← Quay lại trang sách

Phần III - Svalbard- 18 - Sương mù và băng giá

Lee Scoresby đắp vài tấm áo choàng lông lên người Lyra. Cô bé co người lại gần Roger và chúng nằm ngủ bên nhau khi chiếc khí cầu lướt về phía Cực. Cứ thỉnh thoảng ông phi công lại kiểm tra các thiết bị, nhai nhai điếu xì gà mà ông sẽ chẳng bao giờ châm dù sẵn có khí hydro dễ cháy ở ngay bên cạnh, và rúc sâu hơn vào bộ đồ lông của mình.

“Cô gái nhỏ này khá là quan trọng đấy hử?” Ông nói sau vài phút.

“Hơn là nó nhận thức được,” Serafina Pekkala đáp.

“Như vậy có nghĩa là sẽ còn nhiều quân vũ trang truy đuổi nữa? Cô hiểu cho, tôi đang nói với vị thế một người thực tế cần phải kiếm ăn. Tôi không thể để bị phá sản hay bị bắn tan xác mà không thỏa thuận trước về một khoản đền bù được. Tôi không định cản trở cuộc thám hiểm này đâu, xin quý cô cứ tin tôi. Nhưng John Faa và những người du mục trả tôi một khoản phí đủ để trang trải thời gian và kĩ năng của mình, cộng thêm các vấn đề hỏng hóc hay rách nát trên khí cầu, chỉ có vậy. Nó không bao gồm bảo hiểm tham gia chiến tranh. Và để tôi nói cô hay, quý cô ạ, khi chúng ta thả Iorek Byrnison xuống Svalbard, việc đó sẽ được coi là một hành động tham chiến.”

Ông điệu nghệ búng một mẩu lá thuốc ra ngoài.

“Nên tôi muốn biết chúng ta có thể trông đợi điều gì trong trường hợp hỗn loạn hay bị quấy nhiễu,” ông kết thúc bài phát biểu.

“Có thể sẽ có giao chiến,” Serafina Pekkala nói. “Nhưng ông đã từng chiến đấu trước đó rồi.”

“Phải, khi tôi được trả công. Nhưng thật ra, tôi đã nghĩ đây là một hợp đồng vận chuyển thuần tuý, và tôi nhận lương dựa trên đó. Vậy nên sau trận ẩu đả nho nhỏ dưới kia, tôi đang tự hỏi không rõ trách nhiệm vận chuyển của tôi sẽ được nới rộng đến đâu. Không biết tôi có chắc chắn phải mạo hiểm mạng sống và các thiết bị của mình trong một cuộc chiến giữa những con gấu hay không, lấy ví dụ vậy. Hay là liệu đứa bé này có kẻ thù nào ở Svalbard mà cũng nóng tính như đám ở Bolvangar hay không. Tôi chỉ đơn thuần nhắc đến tất cả những điều này để tán chuyện thôi.”

“Ông Scoresby,” cô phù thủy nói, “giá mà tôi có thể trả lời câu hỏi của ông. Tôi chỉ có thể nói rằng tất cả chúng ta, con người, phù thủy, gấu, đều đã tham gia vào cuộc chiến, dù cho không phải tất cả đều ý thức được. Dù ông có gặp nguy hiểm ở Svalbard hay an toàn bay thoát đi nữa thì ông cũng là một người được thuê, trong hàng ngũ chiến đấu, một người lính.”

“Chà, như thế thì hơi vội vàng quá. Tôi thì nghĩ là một người nên được lựa chọn có cầm vũ khí chiến đấu hay không.”

“Chúng ta không có nhiều lựa chọn trong việc đó hơn việc có được sinh ra hay không.”

“Ồ, nhưng tôi thích lựa chọn cơ,” ông nói. “Tôi thích lựa chọn công việc mình làm, nơi mình đi, thực phẩm mình ăn, những người bạn mình ngồi tán phét cùng. Thỉnh thoảng cô cũng không ước có một lựa chọn sao?”

Serafina Pekkala ngẫm nghĩ rồi nói: “Có lẽ chúng tôi không định nghĩa lựa chọn giống như vậy, ông Scoresby ạ. Phù thủy không sở hữu gì cả, nên chúng tôi không có hứng thú với việc bảo tồn giá trị hay kiếm lợi, còn về lựa chọn giữa thứ này hay thứ kia thì khi đã sống hàng trăm năm, người ta biết rằng mọi cơ hội sẽ lại đến. Chúng tôi có những nhu cầu khác. Ông phải sửa chữa khí cầu của mình và duy trì tình trạng tốt cho nó, tôi hiểu rằng điều đó tốn thời gian và công sức, nhưng với chúng tôi, để bay được thì chỉ cần bẻ một cành thông mây, cành nào cũng được, chẳng bao giờ thiếu cả. Chúng tôi không thấy lạnh nên không cần quần áo ấm. Chúng tôi không có phương thức trao đổi nào ngoài việc giúp đỡ lẫn nhau. Nếu một phù thủy cần thứ gì đó, một phù thủy khác sẽ cho cô ấy. Nếu có một cuộc chiến cần tham gia, chúng tôi sẽ không tính chi phí vào một trong các nhân tố để quyết định việc chiến đấu có đúng đắn hay không. Mà chúng tôi cũng không có khái niệm nào về danh dự giống như loài gấu, ví dụ vậy. Sự sỉ nhục đối với một con gấu là một thứ chết người. Với chúng tôi… thật là khó tưởng tượng. Người ta sỉ nhục phù thủy thế nào được? Mà nếu có làm thế thì cũng có sao?”

“À, tôi khá là đồng cảm với cô trong chuyện đó. Gậy gộc và gạch đá có thể làm tổn thương chứ danh tiếng chẳng đáng để tranh chấp. Nhưng quý cô à, tôi hi vọng cô hiểu cho tình thế khó xử của tôi. Tôi chỉ là một phi công đơn thuần, và tôi muốn cuộc đời mình kết thúc trong an nhàn. Mua một trang trại nhỏ, vài con gia súc, ít ngựa… Chẳng có gì to tát cả, cô thấy đấy. Không có cung điện, nô lệ hay những đống vàng. Chỉ có ngọn gió chiều lướt qua cây xô thơm, một điếu xì gà và một li bourbon whiskey. Nhưng vấn đề là những thứ đó tốn tiền. Vì vậy tôi bay để đổi lấy tiền mặt, và cứ sau mỗi công việc tôi lại gửi chút vàng về Ngân hàng Wells Fargo. Khi đã tích góp đủ, quý cô ạ, tôi sẽ bán cái khí cầu này rồi đặt cho mình một chuyến tàu hỏa chạy hơi nước đến Cảng Galveston, và tôi sẽ không bao giờ rời mặt đất nữa.”

“Có một điều khác biệt nữa giữa chúng ta, ông Scoresby ạ. Một phù thủy sẽ không từ bỏ việc bay lượn trước khi trút hơi thở cuối cùng. Được bay là được làm chính mình một cách hoàn hảo nhất.”

“Tôi có nhận thấy điều đó, thưa quý cô, tôi rất ghen tị với cô; nhưng tôi không có sự thỏa mãn đó. Bay lượn chỉ là một công việc đối với tôi, và tôi chỉ là một kĩ sư. Tôi cũng có thể chỉnh van động cơ chạy gas hay lắp bản mạch. Nhưng tôi đã chọn công việc này, cô thấy đấy. Đó là lựa chọn tùy thích của chính tôi. Đó là lí do vì sao tôi thấy ý tưởng về một cuộc chiến không được báo trước khá là phiền toái.”

“Việc tranh chấp của Iorek Byrnison và quốc vương của ông ta cũng là một phần trong việc này,” cô phù thủy đáp. “Số mệnh của đứa bé này là phải góp phần trong đó.”

“Cô nói đến số mệnh,” ông nói, “cứ như thể nó đã được định đoạt vậy. Tôi không chắc là mình có thích thú gì với nó hơn một cuộc chiến mình bị lôi vào mà không hề được thông báo gì hay không. Vậy thì tự do ý chí của tôi ở đâu chứ? Mà tôi thì thấy là đứa trẻ này có ý chí tự do mãnh liệt hơn bất cứ ai tôi từng gặp. Có phải cô đang nói rằng nó chỉ là một kiểu đồ chơi chạy máy đồng hồ được lên dây cót và xếp cho đi theo một lộ trình mà nó không thể thay đổi được không?”

“Chúng ta đều là đối tượng của định mệnh. Nhưng tất cả đều phải hành động như thể không phải vậy,” cô phù thủy đáp, “nếu không sẽ chết trong tuyệt vọng. Có một lời tiên tri rất kì lạ về đứa bé này, rằng số phận của nó là đem đến cái kết cho định mệnh. Nhưng nó phải thực hiện điều đó mà không ý thức được việc mình đang làm, như thể đó là bản chất của nó chứ không phải số mệnh bắt nó phải làm vậy. Nếu nó được cho biết cần phải làm gì thì mọi chuyện sẽ thất bại; cái chết sẽ càn quét tất cả các thế giới; nỗi tuyệt vọng sẽ chiến thắng mãi mãi. Các vũ trụ sẽ biến thành thứ không hơn gì những cỗ máy lắp ráp, mù quáng và không có suy nghĩ, cảm xúc, sự sống…”

Họ nhìn xuống Lyra, gương mặt đang ngủ của cô (họ không nhìn được nhiều dưới lớp mũ trùm) khẽ hằn một cái cau mày bướng bỉnh.

“Tôi đoán một phần trong con bé đã biết điều đó,” ông phi công nói. “Dù sao trông cô bé cũng khá sẵn sàng cho chuyện này. Còn thằng bé thì sao? Cô biết là Lyra vượt qua cả chặng đường dài để tới cứu nó khỏi đám người tàn bạo ở đó đúng không? Chúng là bạn cùng chơi từ hồi ở Oxford hay gì đó. Cô có biết không?”

“Có, tôi biết điều đó. Lyra đang giữ một thứ cực kì giá trị, và có vẻ như định mệnh đang dùng nó như một sứ giả để mang vật đó tới cho cha mình. Vậy nên nó đã vượt cả chặng đường đến tìm bạn, không hề biết rằng bạn mình đã được định mệnh đưa đến Phương Bắc, để nó sẽ phải đi theo và mang một thứ tới cho cha mình.”

“Cô hiểu sự việc như vậy hử?”

Lần đầu tiên cô phù thủy tỏ ra không chắc chắn.

“Có vẻ như đó là cách sự việc đang diễn ra… Nhưng chúng tôi không thể luận giải bóng tối, ông Scoresby ạ. Rất có khả năng là tôi đoán sai.”

“Nếu tôi có thể hỏi thì, điều gì đã khiến các cô dính dáng vào toàn bộ chuyện này?”

“Chúng tôi đều cảm thấy mọi chuyện người ta làm ở Bolvangar là sai trái bằng cả trái tim mình. Lyra là kẻ thù của chúng; cho nên chúng tôi là bạn của cô bé. Chúng tôi chỉ biết có vậy. Nhưng ngoài ra bộ tộc chúng tôi cũng có tình bạn với những người dân du mục, từ khi Farder Coram cứu mạng tôi. Chúng tôi làm việc này theo lời kêu gọi của họ. Mà họ thì lại đang chịu ơn Ngài Asriel.”

“Tôi hiểu rồi. Vậy là cô đang kéo khí cầu đến Svalbard vì những người du mục. Vậy tình bạn đó có đủ để kéo chúng tôi quay trở lại không? Hay là tôi sẽ phải đợi một ngọn gió tốt bụng, và trong lúc đó thì đành trông chờ vào đặc ân của những con gấu? Tôi xin nhắc lại, thưa quý cô, rằng tôi hỏi những điều này hoàn toàn trên tinh thần bạn bè.”

“Nếu có thể giúp ông quay trở về Trollesund, ông Scoresby ạ, chúng tôi sẽ làm. Nhưng chúng tôi không biết chuyện gì đang đón chờ ở Svalbard. Quốc vương mới của loài gấu đã thực hiện nhiều cải cách; những cách thức cũ đã không còn được trọng dụng; có thể việc đáp khí cầu sẽ khá khó khăn. Tôi không biết Lyra sẽ làm cách nào tìm được cha mình. Tôi cũng không rõ Iorek Byrnison dự tính làm gì, trừ việc định mệnh của ông ta gắn liền với cô bé.”

“Tôi cũng không biết, quý cô ạ. Tôi nghĩ ông ta gắn bó với cô nhóc như một người bảo vệ. Cô bé đã giúp ông ta lấy lại bộ giáp của mình, cô thấy đấy. Ai mà biết được cảm xúc của gấu chứ? Nhưng nếu một con gấu có khi nào yêu mến loài người, thì ông ta thật sự yêu mến cô bé. Còn việc hạ cánh xuống Svalbard thì chưa bao giờ dễ dàng cả. Tuy nhiên, nếu có thể nhờ cô kéo nó theo đúng hướng, tôi sẽ cảm thấy an tâm hơn; và nếu có bất cứ việc gì tôi có thể làm cho cô để đền đáp lại, xin cứ nói. Nhưng để cho chắc chắn, cô không phiền cho tôi biết tôi ở phe của ai trong cuộc chiến vô hình này chứ?”

“Cả hai ta đều ở phe Lyra.”

“Ồ, không có gì phải nghi ngờ về điều đó cả.”

Họ tiếp tục lên đường. Không có cách nào biết được họ đang đi nhanh đến mức nào do lớp mây bên dưới quá dày. Đương nhiên là thông thường, khí cầu sẽ đứng im so với gió, nó sẽ trôi lơ lửng cùng tốc độ với không khí; nhưng giờ khi được các phù thủy kéo, chiếc khí cầu đang di chuyển qua không khí thay vì cùng với nó. Ngoài ra chuyển động cũng bị cản trở do thân khí cầu tròn không hề có hình dạng thuôn nhẵn của một chiếc zeppelin. Kết cục là chiếc giỏ mây cứ văng hết hướng này đến hướng kia, rung lắc hơn nhiều so với một chuyến bay thông thường.

Lee Scoresby không lo lắng cho sự thoải mái của mình bằng cho các thiết bị của ông. Ông mất một lúc để đảm bảo rằng chúng đã được buộc chắc chắn vào các thanh đỡ chính. Dựa vào máy đo độ cao, họ đang ở cách mặt đất gần ba nghìn mét. Nhiệt độ đang là âm hai mươi độ. Ông đã từng bị lạnh hơn thế này, nhưng không nhiều, và vì không muốn bị lạnh thêm nữa, ông gỡ một tấm vải bạt hay dùng để cắm trại ngoài trời khẩn cấp rồi căng nó ra phía trước những đứa trẻ đang ngủ để chắn gió, sau đó ông nằm xuống, đấu lưng với đồng đội chiến đấu cũ của mình, Iorek Byrnison, và thiếp đi.

Khi Lyra tỉnh dậy, trăng đã lên cao trên bầu trời, phủ lên vạn vật trong tầm mắt một lớp mạ bạc, từ bề mặt cuộn sóng của lớp mây phía dưới cho đến những vệt sương phủ và trụ băng bám trên gờ chiếc khí cầu.

Roger vẫn đang say ngủ, cả Lee Scoresby và con gấu cũng thế. Tuy vậy, bên cạnh chiếc giỏ, nữ hoàng phù thủy vẫn đang điềm tĩnh bay.

“Chúng ta còn cách Svalbard bao xa nữa?” Lyra hỏi.

“Nếu không có gió thì chúng ta sẽ tới Svalbard trong khoảng mười hai giờ nữa.”

“Chúng ta sẽ hạ cánh ở đâu?”

“Còn tùy thuộc vào thời tiết. Nhưng ta sẽ cố gắng tránh các vách núi. Có những sinh vật sống ở đó săn bất cứ vật gì chuyển động. Nếu có thể, chúng ta sẽ để mọi người hạ cánh xuống đất liền, cách xa cung điện của Iofur Raknison.”

“Chuyện gì sẽ xảy ra khi cháu tìm thấy Ngài Asriel? Liệu ông ấy có muốn quay lại Oxford không? Cháu cũng không biết liệu có phải nói với ông ấy rằng cháu đã biết ông ấy là cha cháu không. Có khi ông ấy vẫn muốn đóng vai người bác. Cháu gần như chẳng biết gì về ông ấy cả.”

“Ông ấy sẽ không muốn quay lại Oxford đâu, Lyra ạ. Có vẻ như có việc cần làm ở một thế giới khác, mà Ngài Asriel lại là người duy nhất có thể bắc cầu vượt qua vực thẳm ngăn cách hai thế giới. Nhưng ông ấy cần một thứ để giúp mình.”

“Chiếc Chân Kế!” Lyra thốt lên. “Hiệu trưởng trường Jordan đưa nó cho cháu và cháu nghĩ ông ấy có điều gì đó muốn nói về Ngài Asriel nhưng không có cơ hội. Cháu biết Hiệu trưởng không thực sự muốn đầu độc ông ấy. Có phải ông ấy sẽ đọc cái máy và tìm cách xây cây cầu không? Cháu dám chắc mình có thể giúp ông ấy. Giờ cháu có lẽ đã có thể đọc nó tốt không kém ai.”

“Ta không biết,” Serafina Pekkala đáp. “Ông ấy sẽ làm thế nào, nhiệm vụ của ông ấy sẽ là gì, chúng ta không thể đoán được. Có những đấng quyền năng nói chuyện với chúng ta, nhưng lại có các đấng trên cả họ; thậm chí còn có những bí mật từ đấng tối cao.”

“Chiếc Chân Kế sẽ nói cho cháu biết! Cháu có thể đọc luôn bây giờ…”

Nhưng thời tiết quá lạnh; cô sẽ không bao giờ có thể giữ nổi cái máy. Cô bé quấn kín người rồi kéo sát mũ trùm lại để tránh cơn gió giá lạnh, chỉ để hở một khe hẹp để nhìn qua. Xa xa phía trước và thấp hơn một chút, sợi dây thừng nối dài từ vòng treo khí cầu được kéo bởi sáu hay bảy phù thủy cưỡi cành cây thông mây. Những ngôi sao tỏa sáng rực rỡ, lạnh lẽo và gay gắt như những viên kim cương.

“Sao cô không thấy lạnh vậy Serafina Pekkala?”

“Chúng ta có thấy lạnh, nhưng không bận tâm, vì chúng ta sẽ không bị tổn thương vì nó. Với lại, nếu quấn kín người để chống lạnh, chúng ta sẽ không cảm nhận được những thứ khác, như sự rộn rã lấp lánh của những ngôi sao, hay âm nhạc của Cực Quang, hoặc tuyệt vời trên tất thảy là cảm giác mềm mượt như lụa của ánh trăng trải trên da thịt. Vì những điều đó mà chịu lạnh cũng đáng lắm.”

“Liệu cháu có cảm nhận được không?”

“Không đâu. Cháu sẽ chết nếu cởi áo lông ra nên hãy cứ cuộn chặt người vào.”

“Các phù thủy sống bao lâu vậy, Serafina Pekkala? Farder Coram nói là hàng trăm năm. Nhưng trông cô chẳng già gì cả.”

“Ta khoảng ba trăm tuổi hoặc hơn. Mẹ phù thủy già nhất của chúng ta đã gần một nghìn tuổi rồi. Một ngày nào đó, Yambe-Akka sẽ đến đón bà ấy. Rồi một ngày bà ấy sẽ đến đón ta. Bà ấy là nữ thần báo tử. Bà ấy sẽ đến mỉm cười dịu dàng, và người ta sẽ biết đã đến lúc ra đi.”

“Có phù thủy nam không ạ? Hay chỉ toàn nữ thôi?”

“Có những người đàn ông phục vụ chúng ta, giống như ông Lãnh sự ở Trollesund. Và có những người đàn ông chúng ta nhận làm người yêu hoặc chồng. Cháu còn bé lắm Lyra ạ, quá bé để hiểu điều này, nhưng ta vẫn sẽ nói với cháu rồi về sau cháu sẽ hiểu: đàn ông đi qua trước mắt chúng ta như những con bươm bướm, những sinh vật có vòng đời ngắn ngủi. Chúng ta yêu họ; họ thật dũng cảm, kiêu hãnh, đẹp đẽ, thông minh; và họ lụi tàn gần như ngay lập tức. Họ chết sớm tới mức khiến trái tim chúng ta liên tục bị dằn vặt đau khổ. Chúng ta sinh những đứa con của họ, nếu là con gái thì sẽ thành phù thủy còn không sẽ là con người; và rồi chỉ trong chớp mắt chúng đã ra đi, ngã xuống, bị sát hại, mất tích. Những người con trai của chúng ta cũng thế. Khi thằng bé đang lớn, nó nghĩ rằng nó là bất tử. Nhưng mẹ nó thì biết là không. Mỗi lần đều trở nên đau đớn hơn, cho tới khi trái tim người đó tan vỡ. Có lẽ đó là khi Yambe-Akka đến đón họ. Bà ấy còn lâu đời hơn cả vùng lãnh nguyên. Có lẽ với bà ấy, cuộc đời của các phù thủy cũng ngắn ngủi như cuộc đời của con người đối với chúng ta vậy.”

“Cô có yêu Farder Coram không?”

“Có. Ông ấy có biết điều đó không?”

“Cháu không biết, nhưng cháu biết ông ấy yêu cô.”

“Khi cứu ta, ông ấy còn trẻ, mạnh mẽ, đầy lòng kiêu hãnh và sự đẹp đẽ. Ta đã lập tức phải lòng ông ấy. Ta sẵn sàng thay đổi bản chất của mình, ta sẵn sàng từ bỏ sự náo nức của sao trời và âm nhạc của Cực Quang, sẵn sàng không bao giờ bay nữa - ta có thể đã vứt bỏ mọi thứ vào khoảnh khắc đó mà không cần suy nghĩ, để trở thành một bà vợ chủ thuyền người du mục nấu ăn cho ông ấy, chia sẻ chiếc giường với ông ấy và sinh con cho ông ấy. Nhưng chẳng ai có thể thay đổi được bản chất của mình, chỉ có thể thay đổi việc mình làm. Ta là phù thủy còn ông ấy là con người. Ta đã ở bên ông ấy đủ lâu để sinh cho ông ấy một đứa bé…”

“Ông ấy chưa từng nhắc đến chuyện đó! Là con gái ạ? Một phù thủy?”

“Không. Là con trai, nó đã chết trong đợt đại dịch mang theo căn bệnh đến từ Phương Đông bốn mươi năm trước. Đứa bé tội nghiệp; sự sống của nó mới vừa hình thành đã vội vụt tắt chẳng khác gì loài phù du. Điều đó đã xé nát trái tim ta, như nó vẫn luôn làm. Nó cũng khiến trái tim Coram tan vỡ. Rồi ta được gọi trở về với dân chúng của mình, vì Yambe-Akka đã đưa mẹ của ta đi, và ta trở thành nữ hoàng bộ tộc. Ta đã ra đi vì đó là điều cần thiết.”

“Cô không gặp lại Farder Coram nữa à?”

“Chưa từng. Ta có nghe nói về những việc ông ấy làm; nghe được rằng ông ấy đã bị lũ Skraeling gây thương tích bằng một mũi tên tẩm độc, ta đã gửi thảo dược và bùa chú đến giúp ông ấy hồi phục, nhưng không đủ mạnh mẽ để gặp ông ấy. Ta nghe nói sau đó ông ấy đã đau khổ thế nào, học thức đã phát triển ra sao, ông ấy đã nghiên cứu và đọc nhiều đến mức nào, ta đã rất tự hào về ông ấy và lòng tốt của ông. Nhưng ta phải giữ khoảng cách vì đó là quãng thời gian nguy hiểm cho bộ tộc của mình, với nguy cơ xảy ra chiến tranh phù thủy. Hơn nữa, ta nghĩ ông ấy sẽ quên ta và tìm một người vợ loài người…”

“Ông ấy sẽ không bao giờ làm thế,” Lyra nói chắc nịch. “Cô phải đi gặp ông ấy. Ông ấy vẫn yêu cô, cháu biết chắc như vậy.”

“Nhưng ông ấy sẽ hổ thẹn vì tuổi tác của bản thân, mà ta thì không muốn khiến ông ấy cảm thấy như vậy.”

“Có thể thế. Nhưng ít nhất cô cũng phải gửi thông điệp cho ông ấy. Cháu nghĩ vậy đấy.”

Serafina Pekkala im lặng một lúc lâu. Pantalaimon biến thành một con nhạn biển và bay tới cành cây của cô trong một giây, để thừa nhận rằng có lẽ chúng đã tỏ ra xấc xược.

Rồi Lyra nói: “Tại sao người ta lại có linh thú vậy, Serafina Pekkala?”

“Tất cả mọi người đều thắc mắc như vậy, nhưng chẳng ai biết câu trả lời. Từ khi loài người sinh ra đã có linh thú rồi. Đó là thứ khiến chúng ta khác biệt với động vật.”

“Phải rồi! Chúng ta rất khác biệt với họ… Như là loài gấu. Họ thật kì lạ phải không, gấu ấy? Người ta cứ nghĩ là họ cũng giống người, rồi đột nhiên họ có hành động kì quặc và hung ác đến mức khiến người ta nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ hiểu được họ… Nhưng cô có biết Iorek nói gì với cháu không, ông ấy nói rằng bộ giáp đối với ông ấy giống như linh thú đối với loài người vậy. Ông ấy nói đó là linh hồn của mình. Nhưng đó lại là điểm khiến họ khác biệt, vì ông ấy tự chế tạo bộ giáp. Người ta đã lấy đi bộ giáp đầu tiên của ông ấy khi đẩy ông ấy đi đày, rồi ông ấy tìm thấy chút sắt trời nên đã rèn một bộ mới, giống như tạo ra một linh hồn mới vậy. Chúng ta thì không thể tạo ra linh thú của mình được. Rồi những người ở Trollesund, họ chuốc ông ấy say khướt bằng rượu mạnh rồi cướp nó đi mất. Cháu đã tìm ra chỗ giấu nó và ông ấy đã đi lấy lại… Nhưng điều cháu thắc mắc là vì sao ông ấy lại đến Svalbard? Họ sẽ giao đấu với ông ấy. Họ có thể sẽ giết ông ấy mất… Cháu rất quý Iorek. Cháu quý ông ấy đến mức ước gì ông ấy đừng đến.”

“Ông ta đã nói với cháu mình là ai chưa?”

“Chỉ mỗi tên của ông ấy thôi ạ. Mà đó là do ông Lãnh sự ở Trollesund nói với chúng cháu.”

“Ông ta mang dòng dõi cao quý. Là một hoàng tử. Thật ra, nếu không phải đã phạm tội tày đình thì giờ này ông ta hẳn đang là vua của loài gấu rồi.”

“Ông ấy nói với cháu đức vua của họ có tên là Iofur Raknison.”

“Iofur Raknison trở thành vua khi Iorek Byrnison bị trục xuất. Đương nhiên Iofur cũng là một hoàng tử, nếu không thì theo luật ông ta sẽ không được phép làm vua; nhưng ông ta lại khôn khéo theo cách của loài người; ông ta lập đồng minh và các hiệp ước; ông ta không sống trong những pháo đài bằng băng giống như loài gấu, mà là trong một cung điện mới xây; ông ta nói về việc trao đổi đại sứ với các quốc gia loài người và phát triển mỏ lửa với sự giúp đỡ của kĩ sư loài người… Ông ta rất khéo léo và khôn ngoan. Có người nói rằng ông ta đã xúi giục Iorek làm một việc khiến cho Iorek bị trục xuất, còn những người khác nói rằng kể cả có không làm thế thì ông ta cũng sẽ khích lệ mọi người nghĩ như vậy, vì điều đó bổ sung vào danh tiếng về sự mưu mẹo và gian xảo của Iofur.”

“Iorek đã làm gì vậy? Cô biết không, một lí do khiến cháu yêu mến Iorek là vì cha cháu cũng bị trừng phạt vì việc mình đã làm. Với cháu thì họ khá giống nhau. Iorek có kể ông ấy đã giết một con gấu khác, nhưng không hề nói việc đó xảy ra như thế nào.”

“Cuộc đấu đó là vì một con gấu cái. Con đực mà Iorek giết không chịu ra dấu đầu hàng kể cả khi việc Iorek mạnh hơn đã rõ ràng. Dù có lòng kiêu hãnh rất lớn, loài gấu cũng luôn nhận ra sức mạnh áp đảo của một con gấu khác và đầu hàng trước nó, nhưng vì một lí do nào đó mà con gấu này đã không làm vậy. Có người nói rằng Iofur Raknison đã tác động đến tâm trí nó, hoặc cho nó ăn thuốc lú. Dù sao thì con gấu trẻ vẫn cứ cố chấp, và Iorek Byrnison đã để cho cơn giận lấn át bản thân. Vụ án không khó để phán xử; đáng ra ông ta chỉ nên làm nó bị thương chứ không nên giết.”

“Nếu không thì ông ấy đã thành vua rồi,” Lyra nói. “Cháu còn nghe được vài điều về Iofur Raknison từ Giáo sư Palmerian ở Jordan, vì ông ấy đã lên Phương Bắc và gặp Iofur. Ông ấy nói… Giá mà cháu nhớ được ông ấy nói gì… Cháu nghĩ là Iofur đã lừa đảo để chiếm ngai vàng hay đại loại thế… Nhưng cô biết không, Iorek có lần nói với cháu là gấu không thể bị lừa, rồi cho cháu thấy rằng cháu không thể lừa ông ấy. Xem chừng cả ông ấy lẫn con gấu kia đều đã bị lừa rồi. Có lẽ chỉ có gấu mới lừa được nhau chứ người thì không. Trừ khi… Những người ở Trollesund, chẳng phải họ đã lừa ông ấy sao? Khi họ chuốc ông ấy say rồi cướp áo giáp ấy?”

“Khi gấu cư xử như con người, có lẽ họ có thể bị lừa,” Serafina Pekkala đáp. “Còn khi cư xử như gấu thì có lẽ là không. Chẳng có con gấu nào khi không lại đi uống rượu cả. Iorek Byrnison uống để quên đi nỗi thẹn bị lưu đày, và chỉ có điều đó mới khiến người dân Trollesund lừa được ông ta.”

“À, phải,” Lyra gật gù nói. Cô bé cảm thấy thỏa mãn với ý tưởng đó. Lòng ngưỡng mộ của cô với Iorek gần như là vô bờ bến, cô rất vui khi có thể khẳng định được sự cao quý của con gấu. “Cô thật là thông minh,” cô bé nói. “Cô mà không nói thì cháu sẽ chẳng thể biết được. Cháu nghĩ có khi cô còn thông minh hơn cả Phu nhân Coulter.”

Họ tiếp tục bay. Lyra nhai chút thịt hải cẩu vừa tìm thấy trong túi.

“Serafina Pekkala,” một lúc sau cô lên tiếng, “Bụi là gì ạ? Vì cháu thấy là toàn bộ những rắc rối này đều là do Bụi cả, nhưng chẳng ai chịu nói cho cháu biết nó là gì.”

“Ta không biết,” Serafina Pekkala nói. “Giới phù thủy chưa từng lo lắng về Bụi. Ta chỉ có thể nói với cháu rằng ở đâu có thầy tu thì ở đó có nỗi sợ về Bụi. Đương nhiên là Phu nhân Coulter không phải thầy tu, nhưng bà ta là nhân tố quan trọng thuộc Huấn Quyền, cũng chính bà ta là người thiết lập nên Ủy ban Hiến tế và thuyết phục Giáo hội trả tiền cho Bolvangar, vì hứng thú của bà ta với Bụi. Chúng ta không thể hiểu được cảm xúc của bà ta về nó. Nhưng có rất nhiều thứ chúng ta không hiểu được. Chúng ta thấy dân Tartar đục lỗ trên sọ của mình và chỉ có thể ngạc nhiên trước sự dị thường đó. Vậy nên Bụi có thể kì lạ, nó khiến chúng ta ngạc nhiên, nhưng chúng ta không phiền muộn đến mức xé bất cứ cái gì ra để kiểm tra nó. Cứ để việc đó cho Giáo hội.”

“Giáo hội ư?” Lyra thốt lên. Có thứ gì đó vừa lóe lên trong tâm trí cô: Cô nhớ lại lần nói chuyện với Pantalaimon ở vùng Fen, về thứ gì có thể khiến kim la bàn của chiếc Chân Kế chuyển động. Chúng đã nghĩ tới cái cối xay ánh sáng trên bệ thờ cao tại Học viện Gabriel và cái cách mà các hạt cơ bản đẩy các cánh chong chóng xoay. Đấng Cầu Thay ở đó đã khẳng định rõ về mối liên hệ giữa các hạt cơ bản và tôn giáo. “Có thể lắm,” cô gật gù nói. “Dù gì thì người ta cũng giữ bí mật hầu hết những thứ liên quan đến Giáo hội. Nhưng những thứ đó hầu như đều rất cổ xưa, mà theo cháu biết thì Bụi không xa xưa đến thế. Không biết Ngài Asriel có thể nói cho cháu biết không nhỉ…”

Cô bé lại ngáp.

“Cháu phải nằm xuống đây,” cô nói với Serafina Pekkala, “nếu không, chắc cháu đóng băng mất. Ở dưới đất đã lạnh rồi, nhưng cháu chưa từng bị lạnh đến thế này. Nếu bị lạnh hơn nữa khéo cháu chết mất.”

“Vậy thì nằm xuống và quấn chặt áo lông vào đi.”

“Vâng. Nếu có chết cháu cũng thà chết trên này còn hơn ở dưới đó, luôn luôn là vậy. Cháu đã nghĩ khi họ cho chúng cháu xuống dưới cái lưỡi dao đó, cháu đã nghĩ thế là xong… Cả hai bọn cháu đều nghĩ vậy. Ôi, thật là tàn nhẫn. Nhưng giờ thì bọn cháu đi ngủ đây. Khi nào đến nơi hãy gọi bọn cháu dậy nhé,” cô bé nói rồi nằm xuống đống áo lông, cảm thấy bứt rứt và nhức nhối khắp người trong cái lạnh cắt da cắt thịt, cô cố gắng nằm sát hết mức vào cậu bé Roger đang say ngủ.

Cứ như vậy bốn lữ khách tiếp tục lên đường, ngủ say trong chiếc khí cầu phủ đầy băng, về phía những ngọn núi đá và dòng sông băng, những mỏ lửa và pháo đài băng của Svalbard.

Serafina Pekkala gọi người phi công và ông ta lập tức tỉnh dậy, chệnh choạng vì lạnh, nhưng đã nhận ra có thứ gì đó không ổn do chuyển động của giỏ khí cầu. Nó đang chòng chành dữ dội khi thân khí cầu bị gió đánh bạt đi, còn các phù thủy đang kéo dây thì vất vả lắm mới giữ được nó. Nếu họ thả tay ra, chiếc khí cầu sẽ bị cuốn bay khỏi lộ trình ngay lập tức. Chỉ cần lướt nhìn la bàn, ông nhận thấy rằng nó sẽ bị cuốn về phía Nova Zembla với tốc độ gần một trăm dặm một giờ.

“Chúng ta đang ở đâu đây?” Lyra nghe thấy ông hỏi. Cô bé cũng đã lơ mơ tỉnh dậy, cảm thấy khó chịu vì bị xóc, toàn thân cô lạnh đến mức cứng đờ lại.

Cô bé không nghe được tiếng cô phù thủy đáp lại, nhưng trong ánh sáng của chiếc đèn lồng mạch, qua chiếc mũ khép hờ cô nhìn thấy Lee Scoresby đang bám vào thanh chống và kéo một sợi dây thừng dẫn lên thân khí cầu. Ông giật mạnh như thể để gỡ một mối rối rồi ngước nhìn bóng tối cuồng nộ phía trên trước khi vòng sợi dây quanh một cái cọc trên vòng treo.

“Tôi sẽ nhả bớt khí gas,” ông hét lên với Serafina Pekkala. “Chúng ta sẽ hạ thấp xuống. Chúng ta đang ở quá cao.”

Cô phù thủy đáp lại gì đó nhưng Lyra không thể nghe ra nổi. Roger cũng đang dần tỉnh dậy; tiếng kẽo kẹt của cái giỏ đủ để đánh thức người ngủ sâu nhất, chưa nói đến việc nó đang rung lắc và nảy lên bần bật. Linh thú của Roger và Pantalaimon bám chặt vào nhau như những con khỉ đuôi sóc, còn Lyra thì chú tâm vào việc nằm im và không bật dậy vì sợ.

“Sẽ ổn cả thôi,” Roger nói, giọng nó có vẻ phấn khởi hơn cả Lyra. “Chúng ta sẽ sớm hạ cánh, rồi chúng ta có thể nhóm lửa sưởi ấm. Tớ có vài que diêm trong túi đây. Tớ nhón được chúng trong bếp ở Bolvangar.”

Chiếc khí cầu quả thật đang hạ độ cao, vì chỉ một giây sau họ đã bị bao bọc trong một đám mây dày lạnh cóng. Những cụm mây nhỏ tràn qua thành giỏ, khiến mọi thứ lập tức trở nên mờ mịt. Nó giống như màn sương mù dày đặc nhất mà Lyra từng được biết tới. Một lúc sau lại có tiếng Serafina Pekkala hét lên gì đó, ông phi công liền tháo sợi dây ra khỏi cọc và thả nó ra. Nó vụt bắn lên qua tay ông, mặc dù đã qua những tiếng kẽo kẹt, rung lắc, tiếng rít của gió luồn qua gờ khí cầu, Lyra vẫn nghe thấy hay cảm nhận được một tiếng thụp rất lớn ở đâu đó phía xa trên cao.

Lee Scoresby nhận thấy ánh mắt kinh ngạc của cô bé.

“Đấy là van khí gas,” ông hét lên. “Nó dùng một lò xo để giữ khí gas bên trong. Khi ta kéo nó xuống, một phần khí sẽ thoát ra từ chóp khí cầu, sức nổi sẽ sụt xuống và chúng ta sẽ hạ độ cao.”

“Chúng ta có gần…”

Cô bé không kịp nói hết câu vì một thứ gớm guốc đã xuất hiện. Một sinh vật bằng nửa cỡ con người, có đôi cánh bọc da và những cái móng hình móc câu, đang bò qua thành giỏ về phía Lee Scoresby. Nó có một cái đầu bẹt, đôi mắt lồi và cái miệng ếch rộng ngoác, từ nó tỏa ra một mùi hôi thối ghê tởm. Lyra thậm chí còn không có thời gian hét lên trước khi Iorek Byrnison với tới và đấm bạt nó đi. Nó rơi khỏi giỏ rồi biến mất trong một tiếng thét chói tai.

“Quỷ vực,” Iorek nói ngắn gọn.

Ngay sau đó Serafina Pekkala xuất hiện, cô bám vào thành giỏ và nói vẻ khẩn cấp.

“Lũ quỷ vực đang tấn công. Chúng ta sẽ hạ khí cầu xuống đất, sau đó chúng ta phải tự bảo vệ lấy mình. Chúng đang…”

Nhưng Lyra không nghe được phần còn lại của câu đó vì một tiếng xé toạc vang lên, rồi mọi thứ nghiêng sang một bên. Tiếp đến, một luồng gió mạnh khủng khiếp quật ba người vào thành giỏ nơi bộ giáp của Iorek Byrnison được xếp. Iorek vươn một bàn tay khổng lồ ra giữ chúng lại, vì chiếc giỏ đang nảy xóc lên một cách dữ dội. Serafina Pekkala đã biến mất. Tiếng ồn thật kinh hãi: lấn át tất cả những âm thanh khác là tiếng rít của lũ quỷ vực. Lyra thấy chúng lao qua và ngửi thấy mùi hôi thối nồng nặc của chúng.

Khí cầu lại giật nảy lên, đột ngột đến mức nó lại khiến cả đoàn bổ nhào xuống sàn, rồi cái giỏ bắt đầu lao xuống với vận tốc kinh hoàng, xoay tít không ngừng. Có cảm giác như họ đã bị tách rời khỏi chiếc khí cầu và đang rơi không kiểm soát. Tiếp sau đó là một loạt những cú giật và va đập, cái giỏ bị ném mạnh từ bên này sang bên kia như thể họ đang nảy lên giữa những bức tường đá.

Điều cuối cùng Lyra nhìn thấy là Lee Scoresby nổ khẩu súng lục nòng dài thẳng vào mặt một con quỷ vực; sau đó cô nhắm nghiền mắt lại và bám chặt lấy bộ lông của Iorek Byrnison trong nỗi sợ hãi tột độ. Những tiếng tru, tiếng thét, tiếng gió quất và rít lên, tiếng cái giỏ kẽo kẹt như một con thú bị giày vò, cả bầu không khí cuồng nộ ngập tràn những tiếng kêu gớm guốc.

Rồi một cú nảy mạnh như từng thấy xảy ra, và Lyra thấy mình bị bắn ra ngoài. Tay cô bị giằng ra, toàn bộ không khí bị ép khỏi phổi khi cô tiếp đất trong trạng thái rối ren đến mức không thể đoán được bầu trời ở hướng nào; còn mặt cô thì ngập trong cái mũ trùm kéo chặt đang chứa đầy thứ bột, khô, lạnh, lấp lánh như pha lê…

Đó là tuyết; cô bé vừa đáp xuống một đống tuyết. Cô bị bầm dập đến mức gần như chẳng thể nghĩ nổi gì. Cô nằm im trong vài giây rồi yếu ớt nhổ chỗ tuyết trong mồm ra và hỉ mũi cũng yếu ớt không kém cho đến khi có chút không gian để hít vào.

Có vẻ cô bé không bị đau chỗ nào cả mà chỉ cảm thấy khó thở khủng khiếp. Thật cẩn thận, cô thử cử động bàn tay, bàn chân, cánh tay, cẳng chân, và nâng đầu dậy.

Cô nhìn thấy được rất ít vì mũ trùm đầu vẫn đang đầy ngập tuyết. Cứ như thể mỗi bàn tay đều nặng cả tấn, cô gồng mình gạt tuyết và nhòm ra ngoài. Cô thấy một thế giới màu xám, với các tông màu xám đậm nhạt và màu đen, nơi những khối sương mù lảng vảng trôi như những bóng ma.

Những âm thanh duy nhất có thể nghe thấy là tiếng kêu thét xa xăm của lũ quỷ vực ở tít trên cao, và tiếng sóng xô vào đá đâu đó phía ngoài kia.

“Iorek!” Cô hét lên. Giọng yếu ớt và run rẩy, cô thử lại lần nữa nhưng vẫn không có ai trả lời. “Roger!” Cô gọi, nhưng kết quả cũng vẫn vậy.

Có cảm giác như cô đã bị bỏ lại một mình ở thế giới này, nhưng hẳn nhiên là chưa bao giờ phải như vậy. Pantalaimon bò ra khỏi áo choàng trong hình dạng một con chuột để bầu bạn với cô.

“Tớ kiểm tra Chân Kế rồi,” Pantalaimon nói, “nó không sao cả. Không có sứt mẻ gì hết.”

“Chúng ta lạc rồi, Pan!” Cô thốt lên. “Cậu có thấy đám quỷ vực đó không? Cả lúc ông Scoresby bắn chúng nữa? Chúng mà xuống đây thì chỉ có trời cứu nổi chúng ta…”

“Chúng ta nên thử kiếm cái giỏ khí cầu xem,” nó gợi ý, “có lẽ vậy.”

“Tốt nhất là không nên gọi lớn,” cô nói. “Tớ vừa làm vậy, nhưng có lẽ là không nên, nhỡ đâu chúng nghe được. Giá mà tớ biết được chúng mình đang ở đâu.”

“Có biết được khéo cũng chẳng thích thú gì đâu,” Pantalaimon chỉ ra. “Chúng ta có thể đang ở dưới đáy vực mà không có đường lên, còn lũ quỷ vực ở trên đỉnh sẽ thấy chúng ta khi sương mù tan đi.”

Sau khi đã nghỉ thêm vài phút, Lyra bắt đầu lần mò xung quanh và thấy rằng mình đã đáp xuống một khe hở giữa hai tảng đá phủ băng. Sương giá bao phủ lấy vạn vật; một bên là tiếng sóng vỗ cách đó khoảng năm mươi mét, căn cứ theo âm thanh vọng tới, còn từ trên cao vẫn có tiếng rú rít của lũ quỷ vực, dù cho có vẻ nó đã dịu đi đôi chút. Trong cảnh tranh tối tranh sáng, cô chẳng thể nhìn xa hơn vài ba mét, thậm chí cả đôi mắt cú của Pantalaimon cũng chẳng giúp được gì.

Cô bé dấn bước một cách đau đớn, chân trượt đi trên bề mặt đá lởm chởm, rời xa khỏi những ngọn sóng và lên khỏi bãi biển một chút. Cô chẳng tìm thấy gì ngoài đá và tuyết, chẳng có tăm tích gì của chiếc khí cầu hay bất cứ hành khách nào.

“Họ không thể biến mất cả đám được,” cô thì thào.

Pantalaimon đi lảng vảng xa hơn một chút trong dạng mèo và bắt gặp bốn túi cát nặng trịch bị vỡ toang, cát bắn ra từ đó đã đóng băng cứng ngắc.

“Bì giữ thăng bằng cho tàu,” Lyra thốt lên. “Hẳn là ông ấy đã ném chúng xuống để bay trở lên…”

Cô bé nuốt mạnh để nén cục nghẹn trong cổ, hay nỗi sợ dồn trong ngực, hoặc là cả hai.

“Ôi chao ơi, tớ sợ quá,” cô nói. “Hi vọng họ vẫn an toàn.”

Pantalaimon chạy lên cánh tay cô và rồi bò vào mũ trùm đầu của cô bé trong dạng chuột, nơi nó không thể bị nhìn thấy. Cô nghe thấy có tiếng động, có thứ gì đó loẹt xoẹt cọ vào đá, và quay lại xem nó là thứ gì.

“Iorek!”

Nhưng chưa kịp nói hết thì cô phải nuốt lại từ đó, vì đó hoàn toàn không phải Iorek Byrnison. Đó là một con gấu lạ trong bộ giáp bóng lộn bám đầy sương đã hóa thành băng, mũ giáp của nó đính một chùm lông trang trí.

Nó đứng im, cách đó chừng hai mét. Lyra nghĩ rằng cuộc đời cô thế là hết.

Con gấu mở miệng rống lên. Tiếng vọng bật lại từ phía những vách đá, khiến tiếng kêu rít từ xa phía trên càng trở nên hỗn loạn. Một con gấu khác bước ra từ màn sương, rồi lại một con nữa. Lyra đứng im, nghiến chặt hai nắm đấm loài người bé xíu của mình.

Lũ gấu không nhúc nhích cho đến khi con đầu tiên lên tiếng: “Tên ngươi là gì?”

“Lyra.”

“Ngươi đến từ đâu?”

“Từ bầu trời.”

“Trên một cái khí cầu à?”

“Phải.”

“Đi với bọn ta. Giờ ngươi là tù binh rồi. Đi nào. Nhanh lên.”

Mệt mỏi và sợ hãi, Lyra bắt đầu vấp ngã trên những tảng đá thô nhám và trơn trượt, theo sau lũ gấu, tự hỏi làm thế nào cô có thể dùng lời nói để thoát thân.