- 19 - Bị giam cầm
Lũ gấu đưa Lyra lên một rãnh nước trong vách núi, sương mù ở đây giăng còn dày hơn dưới bãi biển. Tiếng thét của lũ quỷ vực và sóng xô trở nên mờ nhạt khi họ leo lên, vào lúc này âm thanh duy nhất là tiếng những con chim biển kêu không ngớt. Họ leo lên qua những tảng đá và khối tuyết trong im lặng, mặc dù Lyra đã mở to mắt nhòm vào không gian màu xám đang bao phủ, tai căng ra tìm kiếm âm thanh từ những người bạn của mình, có lẽ cô bé là con người duy nhất ở Svalbard, còn Iorek có thể đã chết.
Con gấu trung sĩ không nói gì với cô cho tới khi họ lên tới mặt đất. Họ dừng lại ở đó. Từ tiếng sóng, Lyra đoán họ đã lên tới đỉnh vách núi, cô không dám chạy trốn, sợ rằng mình sẽ bị rơi xuống vực.
“Nhìn lên kìa,” con gấu nói khi một làn gió thoảng gạt bớt tấm màn sương nặng trĩu.
Dù ở đó cũng không có nhiều ánh sáng mặt trời nhưng Lyra vẫn nhìn và thấy mình đang đứng trước một tòa nhà bằng đá bề thế. Ít nhất nó cũng cao bằng phần cao nhất của Học viện Jordan, nhưng đồ sộ hơn nhiều. Tòa nhà được chạm trổ với những hình ảnh tượng trưng về chiến tranh, cho thấy bầy gấu chiến thắng và quân Skraeling đầu hàng, cho thấy quân Tartar bị xiềng và làm nô dịch tại các mỏ lửa, cho thấy những chiếc khí cầu zeppelin bay tới từ khắp mọi miền thế giới, mang theo quà cáp, cống vật đến cho vua của loài gấu, Iofur Raknison.
Ít nhất đó cũng là lời giải thích của tên gấu trung sĩ cho cô bé. Cô phải tin lời hắn, vì từng hình dạng, từng đường nét trên bề mặt được khắc sâu đều bị lũ ó biển và chim cướp biển chiếm cứ, chúng cứ liên tục kêu rít và lượn vòng vòng trên đầu, phân của chúng phủ đầy lên mọi phần của tòa nhà thành những vệt dày màu trắng bẩn thỉu.
Tuy nhiên, lũ gấu có vẻ không nhận thấy sự hỗn độn đó. Chúng dẫn đường vào qua một cổng vòm khổng lồ, trên mặt đất đóng băng vung vãi đầy phân chim. Phía trong có một khoảnh sân, những bậc thang cao, các cánh cổng vào, và tại mỗi điểm những con gấu mặc giáp đều chặn những kẻ viếng thăm lại và đòi mật khẩu. Áo giáp của chúng được đánh bóng sáng loáng, tất cả đều gắn lông vũ trên mũ giáp của mình. Lyra không thể không so sánh mỗi con gấu mà cô nhìn thấy với Iorek Byrnison, và lần nào Iorek cũng trội hơn; nó hùng mạnh hơn, phong cách hơn, bộ giáp của nó là giáp thật, có màu sắt gỉ, lấm tấm máu, sứt mẻ vì chiến đấu chứ không đẹp đẽ, được tráng men và trang trí như hầu hết những gì mà cô nhìn thấy quanh mình lúc này.
Càng vào sâu bên trong, nhiệt độ càng tăng dần, và những thứ khác cũng vậy. Thứ mùi trong cung điện của Iofur thật đáng ghê tởm: mùi mỡ hải cẩu thiu, phân động vật, máu, rác thải đủ loại. Lyra kéo mũ trùm xuống cho mát nhưng cô không thể không chun mũi lại. Cô hi vọng loài gấu không đọc được biểu hiện của con người. Cứ vài mét lại có một rầm chia bằng sắt giữ những ngọn đèn đốt bằng mỡ cá voi. Trong những cái bóng lan rộng từ đó, thật khó có thể thấy được cô đang đặt chân lên chỗ nào.
Cuối cùng họ cũng dừng lại bên ngoài một cánh cửa sắt nặng nề. Một con gấu canh gác kéo cái then cửa đồ sộ lại, tên trung sĩ đột ngột quay đầu về phía Lyra rồi đẩy cô ngã chúi vào qua cánh cửa. Trước khi có thể bò được dậy cô đã nghe thấy tiếng cửa được cài then phía sau lưng.
Ở đó tối như hũ nút, nhưng Pantalaimon đã biến thành một con đom đóm và tỏa ánh sáng nhỏ xíu của mình lên khung cảnh xung quanh. Chúng đang ở trong một xà lim hẹp với những bức tường ẩm ướt rỉ nước, ngoài ra còn có một chiếc ghế băng bằng đá để đồ. Ở góc xa nhất là đống rẻ rách mà cô cho là giường ngủ, đó là tất cả những gì cô có thể thấy.
Lyra ngồi xuống với Pantalaimon trên vai rồi lần tìm trong quần áo mình chiếc Chân Kế.
“Chắc chắn nó đã bị va đập rất nhiều, Pan ạ,” cô thì thầm. “Hi vọng nó vẫn còn hoạt động.”
Pantalaimon bay xuống cổ tay cô bé rồi ngồi đó tỏa sáng trong khi Lyra tập trung tâm trí. Một phần trong cô thấy thật phi thường khi bản thân có thể ngồi đây trong hiểm họa khủng khiếp mà vẫn lấy được sự bình tĩnh cần thiết để đọc Chân Kế; thế nhưng phần lớn trong cô lúc này là những câu hỏi phức tạp nhất tự sắp xếp thành những biểu tượng cấu tạo nên chúng một cách tự nhiên, cứ như cơ bắp khiến các chi cử động vậy: cô gần như không cần phải nghĩ về chúng.
Cô xoay các núm vặn trong lúc nghĩ về câu hỏi: “Iorek đang ở đâu?”
Câu trả lời tới ngay lập tức: “Cách một ngày đường, bị khí cầu đưa tới đó sau cú va đập, nhưng đang nhanh chóng tiến về hướng này.”
“Còn Roger?”
“Đi cùng Iorek.”
“Iorek sẽ làm gì?”
“Ông ấy dự định sẽ xông vào lâu đài và giải cứu cho cô, bất chấp phải đối mặt với tất cả những khó khăn.”
Lyra cất chiếc Chân Kế đi, cảm thấy còn lo lắng hơn cả lúc trước.
“Chúng sẽ không để ông ấy làm vậy đâu, đúng không?” Cô nói. “Chúng quá đông. Tớ ước giá mà mình là phù thủy, Pan ạ, như vậy cậu có thể bay đi tìm ông ấy để đưa tin nhắn hay gì đó, và chúng ta có thể lập một kế hoạch hẳn hoi…”
Rồi một chuyện xảy ra khiến cô hoảng hồn.
Một giọng đàn ông vang lên trong bóng tối cách đó vài bước chân: “Ai đấy?”
Cô nhảy dựng dậy và hét lên sợ hãi. Pantalaimon lập tức hóa thành dơi, vừa rít lên vừa bay vòng quanh đầu chủ trong lúc cô lùi lại vào tường.
“Hả? Hả?” Người đàn ông lại lên tiếng. “Ai đấy? Nói đi! Nói xem nào!”
“Biến lại thành đom đóm đi, Pan,” cô run rẩy nói. “Nhưng đừng lại gần quá.”
Đốm sáng nhỏ lập loè nhảy múa trong không khí rồi rập rờn bay quanh đầu người vừa lên tiếng. Hóa ra đấy hoàn toàn không phải là một đống giẻ rách: đó là một ông già râu hoa râm bị xích vào tường, đôi mắt ông lấp lánh trong ánh sáng của Pantalaimon, mái tóc bờm xờm rủ xuống hai vai. Linh thú của ông ta là một con rắn trông có vẻ mệt mỏi, nằm trong lòng ông, thỉnh thoảng lại thè lưỡi ra khi Pantalaimon bay lại gần.
“Tên ông là gì?” Cô hỏi.
“Jotham Santelia,” ông già đáp. “Ta là Giáo sư Hoàng gia ngành Vũ trụ học tại Đại học Gloucester. Còn cháu là ai?”
“Lyra Belacqua ạ. Sao họ lại khóa nhốt ông ở đây vậy?”
“Vì ác tâm và lòng đố kị… Cháu từ đâu đến thế? Hả?”
“Từ Học viện Jordan ạ,” cô đáp.
“Gì cơ? Oxford á?”
“Vâng.”
“Tên vô lại Trelawney vẫn ở đó à? Hả?”
“Giáo sư Palmerian ấy ạ? Vâng,” cô đáp.
“Thật hả, Chúa ơi! Hả? Người ta nên bắt hắn thôi việc từ lâu rồi. Đồ lừa đảo ăn cắp ý tưởng! Hợm hĩnh!”
Lyra phát ra một âm thanh trung lập.
“Hắn đã xuất bản bài báo về photon tia gamma chưa?” Ông Giáo sư hỏi, dí sát mặt về phía Lyra.
Cô lùi lại phía sau.
“Cháu không biết,” cô nói rồi lại theo thói quen bịa chuyện mà nói tiếp, “chưa ạ. Giờ cháu nhớ rồi. Ông ấy nói vẫn cần phải kiểm tra lại vài số liệu nữa. Với cả… ông ấy còn nói sẽ viết về Bụi nữa. Vậy đấy ạ.”
“Vô lại! Ăn cướp! Đê tiện! Lừa đảo!” Ông già gào lên, cả người ông rung lên bần bật đến nỗi Lyra lo ông sẽ ngất đi mất. Linh thú của ông lờ đờ trườn xuống khỏi lòng chủ trong lúc Giáo sư thụi nắm đấm vào hai ống chân mình. Những giọt nước miếng bắn ra khỏi mồm ông.
“Vâng,” Lyra nói, “cháu vẫn luôn nghĩ ông ta là một kẻ cắp. Một kẻ lừa đảo nữa.”
Vị Giáo sư Hoàng gia không hề nhận ra rằng việc một con bé bẩn thỉu xuất hiện trong xà lim của ông lại biết về người đàn ông trong nỗi ám ảnh của mình là rất vô lí. Ông ta bị điên, và không nghi ngờ gì nữa, là một ông lão tội nghiệp; nhưng có khả năng ông ta nắm giữ vài mẩu thông tin mà Lyra có thể tận dụng.
Cô bé cẩn thận ngồi xuống bên cạnh, không quá gần để ông ta có thể chạm vào, nhưng đủ gần để ánh sáng tí hon của Pantalaimon chiếu rõ được ông.
“Một điều mà Giáo sư Trelawney thường khoe khoang,” cô nói, “là việc ông ta biết rất rõ về vua của loài gấu…”
“Khoe khoang! Hả? Hả? Ta nên nói là hắn khoe khoang! Hắn chẳng là gì ngoài một tên hợm hĩnh! Một tên kẻ cướp! Hắn chẳng có chút nghiên cứu nào là của bản thân cả! Toàn đi ăn mót của những người tài giỏi hơn!”
“Vâng, đúng vậy,” Lyra sốt sắng nói. “Còn cứ khi nào ông ta tự làm một cái gì là thế nào cũng sai sót.”
“Phải! Phải! Đúng vậy! Không tài năng, không óc tưởng tượng, một tên gian lận từ đầu đến chân!”
“Ý cháu là, giả dụ,” Lyra nói, “cháu dám cá là ông biết về loài gấu nhiều hơn ông ta.”
“Gấu à,” ông già nói, “xời! Ta có thể viết cả một luận án về chúng! Đó là lí do chúng nhốt ta lại, cháu thấy đấy.”
“Tại sao lại thế ạ?”
“Ta biết quá nhiều về chúng, nhưng chúng lại không dám giết ta. Dù có rất muốn, chúng cũng không dám làm thế. Ta biết, cứ chờ mà xem. Ta có bạn bè. Phải! Những người bạn quyền lực.”
“Vâng,” Lyra nói. “Cháu cũng dám chắc ông là một người thầy tuyệt vời,” cô nói tiếp. “Vì ông có rất nhiều kiến thức và trải nghiệm.”
Ngay cả dưới đáy sâu của cơn điên, một chút ý thức vẫn đang lấp lánh. Ông già nhìn xoáy vào cô bé, gần như là nghi ngờ cô đang mỉa mai mình. Nhưng suốt cuộc đời quen đối phó với những học giả đa nghi và lập dị, cô liền nhìn lại bằng một vẻ ngưỡng mộ dịu dàng khiến ông dịu đi.
“Thầy giáo,” ông nói, “thầy… Phải, ta có thể dạy. Cứ cho ta một học sinh phù hợp, ta sẽ thắp sáng ngọn lửa tri thức trong người đó!”
“Vì kiến thức của ông không thể để cứ thế biến mất được,” Lyra khích lệ. “Nó cần được truyền lại để người đời nhớ đến ông.”
“Phải,” ông nói, nghiêm túc gật đầu. “Cháu quả là rất biết nhận thức đấy nhóc ạ. Tên cháu là gì?”
“Lyra ạ,” cô nhắc lại. “Ông có thể dạy cháu về loài gấu không?”
“Loài gấu…” Ông già nói vẻ do dự.
“Cháu thật sự rất muốn biết về vũ trụ học, Bụi và những thứ khác nữa, nhưng cháu không đủ thông minh để học chúng. Ông thật sự cần những học trò thông minh cho các môn đó. Nhưng cháu có thể học về loài gấu. Ông hoàn toàn có thể dạy cháu về chúng. Có lẽ ta có thể dùng nó để luyện tập rồi sau đó sẽ học tới Bụi.”
Ông già lại gật đầu.
“Phải,” ông nói, “phải, ta tin là cháu nói đúng. Có một sự tương đồng giữa thế giới vi mô và vĩ mô! Những ngôi sao đang sống, cô bé ạ. Cháu có biết điều đó không? Tất cả mọi thứ ngoài kia đều đang sống, với những mục đích lớn lao! Vũ trụ tràn ngập những ý định, cháu biết không. Mọi thứ đều xảy ra vì một mục đích nào đó. Mục đích của cháu là nhắc nhở ta về điều đó. Tốt, tốt lắm - trong nỗi tuyệt vọng ta đã quên bẵng mất. Tốt! Xuất sắc, cháu gái của ta!”
“Vậy, ông đã gặp nhà vua chưa? Iofur Raknison ấy?”
“Rồi. Ta đã gặp rồi. Ta đến đây theo lời mời của hắn, cháu biết đấy. Hắn định thành lập một trường đại học. Hắn còn định cho ta làm Hiệu phó nữa. Đó sẽ là một cái gai trong mắt Viện Bắc Cực Hoàng Gia, hả! Hả? Và cả tên vô lại Trelawney nữa! Ha!”
“Chuyện gì đã xảy ra vậy ạ?”
“Ta đã bị đám cấp dưới phản bội. Trelawney cũng trong số chúng, đương nhiên rồi. Hắn đã ở đây, cháu biết đấy. Tại Svalbard. Lan truyền những lời dối trá và vu khống về trình độ chuyên môn của ta. Vu khống! Nói láo! Ai là người đã khám phá ra bằng chứng quyết định cho giả thuyết Barnard-Stokes, hả? Hả? Phải, là Santelia, chính là người đó. Trelawney không thể chịu được điều này. Hắn đã nói dối một cách trắng trợn. Iofur Raknison đã tống ta vào đây. Một ngày nào đó ta sẽ thoát ra, cứ chờ xem. Ta sẽ là Hiệu phó, phải rồi. Lúc đó cứ để Trelawney đến cầu xin ơn huệ của ta! Cứ để Ủy ban Phát hành của Viện Bắc Cực Hoàng Gia bác bỏ những đóng góp của ta đi! Ha! Ta sẽ vạch trần tất cả bọn chúng!”
“Cháu cho rằng Iorek Byrnison sẽ tin ông, khi ông ấy quay lại,” Lyra nói.
“Iorek Byrnison? Đợi hắn chẳng ích gì đâu. Hắn sẽ không bao giờ quay lại.”
“Ông ấy đang trên đường đến.”
“Thế thì chúng sẽ giết hắn. Hắn không phải một con gấu, cháu thấy đấy. Hắn là một kẻ bị ruồng bỏ. Như ta đây. Bị giảm giá trị, vậy đấy. Không có quyền hưởng bất cứ một đặc quyền nào của loài gấu.”
“Nhưng cứ cho là Iorek Byrnison có quay lại đi ạ,” Lyra nói. “Cứ cho là ông ấy thách đấu với Iofur Raknison…”
“Ồ, chúng không để chuyện đó xảy ra đâu,” ông Giáo sư quả quyết nói. “Iofur sẽ không bao giờ hạ mình để thừa nhận quyền giao đấu với hắn của Iorek Byrnison đâu. Không hề có một quyền nào. Giờ thì Iorek chẳng khác gì một con hải cẩu, hay một con moóc, chứ không phải là gấu. Hay tồi tệ hơn: người Tartar hoặc người Skraeling. Chúng sẽ không đấu với hắn một cách tôn kính như với một con gấu; chúng sẽ giết hắn bằng máy ném lửa trước khi hắn tới được gần. Không hi vọng. Không thương xót.”
“Ôi,” Lyra thốt lên, một nỗi tuyệt vọng đè nặng lên lồng ngực cô. “Còn những tù nhân khác của lũ gấu thì sao ạ? Ông có biết chúng nhốt họ ở đâu không?”
“Những tù nhân khác?”
“Kiểu như… Ngài Asriel ấy.”
Đột nhiên thái độ của Giáo sư thay đổi hoàn toàn. Ông co rúm người lại rồi ép mình vào tường, lắc đầu quầy quậy vẻ cảnh cáo.
“Suỵt! Yên lặng! Chúng nghe thấy bây giờ!” Ông ta thì thầm.
“Tại sao chúng ta lại không được nhắc đến Ngài Asriel?”
“Cấm tiệt! Nguy hiểm lắm! Iofur Raknison sẽ không cho phép tên ông ta được nhắc đến đâu!”
“Tại sao ạ?” Lyra hỏi, tiến lại gần và thì thầm để không làm ông hoảng sợ.
“Việc giam giữ Ngài Asriel là một nhiệm vụ đặc biệt mà Ủy ban Hiến tế giao phó cho Iofur,” ông già thì thầm lại. “Đích thân Phu nhân Coulter đã tới đây gặp Iofur và đề nghị đủ loại phần thưởng để giữ Ngài Asriel khỏi cản đường bà ta. Ta biết về điều đó, cháu thấy đấy, vì lúc đó ta vẫn được Iofur sủng ái. Ta đã gặp Phu nhân Coulter! Phải. Ta đã nói chuyện rất lâu với bà ta. Iofur đã bị bà ta làm cho mê muội. Cứ nói về bà ta không ngừng. Sẵn sàng làm mọi thứ vì bà ta. Nếu bà ta muốn Ngài Asriel bị giam cách xa một trăm dặm, việc đó sẽ xảy ra. Bất cứ điều gì vì bà ta, bất cứ điều gì. Hắn còn định đặt tên thủ đô của mình theo tên bà ta, cháu có biết điều đó không?”
“Vậy hắn sẽ không để cho bất cứ ai đến gặp Ngài Asriel ạ?
“Không! Không đời nào! Nhưng hắn cũng sợ Ngài Asriel, cháu biết đấy. Iofur đang chơi một ván khó nhằn. Nhưng hắn rất không ngoan. Hắn đã làm những việc mà cả hai bên đều muốn. Hắn giam cách li Ngài Asriel để làm vui lòng Phu nhân Coulter; và hắn để cho Ngài Asriel có tất cả những dụng cụ mà ông ta cần, để làm ông ta vừa lòng. Thế cân bằng này không thể kéo dài lâu. Quá bấp bênh. Làm vừa lòng cả hai bên. Hả? Hàm sóng của tình trạng này sẽ sụp đổ sớm thôi. Ta có thông tin này nhờ một nguồn đáng tin cậy.”
“Thật ạ?” Lyra nói trong lúc tâm trí đang ở chỗ khác, đăm chiêu nghĩ về những điều ông già vừa mới nói.
“Phải. Lưỡi linh thú của ta có thể cảm nhận được những điều có thể xảy ra, cháu biết đấy.”
“Vâng. Linh thú của cháu cũng vậy. Khi nào thì họ cho chúng ta ăn vậy, Giáo sư?”
“Cho chúng ta ăn?”
“Chắc hẳn một lúc nào đó họ sẽ phải cho thức ăn vào, nếu không chúng ta sẽ chết đói mất. Trên sàn lại còn có xương nữa. Cháu đoán đó là xương hải cẩu, đúng không ạ?”
“Hải cẩu… Ta không biết. Chắc vậy.”
Lyra đứng dậy rồi lần ra cửa. Nó không hề có tay cầm, hẳn nhiên rồi, không cả lỗ khoá, nó khít vào tường ở cả trên lẫn dưới đến mức không một tia sáng lọt qua nổi. Cô bé ép sát tai vào đó nhưng cũng chẳng nghe thấy gì. Phía sau, ông già đang lầm bầm gì đó một mình. Cô nghe thấy tiếng bộ xích leng keng khi ông khó nhọc xoay người nằm sang hướng khác, chẳng mấy chốc ông đã bắt đầu ngáy.
Cô bé lần trở lại chiếc ghế bành. Pantalaimon kiệt sức vì tỏa sáng đã biến thành một con dơi, hình dạng rất phù hợp với nó; nó bay quanh, khẽ kêu lên chít chít trong lúc Lyra ngồi cắn móng tay.
Đột nhiên, không hề báo trước, cô bé nhớ lại những điều mình đã nghe Giáo sư Palmerian nói trong Phòng nghỉ lúc đó. Có thứ gì đó cứ quấy nhiễu cô kể từ khi Iorek Byrnison lần đầu nhắc đến tên của Iofur, và giờ thì kí ức đã trở lại: thứ mà Iofur Raknison khao khát hơn mọi thứ khác, Giáo sư Trelawney đã nói, là một con linh thú.
Đương nhiên cô bé đã không hiểu được ý ông muốn nói điều gì; ông đã nhắc đến từ panserbjørne thay vì sử dụng tiếng Anh, nên cô đã không biết rằng ông đang nói về loài gấu, mà cô lại không hề biết rằng Iofur Raknison không phải là con người. Một con người thì sẽ có linh thú nên điều đó thật chẳng có nghĩa gì cả.
Nhưng giờ thì đã quá rõ ràng. Mọi thứ cô từng nghe về vua gấu càng làm sáng tỏ thêm: Iofur Raknison hùng mạnh không muốn điều gì hơn là được trở thành con người, với một linh thú của riêng mình.
Và khi nghĩ tới điều đó, một kế hoạch nảy ra trong đầu cô: cách khiến Iofur Raknison làm điều mà thông thường hắn sẽ không bao giờ làm; cách trao trả lại Iorek Byrnison ngai vàng hợp pháp của nó; cách mà cuối cùng cũng đưa họ tới được nơi Ngài Asriel đang bị giam giữ và đem chiếc Chân Kế đến cho ông.
Ý tưởng đó cứ lởn vởn và khẽ lung linh như một bong bóng xà phòng, khiến cô không dám nhìn thẳng vào, chỉ sợ làm nó vỡ. Nhưng do đã quá quen với hành vi của những ý tưởng, cô cứ để nó lung linh mà ngoảnh đi, nghĩ về việc khác.
Lyra vừa mới chợp mắt thì then cài cửa kêu lên lạch cạch, cánh cửa mở ra và ánh sáng tràn vào. Cô lập tức đứng bật dậy, Pantalaimon nhanh chóng trốn vào túi áo cô.
Ngay khi tên lính gác gấu cúi đầu xuống nâng tảng thịt hải cẩu và ném vào trong, cô bé đã đứng cạnh hắn và nói:
“Đưa tôi tới gặp Iofur Raknison. Ông sẽ gặp rắc rối nếu không làm thế. Việc này rất khẩn cấp.”
Nó thả rơi miếng thịt đang ngậm trong hàm rồi nhìn lên. Thật không dễ dàng để có thể đọc được biểu cảm của gấu, nhưng trông nó có vẻ giận dữ.
“Là về Iorek Byrnison ” cô vội nói. “Tôi biết vài điều về ông ta, và nhà vua cần được biết.”
“Cứ nói cho ta đi, ta sẽ truyền tin lại,” con gấu nói.
“Đâu thể để người khác biết trước cả nhà vua được,” cô nói. “Tôi xin lỗi, tôi không muốn thất lễ, nhưng ông thấy đấy luật là nhà vua phải được biết mọi việc trước nhất.”
Có lẽ con gấu khá là ngờ nghệch. Dù sao thì nó cũng ngập ngừng, rồi nó ném tảng thịt vào xà lim trước khi nói: “Rõ rồi. Đi với ta.”
Lyra thấy cả người khoan khoái khi con gấu dẫn cô ra bầu không khí thoáng đãng. Sương mù đã tan và những vì sao đang lấp lánh phía trên khoảnh sân quây tường cao. Tên lính gác hội ý với một con gấu khác, tên này liền ra nói chuyện với cô.
“Ngươi không thể tùy ý gặp Iofur Raknison được,” nó nói.
“Ngươi phải đợi đến khi ngài muốn gặp ngươi.”
“Nhưng chuyện tôi cần nói với ngài ấy gấp lắm,” cô nói. “Đó là về Iorek Byrnison. Tôi đảm bảo Đức vua muốn biết, nhưng dù vậy tôi cũng không thể nói với bất cứ ai khác được, các ông không thấy sao? Như vậy là không lịch sự. Ngài sẽ rất tức giận nếu biết chúng ta không cư xử lịch sự.”
Xem chừng câu nói đó có chút sức nặng hoặc khiến con gấu hoang mang đủ để phải ngừng lại. Lyra biết chắc mình đã hiểu đúng sự việc: Iofur Raknison đang đưa vào quá nhiều cách thức mới khiến không con gấu nào chắc chắn được phải cư xử như thế nào cho đúng, và cô có thể khai thác sự không chắc chắn này để tới gặp được Iofur.
Vậy là con gấu lùi lại để hỏi ý kiến cấp trên, và chẳng bao lâu sau Lyra đã lại được dẫn vào cung điện, nhưng lần này là vào phòng ngai vàng. Ở đây cũng chẳng sạch sẽ hơn gì, thậm chí còn khó thở hơn cả trong xà lim, bởi vì tất cả những thứ mùi hôi thối tự nhiên đều bị át bởi một lớp dày đặc nước hoa có mùi ngọt ngào giả tạo. Cô bé bị bắt đợi trong một hành lang, rồi một phòng chờ, rồi bên ngoài một cánh cửa lớn, trong khi lũ gấu thảo luận, tranh cãi và hối hả chạy qua chạy lại, cho cô thời gian nhìn xung quanh những đường nét trang trí đầy lố bịch: các bức tường được trát vàng dày cộp, một vài trong số đó đã bị tróc lở vì ẩm, còn những tấm thảm sặc sỡ thì bám đầy rác bẩn.
Cuối cùng cánh cửa lớn cũng mở ra từ phía trong. Một luồng sáng chói lòa từ sáu bộ đèn chùm, tấm thảm trải đỏ thắm, mùi nước hoa càng thêm đậm đặc lởn vởn trong không khí; và khuôn mặt của chục con gấu hoặc hơn, tất cả đều đang nhìn cô chằm chằm, không con nào mặc giáp nhưng tất cả đều đeo trang sức: vòng cổ vàng, khăn trùm đầu gắn lông tím, khăn choàng vai màu đỏ thẫm. Ngạc nhiên là căn phòng cũng có rất nhiều chim; nhạn biển và chim cướp biển đậu trên mái đua trát vữa, thỉnh thoảng lại nhào xuống thấp để vồ lấy những miếng cá rớt ra khỏi tổ của nhau trong những bộ đèn chùm.
Trên một bục phía tít cuối phòng, một ngai vàng bề thế dựng lên cao vút. Nó được làm từ đá granit thể hiện sức mạnh và sự đồ sộ, nhưng cũng giống như rất nhiều đồ vật khác trong cung điện của Iofur, nó được trạm trổ những đường cong và tràng hoa mạ vàng cầu kì quá sức trông như thứ đồ hào nhoáng rẻ tiền trên sườn núi vậy.
Ngồi trên ngai là con gấu to lớn nhất cô từng thấy. Iofur Raknison thậm chí còn cao lớn hơn cả Iorek, gương mặt nó lanh lợi và diễn cảm hơn nhiều, với một vẻ gì đó rất “người” mà cô bé chưa từng nhìn thấy ở Iorek. Khi Iofur nhìn cô, cô có cảm giác như một người đàn ông đang nhìn ra từ đôi mắt của mình, một kiểu người cô đã gặp ở nhà Phu nhân Coulter, một chính trị gia khôn khéo đã quen với quyền lực. Nó đeo một sợi xích vàng nặng nề đính một viên đá quý loè loẹt quanh cổ, còn bộ móng của nó - dài hẳn sáu tấc - toàn bộ được phủ vàng lá. Con gấu này đem lại ấn tượng về một kẻ sở hữu sức mạnh, năng lượng và mánh khóe khủng khiếp; nó đủ to lớn để thồ được đống trang sức quá đà và ngớ ngẩn, nhưng trông chúng không lố bịch trên người nó, mà lại có vẻ man rợ và hoành tráng.
Cô bé trở nên nao núng. Đột nhiên ý tưởng của cô dường như quá kém cỏi để diễn tả thành lời.
Nhưng cô tiến lại gần hơn một chút, vì cô phải làm như vậy, và rồi cô thấy rằng Iofur đang giữ một vật gì đó trên đầu gối mình, giống như một người có thể để một con mèo ngồi trên đó - hoặc một con linh thú.
Đó là một con búp bê nhồi bông cỡ bự, một hình nộm với khuôn mặt người trống rỗng và ngờ nghệch. Nó ăn vận giống phong cách của Phu nhân Coulter, và có vẻ gì đó khá giống với bà. Con gấu đang giả bộ như mình cũng có linh thú. Lúc đó cô bé biết mình đã an toàn.
Cô bước lên gần ngai vàng và cúi chào thật thấp, trong lúc Pantalaimon nằm im không một tiếng động trong túi áo.
“Chúng tôi xin gửi lời chào đến ngài, Đức vua vĩ đại,” cô nói khẽ. “Hay ý tôi là lời chào của tôi, không phải của ông ta.”
“Không phải của ai cơ?” Nó nói, giọng nó nhẹ nhàng hơn cô tưởng tượng, nhưng chứa đầy âm điệu biểu cảm và sự tinh tế. Khi nói, nó vẩy tay lên trước miệng để xua đi lũ ruồi đang bu ở đó.
“Của Iorek Byrnison, thưa Đức vua,” cô đáp. “Tôi có một việc rất quan trọng và bí mật cần nói, và tôi nghĩ mình thật sự cần phải nói riêng với ngài.”
“Việc về Iorek Byrnison à?”
Cô tới gần con gấu, cẩn thận bước trên sàn nhà đầy phân chim và xua lũ ruồi đang vo ve trước mặt mình.
“Việc về linh thú ạ,” cô nói nhỏ để chỉ mình nó nghe được.
Biểu cảm của con gấu liền thay đổi. Lyra không thể đọc nổi nó có nghĩa gì, nhưng rõ ràng là con gấu đang cực kì hứng thú. Đột nhiên nó nhào ra khỏi ngai vàng khiến cô phải nhảy bật sang một bên. Rồi nó rống lên ra lệnh cho những con gấu khác. Tất cả bọn chúng đều cúi đầu rồi lùi lại về phía cửa. Lũ chim đang bay tán loạn vì tiếng rống của con gấu kêu lên quang quác và lượn vòng trên đầu trước khi đậu vào tổ của mình.
Khi phòng ngai vàng đã trống rỗng, chỉ còn lại Iofur Raknison và Lyra, nó liền quay về phía cô vẻ háo hức.
“Sao?” Nó nói. “Cho ta biết ngươi là ai. Chuyện về linh thú là sao?”’
“Tôi là một linh thú, thưa Đức vua,” cô đáp.
Nó dừng khựng lại.
“Của ai cơ?” Con gấu hỏi.
“Của Iorek Byrnison,” là câu trả lời của cô.
Đó là điều nguy hiểm nhất cô từng nói. Cô có thể thấy khá rõ ràng rằng chính sự kinh ngạc đã ngăn nó không giết cô ngay tại chỗ. Cô lập tức nói tiếp:
“Xin Đức vua cho phép, hãy để tôi kể toàn bộ câu chuyện trước khi ngài giết tôi. Như ngài có thể thấy, tôi đã liều mạng tới đây, và tôi chẳng có gì có thể làm hại được ngài cả. Thật ra tôi muốn giúp ngài, đó là lí do tôi đến. Iorek Byrnison là con gấu đầu tiên có linh thú, nhưng đáng ra đó phải là ngài. Tôi cũng muốn được làm linh thú của ngài hơn là của ông ta, nên tôi đã đến đây.”
“Làm thế nào?” Nó nín thở hỏi. “Làm thế nào gấu có linh thú được? Và tại sao lại là hắn? Làm sao ngươi có thể rời xa khỏi hắn đến vậy?”
Lũ ruồi bay ra khỏi mồm nó như những từ ngữ nhỏ xíu.
“Việc đó đơn giản thôi. Tôi có thể rời xa khỏi ông ta vì tôi giống như linh thú của phù thủy vậy. Ngài biết là họ có thể rời khỏi chủ nhân của mình hàng trăm dặm không? Giống như vậy đó. Còn về việc ông ta có được tôi như thế nào thì đó là tại Bolvangar. Ngài đã nghe về Bolvangar, vì Phu nhân Coulter hẳn đã kể với ngài về nơi đó, nhưng có lẽ bà ta đã không kể với ngài toàn bộ những việc họ đang làm tại đó.”
“Cắt…” Nó nói.
“Phải, cắt, đó chỉ là một phần, phẫu thuật cắt đứt. Nhưng họ còn đang tiến hành đủ thứ khác nữa, ví dụ như tạo ra các linh thú nhân tạo. Cả thí nghiệm trên động vật nữa. Khi Iorek Byrnison nghe được chuyện, ông ta đã tự nguyện hiến mình làm thí nghiệm để xem họ có thể tạo ra một con linh thú cho ông ta hay không, và họ đã làm được. Đó là tôi. Tên tôi là Lyra. Cũng giống như khi con người có linh thú, chúng sẽ ở dạng động vật, vì vậy khi gấu có linh thú, nó sẽ ở dạng người. Và tôi là linh thú của ông ta. Tôi có thể nhìn thấu tâm trí ông ta để biết chính xác ông ta đang làm gì, đang ở đâu và…”
“Giờ hắn đang ở đâu?”
“Ở Svalbard. Ông ta đang tới đây nhanh nhất có thể.”
“Tại sao? Hắn muốn gì? Hắn ta điên rồi! Bọn ta sẽ xé xác hắn thành nghìn mảnh!”
“Ông ta muốn tôi. Ông ta tới để giành lại tôi. Nhưng tôi không muốn làm linh thú của ông ta, Iofur Raknison, tôi muốn phục vụ ngài. Vì khi thấy một con gấu có linh thú hùng mạnh đến ngần nào, những người ở Bolvangar đã quyết định sẽ không bao giờ thực hiện thí nghiệm đó nữa. Iorek Byrnison sẽ trở thành con gấu duy nhất sở hữu linh thú. Với sự giúp đỡ của tôi, ông ta có thể lãnh đạo toàn bộ loài gấu chống lại ngài. Đó là lí do ông ta tới Svalbard.”
Vua gấu gầm lên giận giữ. Nó gầm lớn đến mức khiến pha lê trong các bộ đèn chùm rung lên leng keng, toàn bộ lũ chim trong gian phòng khổng lồ rít lên sợ hãi, còn tai Lyra thì ù đi.
Nhưng cô đủ sức chịu ngần đó áp lực.
“Đó là lí do tôi thích ngài nhất,” cô bé nói với Iofur Raknison, “vì ngài tràn đầy nhiệt huyết, mạnh mẽ, lại còn thông minh nữa. Tôi chỉ cần rời bỏ ông ta để đến nói với ngài, vì tôi không muốn ông ta thống trị loài gấu. Đó phải là vị trí của ngài. Có một cách để cướp tôi từ ông ta và khiến tôi trở thành linh thú của ngài, nhưng ngài sẽ không biết nó là gì trừ khi tôi nói. Có lẽ ngài sẽ dùng cách thông thường để đấu với những con gấu bị vứt bỏ như ông ta; ý tôi là, ngài sẽ không đấu hẳn hoi mà giết ông ta bằng máy ném lửa hay thứ gì đó. Nếu làm như vậy, tôi sẽ vụt tắt như một tia sáng và chết cùng với ông ta.”
“Nhưng ngươi - làm sao có thể…”
“Tôi có thể trở thành linh thú của ngài,” cô nói, “nhưng chỉ khi ngài hạ gục Iorek Byrnison trong một trận đấu tay đôi. Khi đó sức mạnh của ông ta sẽ truyền vào ngài, tâm trí của tôi cũng sẽ nhập vào tâm trí ngài và chúng ta sẽ như hòa làm một, nghĩ những suy nghĩ của nhau; rồi ngài có thể cử tôi đi hàng dặm để do thám cho ngài, hoặc giữ tôi ở đây bên cạnh, tùy ý ngài muốn. Tôi sẽ giúp ngài lãnh đạo bầy gấu đến chiếm Bolvangar, nếu ngài muốn, và bắt họ tạo ra thêm linh thú cho những con gấu yêu thích của ngài; hoặc nếu ngài muốn mình là con gấu duy nhất có linh thú, chúng ta có thể xóa sổ Bolvangar vĩnh viễn. Chúng ta có thể làm mọi thứ, Iofur Raknison, hai ta với nhau!”
Suốt cả thời gian đó, Lyra giữ Pantalaimon trong túi áo bằng bàn tay run rẩy, còn con linh thú thì nằm im nhất có thể, trong dạng chuột nhỏ nhất nó từng biến thành.
Iofur Raknison đang đi qua đi lại với vẻ phấn khích như muốn bùng nổ.
“Đấu tay đôi à?” Nó nói. “Ta ư? Ta phải đấu với Iorek Byrnison? Không thể nào! Hắn là kẻ bị ruồng bỏ! Sao có thể như vậy được? Làm sao ta có thể đấu với hắn đây? Đó là cách duy nhất sao?”
“Đó là cách duy nhất,” Lyra nói, ước gì nó không phải như vậy, vì Iofur Raknison càng ngày càng có vẻ bự con và dữ tợn hơn. Dù cho rất yêu mến và tin tưởng Iorek, cô bé vẫn không thể thực sự tin tưởng rằng nó sẽ đánh bại được tên khổng lồ trong số những con gấu khổng lồ này. Nhưng đó là hi vọng duy nhất họ có. Nếu để bị quật ngã từ xa bởi máy ném lửa thì chẳng còn hi vọng gì cả.
Đột nhiên Iofur Raknison quay lại.
“Chứng minh đi!” Nó nói. “Chứng minh rằng ngươi là một linh thú đi!”
“Được thôi,” cô đáp. “Tôi có thể làm thế, đơn giản. Tôi có thể tìm ra bất cứ thứ gì ngài biết mà không ai khác biết, một thứ mà chỉ có linh thú mới có thể tìm ra được.”
“Vậy nói cho ta biết sinh vật đầu tiên ta giết là gì.”
“Tôi sẽ phải ở một mình trong một căn phòng để làm điều này,” cô nói. “Khi tôi là linh thú của ngài, ngài sẽ có thể thấy cách tôi làm, nhưng cho tới lúc đó đây là việc riêng tư.”
“Có một phòng khách ở đằng sau phòng này. Cứ vào trong đó rồi ra khi nào ngươi biết được câu trả lời.”
Lyra mở cửa và thấy mình đang đứng trong một căn phòng được thắp sáng bởi một ngọn đuốc, nó trống trơn ngoài một cái tủ làm từ gỗ dái ngựa chứa vài thứ đồ trang trí bằng bạc đã mờ xỉn đi. Cô bé lấy Chân Kế ra và hỏi: “Giờ Iorek đang ở đâu?”
“Cách đây bốn giờ đồng hồ, đang tiến tới ngày một nhanh hơn.”
“Làm sao để nói với ông ấy việc tôi vừa làm?”
“Cô phải tin ông ta.”
Cô bé lo lắng nghĩ về việc Iorek sẽ mệt biết chừng nào khi tới nơi. Nhưng rồi cô tự khiển trách bản thân rằng mình đang không nghe theo lời chiếc Chân Kế vừa nói: cô không tin tưởng con gấu.
Cô gạt suy nghĩ đó sang một bên rồi đặt câu hỏi mà Iofur Raknison muốn. Sinh vật đầu tiên nó giết là gì?
Câu trả lời đến: cha đẻ của Iofur.
Cô hỏi sâu thêm và biết được rằng khi còn là một con gấu non, Iofur đã ở một mình trên băng trong chuyến đi săn đầu tiên của mình, và đã bắt gặp một con gấu đơn độc. Chúng tranh cãi rồi giao đấu, và Iofur đã giết nó. Sau đó khi biết được rằng đó chính là cha mình (vì gấu được mẹ nuôi nấng, chúng hiếm khi thấy cha mình) nó đã che giấu sự thật về việc mình đã làm. Không ai biết về chuyện đó ngoại trừ chính bản thân Iofur.
Cô bé cất chiếc Chân Kế đi và tự hỏi làm thế nào để nói với nó về điều đó.
“Tâng bốc hắn đi!” Pantalaimon thì thầm. “Đó là tất cả những gì hắn muốn.”
Vậy là Lyra mở cửa và thấy Iofur Raknison đang chờ mình với vẻ mặt đắc thắng, ranh mãnh, thấu hiểu và tham lam.
“Sao hả?”
Cô bé quỳ xuống trước mặt con gấu rồi cúi đầu chạm vào tay trái của nó, bên tay khỏe hơn, vì gấu thuận tay trái.
“Xin thứ lỗi cho tôi, Iofur Raknison!” Cô bé nói. “Tôi đã không biết ngài mạnh mẽ và vĩ đại đến vậy!”
“Gì thế này? Trả lời câu hỏi của ta đi!”
“Sinh vật đầu tiên ngài giết là cha của chính ngài. Tôi cho rằng ngài là một vị thánh mới giáng trần, Iofur Raknison ạ. Chắc chắn là như vậy. Chỉ có thánh mới có sức mạnh để làm điều đó.”
“Ngươi biết điều đó! Ngươi thật sự có thể thấy được!”
“Vâng, vì tôi là một linh thú, như tôi đã nói.”
“Nói cho ta nghe một việc nữa. Quý bà Coulter đã hứa với ta điều gì khi bà ta ở đây?”
Một lần nữa Lyra lại vào căn phòng trống và hỏi chiếc Chân Kế trước khi quay trở lại cùng với câu trả lời.
“Bà ta hứa với ngài là sẽ thuyết phục Huấn Quyền tại Geneva đồng ý cho ngài được rửa tội như một tín đồ Cơ Đốc giáo, dù cho lúc đó ngài chưa có linh thú. Chà, tôi e rằng bà ta vẫn chưa làm việc đó đâu, Iofur Raknison ạ, mà nói thật tôi không nghĩ họ sẽ chịu đồng thuận việc đó nếu ngài không có linh thú. Tôi nghĩ bà ta biết điều đó nhưng không chịu nói sự thật cho ngài. Dù thế nào thì khi đã có tôi làm linh thú, ngài có thể được rửa tội nếu muốn, vì lúc đó chẳng ai có thể tranh cãi được nữa. Ngài có thể yêu cầu việc đó và họ sẽ không thể từ chối được.”
“Phải… Đúng thế. Đó là những gì bà ta nói. Đúng từng từ một. Bà ta dám lừa dối ta à? Ta đã tin tưởng mà bà ta dám lừa ta?”
“Đúng vậy. Nhưng bà ta không còn quan trọng nữa rồi. Xin thứ lỗi, thưa Iofur Raknison. Hi vọng ngài không phiền khi tôi nhắc rằng lúc này Iorek Byrnison chỉ còn cách chúng ta bốn giờ đồng hồ, có lẽ ngài nên dặn đám lính gác gấu không được tấn công ông ta như thông thường họ sẽ làm. Nếu ngài định giao đấu với ông ta để giành lấy tôi, ông ta sẽ phải được phép vào tới Cung điện.”
“Phải…”
“Có lẽ khi ông ta tới, tôi nên giả vờ mình vẫn thuộc về ông ta, và nói rằng tôi đã bị lạc hay gì đó. Ông ta sẽ không biết được đâu. Tôi sẽ giả bộ. Ngài có định nói với những con gấu khác về việc tôi là linh thú của Iorek và sẽ thuộc về ngài khi ngài đánh bại ông ta không?”
“Ta không biết… Ta nên làm gì?”
“Tôi nghĩ ngài đừng vội nhắc tới nó làm gì. Khi chúng ta đã về bên nhau, ngài và tôi, chúng ta có thể suy xét làm thế nào là tốt nhất rồi quyết định. Việc ngài cần làm bây giờ là giải thích với tất cả những con gấu khác lí do vì sao lại để Iorek giao đấu với mình như một con gấu thực thụ, mặc dù ông ta là kẻ bị ruồng bỏ. Bởi vì họ sẽ không hiểu nên chúng ta phải tìm một lí do cho việc đó. Ý tôi là, dù gì họ cũng sẽ làm theo những điều ngài sai bảo thôi, nhưng nếu hiểu được lí do, họ sẽ càng thêm ngưỡng mộ ngài.”
“Phải. Chúng ta nên nói gì với họ?”
“Nói với họ… Nói với họ rằng để khiến cho vương quốc của mình tuyệt đối an toàn, ngài đã cho gọi Iorek Byrnison đến giao đấu, và kẻ thắng cuộc sẽ thống trị loài gấu vĩnh viễn. Ngài thấy đấy, nếu làm ra vẻ như việc ông ta đến là ý tưởng của ngài chứ không phải tự ông ta, họ sẽ bị ấn tượng sâu sắc. Họ sẽ nghĩ rằng ngài có thể gọi ông ta đến đây từ một nơi rất xa. Họ sẽ nghĩ rằng ngài có thể làm được mọi thứ.”
“Phải…”
Con gấu khổng lồ không còn lựa chọn nào khác. Ảnh hưởng của cô lên con gấu gần như khiến Lyra mê mẩn. Nếu Pantalaimon không cắn mạnh vào tay cô để nhắc nhở về mối nguy hiểm mà chúng đang vướng phải, có lẽ cô đã mất hết ý thức về sự cân bằng.
Nhưng cô đã trở lại làm chính mình, cô khiêm tốn lùi lại nhìn và chờ đợi trong lúc lũ gấu, dưới sự chỉ đạo đầy hưng phấn của Iofur, chuẩn bị sàn đấu cho Iorek Byrnison. Trong lúc đó Iorek, không biết gì về việc này, đang lao đến ngày càng gần, về phía thứ mà cô ước mình có thể báo với nó là cuộc chiến một mất một còn.