phu nhân Coulter, khuôn mặt ẩn sau chiếc áo lông ánh lên một cái nhìn băng giá và quyết liệt, đang lôi Lyra về phía sau một chiếc xe kéo gắn động cơ. Cô bé cũng phải vật lộn khổ cực không kém gì linh thú của mình. Tuyết rơi dày đến mức dường như chúng đang bị cô lập trong một cơn bão tuyết thu nhỏ của chính mình, ánh đèn mạch ở đầu xe kéo chỉ đủ chiếu rọi những bông tuyết dày đang cuộn xoáy phía trước đó vài tấc.
“Cứu!” Lyra hét lên với những người du mục ở ngay gần đó trong màn tuyết mù mịt đến mức chẳng nhìn thấy được gì. “Cứu cháu với! Farder Coram! Ngài Faa! Ôi chúa ơi, cứu!”
Phu nhân Coulter rít lên ra lệnh bằng ngôn ngữ của dân Tartar miền Bắc. Màn tuyết xoáy mở ra và chúng ở đó, cả một đội quân được vũ trang súng trường, với đám linh thú sói đang gầm gừ bên cạnh. Tên thủ lĩnh thấy Phu nhân Coulter đang đánh vật liền dùng một tay nhấc Lyra lên như thể cô chỉ là một con búp bê rồi ném cô vào trong xe kéo, nơi cô nằm choáng váng và bàng hoàng.
Một tiếng súng nổ, nối tiếp bằng một tiếng nữa, khi đoàn du mục hiểu được chuyện gì đang diễn ra. Nhưng nổ súng vào mục tiêu không thể nhìn rõ là rất nguy hiểm khi họ cũng không thể thấy người phe mình. Đám Tartar, giờ đang co cụm quanh chiếc xe kéo, có thể bắn tùy ý vào màn tuyết, nhưng những người du mục thì không dám bắn trả vì sợ trúng Lyra.
Chao ôi, cô cảm thấy thật cay đắng! Thật mệt mỏi!
Vẫn đang bàng hoàng, đầu đau nhức, cô kéo người dậy và thấy Pantalaimon vẫn đang tuyệt vọng chiến đấu với con khỉ, bộ hàm chồn gulo nghiến chặt lấy cánh tay vàng óng, nó không còn biến hình nữa mà quyết tâm bám chặt lấy. Còn ai kia?
Chẳng phải Roger sao?
Phải, là Roger, nó đang đấm đá Phu nhân Coulter túi bụi, lao đầu vào chọi với đầu bà ta, để rồi bị hạ gục bởi một tên Tartar, hắn đập thằng bé như thể người ta gạt một con ruồi đi vậy. Giờ đây mọi thứ đã hóa thành một ảo cảnh: trắng, đen, một mảng xanh lá bay vọt qua tầm nhìn của cô, những cái bóng rách rưới, ánh sáng vụt qua…
Một cơn lốc khổng lồ vén những tấm màn tuyết sang một bên, và từ khoảng trống ở giữa vọt ra Iorek Byrnison, cùng với tiếng loảng xoảng và cót két của sắt cọ vào nhau. Một lúc sau bộ hàm vĩ đại đó đã cắn trái cắn phải, một chân xé rách bộ ngực mặc giáp lưới, bộ răng trắng, phiến sắt đen, bộ lông ướt đỏ thẫm…
Rồi một thứ gì đó đầy uy lực đang kéo cô lên, lên mãi, cô liền tóm chặt lấy Roger, giằng nó ra khỏi tay Phu nhân Coulter rồi bám thật chắc, linh thú của cả hai biến thành chim thảng thốt kêu lên kinh ngạc khi một vật thể bay lớn hơn nhiều lượn vòng quanh chúng. Rồi Lyra nhìn thấy trong không trung bên cạnh mình một phù thủy, một trong số những cái bóng đen tả tơi thanh nhã trên cao tít, nhưng đủ gần để chạm vào. Trong đôi bàn tay trần của cô là một cây cung. Cô dùng hai cánh tay trần trắng nhợt của mình (trong không khí buốt giá này!) để kéo dây cung rồi nhả một mũi tên vào khe mắt mũ giáp của tên Tartar đang nhìn chòng chọc cách đó chỉ tầm một mét…
Mũi tên cắm vào rồi xọc ra một nửa ở phía sau, con linh thú sói của gã đàn ông tan biến giữa lúc đang nhảy, trước cả khi nó kịp chạm xuống mặt đất.
Vút! Lyra và Roger bị tóm và kéo lên giữa không trung, chúng thấy bản thân cố bấu những ngón tay đang yếu dần vào một cành thông mây, nơi cô phù thủy trẻ đang căng người ngồi với vẻ duyên dáng và cân bằng. Rồi cô chúi xuống, đảo người sang trái, có thứ gì đó rất lớn đang lờ mờ hiện ra, và rồi mặt đất xuất hiện.
Họ bổ nhào xuống nền tuyết bên cạnh chiếc giỏ khí cầu của Lee Scoresby.
“Nhảy vào trong đi,” người đàn ông Texas gọi, “và bằng mọi cách phải đem cả cậu bạn kia vào theo đó. Cháu đã thấy con gấu chưa?”
Lyra thấy ba phù thủy đang giữ một sợi dây buộc xung quanh một tảng đá, neo chặt cái túi gas khổng lồ đang lơ lửng xuống mặt đất.
“Vào đi!” Cô hét lên với Roger rồi trèo qua mép giỏ bọc da và rơi vào một đống tuyết chất bên trong. Một thoáng sau Roger ngã lên người cô, và rồi một tiếng ồn khủng khiếp ở giữa một tiếng gầm và một tiếng rống khiến mặt đất rung chuyển.
“Nhanh nào, Iorek! Lên đây đi, anh bạn già!” Lee Scoresby hét lên. Từ bên hông một con gấu lao vào, khiến cái giỏ bằng liễu gai và gỗ bị oằn cong, kêu lên răng rắc rợn người.
Rồi trong một thoáng, một cơn lốc chứa không khí nhẹ hơn vén lớp sương và tuyết sang một bên. Qua khoảng trống đột ngột Lyra nhìn thấy mọi thứ đang diễn ra quanh họ. Cô thấy một nhóm đấu sĩ du mục dưới trướng John Faa đang càn quét đám quân hậu tập người Tartar và đẩy chúng ngược trở lại đống tàn tích đang bốc cháy của Bolvangar; cô thấy những người du mục khác đang giúp đỡ từng đứa trẻ lên xe kéo một cách an toàn, đắp cho chúng những chiếc áo lông ấm áp; cô thấy Farder Coram lo lắng nhìn quanh quất, người tựa vào chiếc gậy chống, con linh thú sắc thu của ông nhảy qua màn tuyết và nhìn ngó khắp nơi.
“Farder Coram!” Lyra hét gọi. “Ở đằng này!”
Ông già nghe thấy liền quay lại, sửng sốt nhìn chiếc khí cầu kéo căng sợi dây neo trong lúc các phù thủy đang phải ghìm nó xuống, nhìn Lyra đang vẫy tay lia lịa từ trong giỏ.
“Lyra!” Ông hét lên. “Cháu an toàn chứ, cô bé? An toàn chứ?”
“Cháu vẫn an toàn như mọi khi!” Cô bé hét lên đáp lại. “Tạm biệt, Farder Coram! Tạm biệt ông! Ông hãy đưa các bạn ấy về nhà nhé!”
“Chúng ta sẽ làm vậy, chắc chắn đấy! Bảo trọng nhé, cháu gái của ta - bảo trọng - bảo trọng, cháu yêu…”
Cùng lúc đó ông phi công hạ cánh tay ra dấu và các phù thủy thả sợi dây ra.
Chiếc khí cầu lập tức bay vọt lên vùng không khí dày đặc tuyết với một tốc độ mà Lyra khó có thể tin nổi. Chẳng mấy chốc mặt đất đã biến mất trong sương mù, còn họ thì cứ lên mãi, ngày càng nhanh hơn, đến mức cô bé nghĩ rằng tên lửa cũng chẳng thể rời mặt đất nhanh hơn thế. Cô nằm ôm lấy Roger trên sàn giỏ, bị ép xuống bởi gia tốc.
Lee Scoresby đang hoan hô, cười lớn và thốt ra những tiếng hét sung sướng đầy hoang dã của dân Texas; Iorek Byrnison thì điềm tĩnh cởi bỏ áo giáp, khéo léo ngoắc một cái móng vào tất cả các mối nối, xoay một cái để gỡ chúng ra rồi chồng từng miếng riêng biệt lên thành một đống. Đâu đó bên ngoài kia, tiếng gió quất vun vút qua những cành thông mây và phục trang phù thủy nói lên rằng các phù thủy đang đi cùng họ lên những tầng khí quyển phía cao hơn.
Dần dần Lyra đã lấy lại được hơi thở, thăng bằng và nhịp tim. Cô ngồi dậy nhìn ra xung quanh.
Cái giỏ lớn hơn là cô nghĩ. Xếp hàng quanh các mép giỏ là những giá chứa thiết bị khoa học, có cả các chồng áo lông, không khí đóng chai, và đủ thứ vật dụng khác hoặc là quá nhỏ hoặc quá khó hiểu để có thể đoán ra trong lớp sương mù dày đặc mà họ đang đi xuyên qua.
“Đây là mây ạ?” Cô hỏi.
“Phải. Quấn thêm áo lông cho bạn cháu đi, trước khi cậu ta biến thành một khối băng. Ở đây lạnh nhưng trên kia sẽ còn lạnh hơn đó.”
“Làm thế nào ông tìm được bọn cháu vậy?”
“Nhờ các phù thủy. Có một cô phù thủy muốn nói chuyện với cháu. Khi ra khỏi đám mây chúng ta sẽ xác định được phương hướng, sau đó ta có thể ngồi hàn huyên được.”
“Iorek,” Lyra nói, “cảm ơn ông đã đến.”
Con gấu gầm gừ rồi ngồi xuống liếm máu khỏi bộ lông của mình. Sức nặng của nó làm cho cái giỏ bị nghiêng sang một phía, nhưng thế cũng chẳng sao. Roger tỏ ra cảnh giác nhưng Iorek Byrnison chẳng bận tâm tới nó nhiều hơn tới một bông tuyết. Lyra hài lòng với việc bám vào thành giỏ, chỉ dưới cằm một chút khi cô đứng, và tròn mắt nhòm vào đám mây đang cuộn xoáy.
Chỉ vài giây sau chiếc khí cầu đã hoàn toàn thoát khỏi đám mây và tiếp tục vút bay lên thiên đường.
Thật là một cảnh tượng ngoạn mục!
Ngay phía trên đầu họ, chiếc khí cầu phồng ra thành một đường cong vĩ đại. Phía trên và phía trước mặt, Cực Quang đang tỏa sáng rực rỡ, lộng lẫy và huy hoàng chưa từng thấy. Ánh sáng trải rộng khắp nơi, hoặc gần như vậy, và họ gần như trở thành một phần của nó. Các vệt sáng khổng lồ rung rinh và tẽ ra như những đôi cánh thiên thần đang vỗ; những tấm màn phủ hào quang huy hoàng đổ nhào xuống các vách đá vô hình để rồi trải trên những hồ nước xoáy hay lơ lửng như những thác nước rộng lớn.
Lyra kinh ngạc ngắm nhìn cảnh tượng đó, rồi khi hướng ánh mắt xuống dưới, cô thấy một quang cảnh thậm chí còn phi thường hơn.
Ở phía xa tít tầm mắt, tới tận chân trời theo đủ mọi hướng, một đại dương cuộn sóng trắng xóa trải dài tới vô tận. Đây đó là những đỉnh núi phủ tuyết mịn và những khe vực bốc hơi nghi ngút mọc lên hay mở rộng, nhưng nhìn chung trông nó giống như một khối băng đặc.
Đang bay lên qua khung cảnh đó theo từng nhóm có một, hai hay nhiều người hơn là những cái bóng nhỏ màu đen, những hình dáng tả tơi nhưng lại rất thanh tú, của các phù thủy cưỡi những cành thông mây.
Họ lao đi vun vút không chút khó nhọc, lên cao về phía chiếc khí cầu, nghiêng người về bên này hay bên kia để đổi hướng. Một trong số họ, chính là cung thủ đã cứu Lyra khỏi tay Phu nhân Coulter, bay ngay bên cạnh chiếc giỏ, và đó là lần đầu tiên Lyra nhìn rõ cô.
Đó là một phụ nữ trẻ, trẻ hơn Phu nhân Coulter; cô ta thật đẹp với đôi mắt màu lục nhạt. Cũng giống như tất cả các phù thủy cô khoác lên mình những dải lụa đen, nhưng không choàng áo lông, không có mũ trùm hay găng tay gì cả. Có vẻ như cô không hề cảm thấy lạnh. Quanh trán cô là một vòng kết đơn giản đính những bông hoa đỏ nhỏ xíu. Cô ngồi trên cành thông mây như thể đang ngồi trên ngựa, và trong ánh mắt kinh ngạc của Lyra, cô như đang cưỡi nó đi trong một khoảng sân vậy.
“Lyra?”
“Vâng! Cô có phải là Serafina Pekkala không?”
“Là ta đây.”
Lyra có thể thấy lí do vì sao Farder Coram yêu cô ấy, và vì sao điều đó lại khiến trái tim ông tan vỡ, mặc dù chỉ trước đó ít lâu cô không hề biết những chuyện này. Ông ấy đang già đi; ông ấy là một ông lão với trái tim tan vỡ; còn cô phù thủy sẽ vẫn trẻ sau nhiều thế hệ nữa.
“Cháu có chiếc máy đọc biểu tượng chưa?” Cô phù thủy hỏi bằng một giọng hệt như tiếng ca hoang dã mãnh liệt của Cực Quang, nó ngọt ngào đến mức khiến Lyra gần như không nghe ra ý nghĩa của câu hỏi.
“Vâng. Cháu giữ nó trong túi, nó vẫn an toàn.”
Những tiếng đập cánh dữ dội báo hiệu một kẻ mới tới, nó đang bay lượn bên cạnh cô: con linh thú ngỗng màu xám. Nó nói ngắn gọn rồi đảo người đi, lượn thành một vòng tròn rộng quanh chiếc khí cầu trong lúc tiếp tục bay lên cao.
“Những người du mục đã phá tan Bolvangar,” Serafina Pekkala nói. “Họ đã giết hai mươi hai tên lính gác và chín nhân viên, họ cũng phóng hỏa tất cả những phần vẫn còn đứng vững của các tòa nhà. Nó sẽ bị phá huỷ hoàn toàn.”
“Thế còn Phu nhân Coulter?”
“Chẳng thấy bà ta đâu cả.”
Cô phù thủy hét lên một tiếng thật lớn, các phù thủy khác liền lượn vòng và bay về phía chiếc khí cầu.
“Ông Scoresby,” cô nói. “Ông đưa tôi dây thừng được chứ?”
“Tôi rất biết ơn, thưa quý cô. Chúng ta vẫn đang bay lên. Tôi đoán chúng ta vẫn sẽ lên cao trong một lúc nữa. Cần bao nhiêu người các cô để kéo chúng tôi về phía bắc?”
“Chúng tôi khỏe lắm,” là tất cả những gì cô nói.
Lee Scoresby đang buộc một cuộn dây thừng to bản vào cái vòng sắt bọc da tập hợp dây buộc thân khí cầu và treo giữ giỏ mây. Khi nó đã được buộc chắc chắn, ông ném đầu còn lại ra, lập tức sáu phù thủy phóng tới chộp lấy nó và bắt đầu kéo, thúc những cành thông mây bay về phía sao Bắc Đẩu.
Khi chiếc khí cầu bắt đầu di chuyển theo hướng đó, Pantalaimon biến thành một con nhạn biển rồi bay tới đậu trên mép giỏ. Linh thú của Roger thò ra nhìn nhưng lại thụt vào ngay, vì Roger đang ngủ say, cũng giống như Iorek Byrnison. Chỉ còn mỗi Lee Scoresby là còn thức, điềm tĩnh nhai một điếu xì gà mỏng dính và quan sát các thiết bị của mình.
“Vậy, Lyra,” Serafina Pekkala lên tiếng. “Cháu có biết tại sao mình lại đến chỗ Ngài Asriel không?”
Lyra lấy làm ngạc nhiên. “Để đưa cho ông ấy chiếc Chân Kế, hẳn nhiên rồi!” Cô bé đáp.
Cô chưa từng nghĩ đến câu hỏi đó; nó quá hiển nhiên. Rồi cô nhớ lại động cơ đầu tiên của mình, đã quá lâu nên cô gần như quên bẵng mất.
“Hoặc là… để giúp ông ấy trốn thoát. Đúng rồi. Chúng ta sẽ giúp ông ấy chạy trốn.”
Nhưng khi cô nói ra, điều đó nghe thật kì cục. Trốn thoát khỏi Svalbard ư? Vô vọng!
“Dù sao thì cũng phải thử chứ,” cô can đảm nói thêm. “Sao thế ạ?”
“Ta nghĩ có vài thứ ta cần nói với cháu,” Serafina Pekkala nói.
“Về Bụi ạ?”
Đó là điều đầu tiên Lyra muốn biết.
“Phải, cùng với những điều khác nữa. Nhưng giờ thì cháu mệt rồi, mà chuyến bay thì còn dài. Chúng ta sẽ nói chuyện khi nào cháu tỉnh dậy.”
Lyra ngáp. Đó là một cái ngáp sái quai hàm, vỡ tung phổi kéo dài gần một phút, hoặc là có cảm giác như thế. Sau thời gian tranh đấu mệt mỏi, Lyra không thể cưỡng lại được cơn buồn ngủ đang ập tới. Serafina Pekkala với tay qua thành giỏ để chạm vào mắt cô bé, và khi Lyra ngả xuống sàn, Pantalaimon cũng bay xuống, hóa thành chồn ermine rồi bò vào chỗ ngủ của mình bên cạnh cổ cô.
Cô phù thủy điều chỉnh cành cây của mình theo một tốc độ ổn định bên cạnh giỏ khí cầu khi họ bay theo hướng bắc về phía Svalbard.