- 5 - Giấy viết thư máy bay
“Will,” Lyra gọi.
Cô bé dù nói rất khẽ cũng khiến cậu giật nảy mình. Cậu không hề nhận ra cô đang ngồi trên chiếc trường kỉ bên cạnh mình.
“Cậu từ đâu tới vậy?”
“Tớ tìm thấy học giả của mình rồi! Là Tiến sĩ Malone. Bà ấy có một cái máy có thể nhìn được Bụi và bà ấy sẽ làm cho nó nói được…”
“Tớ không thấy cậu đến.”
“Cậu có nhìn đâu,” cô nói. “Chắc là cậu đang nghĩ đến chuyện khác. May mà tớ tìm được cậu. Này, lừa người khác dễ lắm. Cậu nhìn nhé…”
Hai sĩ quan cảnh sát đang tiến về phía chúng; một người đàn ông và một người phụ nữ đi tuần trong bộ y phục mùa hè màu trắng, cùng với máy bộ đàm, dùi cui và đôi mắt đầy hồ nghi. Họ chưa kịp đến chỗ trường kỉ thì Lyra đã đứng dậy bắt chuyện với họ.
“Làm ơn chỉ cho cháu Bảo tàng ở đâu với,” cô nói. “Cháu và anh trai đáng ra phải gặp cha mẹ mình ở đó nhưng bọn cháu lại bị lạc.”
Viên cảnh sát nhìn Will còn Will thì cố nén cơn giận và nhún vai như để nói cô bé nói đúng, chúng tôi bị lạc rồi, thật ngớ ngẩn phải không. Người đàn ông mỉm cười. Người phụ nữ nói: “Bảo tàng nào cơ? Ashmolean à?”
“Vâng, là nó ạ,” Lyra đáp rồi giả vờ chăm chú lắng nghe chỉ dẫn của người phụ nữ.
Will đứng dậy nói “Cảm ơn,” rồi cậu và Lyra cùng đi. Chúng không quay lại nhìn, nhưng hai sĩ quan đã không còn hứng thú nữa rồi.
“Thấy không?” Cô nói. “Nếu họ đang lùng tìm cậu thì tớ đã ngăn chặn việc đó rồi. Vì họ sẽ không kiếm một cậu nhóc có em gái đâu. Tốt hơn hết là từ giờ tớ nên đi cùng cậu,” cô nói tiếp vẻ trách móc khi chúng đã rẽ qua góc phố. “Cậu đi một mình không an toàn đâu.”
Cậu bé không nói gì. Tim cậu đang lồng lên vì giận dữ. Hai đứa sóng bước về phía một tòa nhà tròn trịa với đỉnh tròn khổng lồ nặng nề, đặt trong một quảng trường bao bởi những tòa nhà học viện bằng đá màu mật ong, nhà thờ và các thân cây tán rộng phía trên những bức tường cao quanh vườn. Mặt trời buổi chiều làm bừng lên những sắc thái ấm áp nhất trên vạn vật, có cảm giác như bầu không khí cũng thấm đượm thứ màu của loại rượu vàng óng đậm đà. Toàn bộ lá cây đều lặng như tờ, và trong khu quảng trường nhỏ bé này, thậm chí cả tiếng ồn do xe cộ cũng bị bịt lại.
Cuối cùng cô bé cũng nhận ra cảm xúc của Will, cô hỏi: “Có chuyện gì thế?”
“Cậu mà nói chuyện với người khác thì chỉ tổ gây chú ý thôi,” cậu bé nói bằng giọng run rẩy. “Cậu mà cứ ngoan ngoãn im lặng thì người ta đã bỏ qua rồi. Tớ vẫn làm thế suốt. Tớ biết cách. Cách của cậu, cậu chỉ - cậu khiến bản thân bị chú ý. Cậu không nên làm vậy. Đừng có đùa giỡn nữa. Cậu chẳng nghiêm túc gì cả.”
“Cậu nghĩ vậy à?” Cô nói, cơn giận bùng lên. “Cậu nghĩ tớ không biết cách nói dối hay gì sao? Tớ là kẻ nói dối tài ba nhất từng xuất hiện. Nhưng tớ không hề nói dối cậu, và sẽ không bao giờ làm vậy, thề luôn. Cậu đang gặp nguy hiểm, và nếu tớ không làm việc vừa làm thì cậu đã bị tóm rồi. Cậu không thấy họ đang nhìn mình à? Họ đã nhìn cậu đấy. Cậu không cẩn thận chút nào. Nếu cậu muốn ý kiến của tớ thì chính cậu mới là đứa không nghiêm túc.”
“Tớ mà không nghiêm túc thì cứ vẩn vơ đợi cậu làm gì trong khi tớ đã có thể cao chạy xa bay rồi? Hoặc trốn đi cho khuất mắt, an toàn ở cái thành phố kia? Tớ cũng có việc cần làm nhưng lại phải lởn vởn ở đây để có thể giúp cậu. Đừng có nói với tớ là tớ không nghiêm túc.”
“Cậu cần phải vượt qua,” cô bé giận dữ nói. Không ai được phép nói với cô như vậy: cô là một quý tộc. Cô là Lyra. “Cậu phải làm được, nếu không cậu sẽ không bao giờ tìm hiểu được bất cứ điều gì về bố mình. Cậu làm vậy là cho bản thân, không phải cho tớ.”
Hai đứa trẻ hăng máu cãi nhau, nhưng cố gắng kìm giọng vì sự tĩnh lặng trong quảng trường và những người đang đi lại gần đó. Tuy nhiên, khi nghe cô nói vậy, Will lập tức ngừng lại. Cậu bé phải tựa người vào bức tường của học viện phía sau lưng. Mặt cậu tái nhợt đi.
“Cậu thì biết gì về bố tớ chứ?” Cậu nói thật khẽ.
Cô bé đáp lại bằng giọng y hệt. “Tớ không biết gì cả. Tớ chỉ biết là cậu đang đi tìm ông ấy. Tớ chỉ hỏi mỗi chuyện đó thôi.”
“Hỏi ai cơ?”
“Chân Kế, đương nhiên rồi.”
Phải mất một lúc cậu bé mới nhớ ra cái mà cô bé nói đến là gì. Rồi trông cậu tức giận và nghi ngờ đến mức cô phải lấy cái máy ra khỏi balô và nói: “Được rồi, tớ sẽ cho cậu xem.”
Cô ngồi xuống lề đường lát đá quanh bãi cỏ giữa quảng trường, cúi đầu xuống thiết bị bằng vàng và bắt đầu vặn núm. Những ngón tay cô cử động nhanh đến mức gần như không thể thấy nổi, cô nghỉ vài giây trong lúc cái kim mảnh quét quanh, dừng lại ở chỗ này chỗ kia, rồi lại vặn các kim sang vị trí mới cũng nhanh không kém lúc trước. Will cẩn thận nhìn xung quanh, nhưng không có ai ở gần đó để có thể thấy được; một đoàn du lịch ngắm nghía tòa nhà đỉnh tròn, một người bán kem đẩy xe dọc theo vỉa hè, nhưng họ đang chú ý tới chỗ khác.
Lyra chớp mắt và thở dài như thể vừa mới tỉnh dậy sau một giấc ngủ.
“Mẹ cậu đang bị bệnh,” cô khẽ nói. “Nhưng bà ấy vẫn an toàn. Có một người phụ nữ đang chăm lo cho bà ấy. Cậu đã lấy đi vài bức thư và bỏ trốn. Có một người đàn ông, tớ nghĩ ông ta là kẻ trộm, cậu đã giết ông ta. Cậu đang tìm bố mình, và…”
“Được rồi, im đi,” Will nói. “Thế là đủ rồi. Cậu không có quyền nhòm ngó đời tư của tớ như thế. Đừng bao giờ làm vậy nữa. Như thế là nhìn lén.”
“Tớ biết khi nào cần ngừng hỏi,” cô nói. “Thấy không, Chân Kế cũng giống như con người vậy, gần như thế. Tớ có thể biết được khi nào thì nó sắp cáu hay khi nào thì có những thứ nó không muốn tớ biết. Kiểu như là tớ có thể cảm nhận được ấy. Nhưng khi cậu đột nhiên xuất hiện vào ngày hôm qua, tớ đã phải hỏi nó xem cậu là ai, nếu không tớ có thể bị nguy hiểm. Tớ buộc phải làm vậy. Và nó nói…” Giọng cô lại hạ xuống. “Nó nói cậu là một kẻ giết người, tớ đã nghĩ là tốt quá, không sao hết, cậu là người tớ có thể tin tưởng. Nhưng tớ không hỏi thêm cho tới tận lúc nãy. Nếu cậu không muốn tớ hỏi nữa, tớ hứa sẽ không làm. Đây không phải là trò xem ảnh qua lỗ ngắm. Nếu tớ không làm gì khác ngoài việc nhòm ngó mọi người, Chân Kế sẽ dừng hoạt động. Tớ biết điều đó rõ như biết về Oxford của mình vậy.”
“Mấy chuyện đó cậu có thể hỏi tớ thay vì cái máy. Nó có nói bố tớ còn sống hay đã chết không?”
“Không, vì tớ không hỏi.”
Lúc này cả hai đều đang ngồi. Will kiệt sức vùi đầu vào hai bàn tay.
“Chậc,” cuối cùng cậu lên tiếng, “tớ nghĩ là bọn mình sẽ phải tin tưởng lẫn nhau thôi.”
“Không sao. Tớ tin cậu mà.”
Will nghiêm nghị gật đầu. Cậu đã quá mệt mỏi, mà ở thế giới này thì chẳng có một chút khả năng nào là cậu sẽ được ngủ. Thông thường Lyra không nhạy cảm đến vậy, nhưng có điều gì đó trong dáng vẻ của cậu khiến cô nghĩ: cậu ấy đang sợ hãi, nhưng cậu đã làm chủ nỗi sợ của mình, giống như điều Iorek Byrnison nói chúng mình phải làm; giống như việc mình đã làm tại căn nhà chứa cá bên cái hồ đóng băng.
“Mà Will ạ,” cô nói thêm, “tớ sẽ không bán đứng cậu đâu, không cho bất cứ ai hết. Hứa đấy.”
“Tốt.”
“Hồi trước tớ đã từng làm vậy. Tớ đã phản bội một người. Đó là điều tồi tệ nhất tớ từng làm. Tớ cứ nghĩ là mình thật ra đang cứu sống cậu ấy, nhưng chính tớ lại dẫn cậu ấy thẳng vào nơi nguy hiểm nhất trên thế giới. Tớ ghét bản thân vì điều đó, vì đã quá ngu ngốc. Vì vậy tớ sẽ cực kì cố gắng để không bất cẩn hay quên đi điều gì, dẫn tới việc phản bội cậu.”
Cậu bé không nói gì. Cậu dụi mắt rồi chớp lia lịa, cố gắng tỉnh táo lại.
“Phải một lúc lâu nữa chúng ta mới có thể trèo qua cái cửa sổ để quay lại được,” cậu nói. “Đáng ra chúng ta không nên đi qua vào giữa ban ngày. Không thể mạo hiểm để bị ai đó nhìn thấy được. Giờ thì ta sẽ phải quanh quẩn hàng giờ đồng hồ…”
“Tớ đói rồi,” Lyra nói.
Rồi cậu nói: “Tớ biết rồi! Chúng ta có thể đến rạp chiếu phim!”
“Rạp gì cơ?”
“Tớ sẽ chỉ cho cậu. Chúng ta cũng có thể kiếm chút thức ăn ở đó nữa.”
Gần trung tâm thành phố có một rạp chiếu phim, cách đó mười phút đi bộ. Will trả tiền vé cho cả hai rồi mua hot dog, bỏng ngô và Coca-Cola. Sau đó chúng mang đồ ăn vào trong và ngồi xuống đúng lúc bộ phim bắt đầu.
Trải nghiệm đó khiến Lyra mê mẩn. Cô bé đã từng thấy ảnh chiếu, nhưng không thứ gì ở thế giới của mình giúp cô sẵn sàng cho rạp chiếu phim. Cô ngấu nghiến ăn hot dog và bỏng ngô, ừng ực uống Coca-Cola, hết há hốc mồm rồi lại cười lớn cùng với niềm vui của các nhân vật trên màn ảnh. May mắn là phòng chiếu đầy ắp trẻ con và rất ồn ào nên sự phấn khích của cô không bị lộ liễu. Will lập tức nhắm mắt lại rồi ngủ thiếp đi.
Cậu tỉnh dậy khi nghe thấy tiếng ghế lạch xạch lúc mọi người đứng lên, ánh sáng khiến cậu phải chớp mắt vài lần. Đồng hồ của cậu chỉ tám giờ mười lăm. Lyra miễn cưỡng rời khỏi phòng chiếu.
“Đó là thứ đỉnh nhất tớ từng được xem trong suốt cuộc đời,” cô bé nói. “Không biết tại sao người ta lại không phát minh ra nó ở thế giới của tớ nữa. Chúng tớ có vài thứ tốt hơn các cậu, nhưng cái này còn tốt hơn bất cứ thứ gì chúng tớ có.”
Will thậm chí còn chẳng nhớ nổi nội dung bộ phim. Bên ngoài trời vẫn còn sáng, các con phố vẫn tấp nập.
“Cậu có muốn xem phim khác không?”
“Có!”
Vậy là chúng đi tới rạp chiếu phim tiếp theo, ở quanh góc phố cách đó vài trăm mét, và lại làm như vậy. Lyra ngồi xuống, thu chân lên ghế, tay ôm lấy hai đầu gối, còn Will thì để cho tâm trí trở nên trống rỗng. Lần này khi chúng ra ngoài thì đã là gần mười một giờ: tốt hơn nhiều rồi.
Lyra lại thấy đói, nên chúng mua hamburger từ quầy hàng di động rồi vừa đi vừa ăn, lại là một thứ mới mẻ với cô bé.
“Chúng tớ luôn ngồi xuống để ăn. Tớ chưa từng thấy ai vừa đi lại vừa ăn cả,” cô nói với Will. “Nơi này khác biệt ở nhiều mặt quá. Một ví dụ là giao thông. Tớ không thích nó. Nhưng tớ thích rạp chiếu phim, cả hamburger nữa. Tớ rất thích chúng. Còn vị học giả đó, Tiến sĩ Malone, bà ấy sẽ làm cho cái máy sử dụng từ ngữ. Tớ biết chắc như vậy. Ngày mai tớ sẽ quay lại đó để xem bà ấy tiến hành đến đâu rồi. Dám cá là tớ có thể giúp được bà ấy. Có khi tớ còn có thể khiến các học giả cấp cho bà ấy số tiền mong muốn nữa cơ. Cậu có biết cha tớ đã làm thế nào không? Ngài Asriel ấy? Ông ấy đã chơi khăm họ…”
Trong lúc đi lên Đường Banbury, cô bé kể với cậu về cái đêm cô trốn trong tủ quần áo quan sát Ngài Asriel cho các học giả Jordan xem cái đầu đứt lìa của Stanislaus Grumman trong bình hút chân không. Và vì Will là một khán giả chuyên tâm nên cô theo đà kể cho cậu nghe nốt phần còn lại của câu chuyện, từ lúc cô trốn thoát khỏi căn hộ của Phu nhân Coulter cho tới khoảnh khắc kinh khủng khi cô nhận ra mình đã dẫn Roger tới cái chết trên những vách núi băng giá của Svalbard. Will lắng nghe mà không nhận xét gì, nhưng cậu rất chú tâm và đầy cảm thông. Những lời cô kể về chuyến du hành trên khí cầu, về những con gấu mặc giáp và các phù thủy, về đội quân báo thù của Giáo hội, dường như tất cả đều khớp nối lại với giấc mơ kì lạ của cậu về một thành phố xinh đẹp bên bờ biển, trống rỗng, yên lặng và an toàn: nó không thể nào có thật, chỉ đơn giản vậy thôi.
Nhưng cuối cùng hai đứa trẻ cũng tới được đường vành đai và hàng cây duyên mộc. Lúc này chỉ còn rất ít xe cộ qua lại: cứ khoảng một phút lại có một chiếc xe, không hơn. Ô cửa sổ kia rồi. Will cảm thấy mình đang mỉm cười. Mọi việc rồi sẽ ổn thôi.
“Đợi đến khi nào không có xe đã,” cậu nói. “Tớ đi qua đây.”
Một lúc sau cậu đã đứng trên thảm cỏ dưới hàng cọ, một hoặc hai giây sau thì Lyra sang theo.
Chúng cảm thấy như được về nhà. Buổi đêm ấm áp thoáng đãng, hương hoa và mùi biển, sự tĩnh lặng, tưới tắm chúng như làn nước êm dịu.
Lyra vươn người ngáp, còn Will thì cảm thấy một gánh nặng khủng khiếp vừa được cởi bỏ khỏi vai cậu. Cả ngày cậu đã phải mang theo nó, cậu không hề nhận ra rằng nó đã gần như đè nghiến mình xuống đất; nhưng giờ thì cậu thấy thật nhẹ nhõm, tự do và bình yên.
Đột nhiên Lyra ghì chặt lấy tay cậu. Cùng giây phút đó cậu nghe thấy thứ khiến cô bé phản ứng như vậy.
Đâu đó trong những con phố nhỏ đằng sau quán cà phê, có thứ gì đó đang gào thét.
Will lập tức tiến về phía nguồn âm thanh, Lyra liền bám theo khi cậu lao xuống con hẻm nhỏ sấp bóng vì ánh trăng. Sau vài lần rẽ rồi ngoặt, chúng bước ra quảng trường phía trước tòa tháp bằng đá mà cả hai đã thấy sáng hôm đó.
Khoảng hai mươi đứa trẻ con đang hướng mặt vào trong một hình bán nguyệt dưới chân tòa tháp, vài đứa tay cầm que, mấy đứa khác lại đang ném đá vào thứ gì đó mà chúng dồn vào chân tường. Ban đầu Lyra tưởng là một đứa trẻ khác, nhưng phát ra từ trong hình bán nguyệt là một tiếng kêu than chói tai kinh hoàng, hoàn toàn không phải của con người. Đám trẻ con cũng đang gào thét vì sợ hãi và căm hờn.
Will chạy lên phía đám trẻ và kéo đứa đầu tiên lại. Đó là một thằng bé trạc tuổi cậu, mặc áo phông kẻ sọc. Khi nó quay lại, Lyra nhìn thấy những đường viền trắng hoang dại quanh con ngươi của nó, rồi những đứa trẻ khác cũng để ý thấy chuyện đang diễn ra và dừng lại để nhìn. Angelica và em trai của nó cũng ở đó, tay cầm đá, mắt của tất cả đám trẻ đều lóe lên dữ tợn dưới ánh trăng.
Chúng im bặt. Chỉ còn tiếng kêu rên lanh lảnh vẫn tiếp diễn, rồi cả Will và Lyra đều thấy thứ đó là gì: một con mèo mướp đang co rúm vào tường tòa tháp, tai bị rách còn đuôi thì gãy gập. Đó chính là con mèo trông giống Moxie mà Will đã thấy ở Đại lộ Sunderland, con mèo đã dẫn cậu đến ô cửa sổ.
Ngay khi nhìn thấy nó, cậu liền đẩy thằng bé mình đang giữ sang một bên. Thằng bé lăn kềnh ra đất nhưng đã lập tức đứng dậy, điên tiết, khiến những đứa khác phải ngăn nó lại. Will tới quỳ xuống bên con mèo.
Và rồi con mèo đã nằm gọn trong vòng tay cậu bé. Nó lao vào ngực cậu, cậu ẵm nó sát vào người rồi đứng dậy đối mặt với đám trẻ. Trong một giây điên rồ, Lyra đã nghĩ rằng cuối cùng linh thú của cậu cũng xuất hiện.
“Chúng mày hành hạ con mèo này để làm gì thế?” Cậu bé gắt lên, nhưng chẳng đứa nào trả lời được. Chúng đứng run rẩy trước cơn thịnh nộ của Will, thở nặng nhọc, tay siết chặt que và gạch đá, không dám hé một lời nào.
Nhưng rồi giọng Angelica vang lên lảnh lót: “Mày không phải người ở đây! Mày không đến từ Ci’gazze! Mày chẳng biết gì về lũ Quỷ hút hồn, cũng chẳng biết gì về mèo hết. Mày không giống bọn này!”
Thằng bé mặc áo phông kẻ sọc vừa bị Will đẩy ngã đang run lên muốn đánh nhau. Nếu không phải vì con mèo đang nằm trong vòng tay Will, hẳn nó đã lao tới tấn công bằng nắm đấm, răng và bàn chân, và Will cũng sẽ vui lòng tham chiến: giữa chúng lóe lên một luồng điện căm thù đến mức chỉ có bạo lực mới có thể làm dịu đi. Nhưng thằng bé kia lại sợ con mèo.
“Mày từ đâu đến?” Thằng bé nói vẻ khinh khỉnh.
“Bọn tao từ đâu đến thì ảnh hưởng gì. Nếu chúng mày sợ con mèo này thì tao sẽ mang nó đi. Nếu nó mang vận rủi đến cho chúng mày thì nó sẽ là vận may của bọn tao. Giờ thì tránh đường đi.”
Trong một thoáng, Will đã nghĩ rằng sự căm hờn của chúng sẽ lấn át nỗi sợ, và cậu sẵn sàng đặt con mèo xuống để chiến đấu, nhưng đúng lúc đó thì một tiếng gầm rung chuyển trời đất vang lên từ phía sau lũ trẻ. Chúng quay lại thấy Lyra đứng đặt tay lên vai một con báo đốm khổng lồ đang phô ra hàm răng trắng ởn và sáng loáng. Đến cả Will dù đã nhận ra Pantalaimon cũng phải hoảng hốt mất trong giây lát. Ảnh hưởng của nó lên lũ trẻ thật ấn tượng: chúng quay lưng bỏ chạy ngay tức khắc. Chỉ vài giây sau quảng trường đã trống trơn.
Trước khi chúng rời đi, Lyra ngước lên nhìn tòa tháp. Pantalaimon gầm gừ để giục cô. Cô bé thoáng nhìn thấy có ai đó trên tầng cao nhất đang nhìn xuống qua bờ tường đục lỗ châu mai, đó cũng không phải là một đứa trẻ mà là một thanh niên có mái tóc xoăn.
Nửa tiếng sau chúng đã ở trong căn hộ phía trên quán cà phê. Will tìm được một hộp sữa đặc có đường, con mèo ngấu nghiến ăn rồi bắt đầu liếm vết thương. Pantalaimon vì tò mò nên biến thành dạng mèo. Ban đầu con mèo dựng lông lên vẻ ngờ vực, nhưng nó đã sớm nhận ra rằng dù Pantalaimon có là cái gì đi nữa thì nó không phải là một con mèo thật sự, cũng chẳng phải một mối họa, nên bèn lờ nó đi.
Lyra mê mải quan sát Will chăm sóc con mèo. Những con vật duy nhất cô từng tới gần ở thế giới của mình (ngoại trừ đám gấu mặc giáp) là lũ động vật lao động thuộc kiểu này hay kiểu khác: mèo được nuôi ở Học viện Jordan để bắt chuột, chứ không phải để làm thú cưng.
“Tớ nghĩ đuôi nó bị gãy mất rồi,” Will nói. “Tớ không biết phải làm gì với nó. Có lẽ nó sẽ tự lành. Tớ sẽ bôi chút mật ong lên tai nó. Tớ đọc được ở đâu đó là làm như vậy sẽ khử trùng…”
Nhìn thì khá là bẩn, nhưng ít nhất nó cũng khiến con mèo bận liếm, và vết thương cứ thế được làm sạch hơn.
“Cậu có chắc đây là con mèo mình đã nhìn thấy không?” Cô hỏi.
“Ồ, có chứ. Với lại, nếu tất cả bọn chúng sợ mèo đến thế thì tức là không có con nào ở thế giới này cả. Có lẽ nó không tìm được đường về chỗ cũ.”
“Bọn chúng bị điên rồi,” Lyra nói. “Suýt nữa thì chúng giết chết con mèo. Tớ chưa bao giờ thấy trẻ con xử sự như vậy.”
“Tớ thì thấy rồi,” Will nói.
Nhưng cậu đã giấu cảm xúc đi bằng vẻ mặt lạnh như tiền: cậu không muốn nói về chuyện đó, Lyra cũng biết là không nên hỏi. Cô biết rằng mình thậm chí sẽ không hỏi Chân Kế.
Cô bé đang rất mệt mỏi nên đã nhanh chóng leo lên giường và thiếp đi chỉ trong chốc lát.
Một lúc sau, khi con mèo đã cuộn tròn lại để ngủ, Will lấy một cốc cà phê cùng với cái kẹp tài liệu da màu xanh rồi ra ban công ngồi. Ánh sáng chiếu qua cửa sổ đủ để cậu đọc, cậu muốn kiểm tra số giấy tờ bên trong.
Cũng không có gì nhiều. Đúng như cậu nghĩ, chúng là những bức thư được viết bằng mực đen trên giấy viết thư máy bay[4]. Đây chính là những vết tích được tạo bởi bàn tay của người đàn ông mà cậu rất mực muốn tìm; cậu bé lướt những ngón tay trên mặt chữ, rồi ấn chúng vào sát mặt, cố gắng đến gần hơn với sự tồn tại của bố mình. Rồi cậu bắt đầu đọc.
Fairbanks, Alaska
Thứ Tư, ngày 19 tháng 6 năm 1985
Gửi vợ yêu - sự kết hợp thường lệ của hiệu quả và hỗn loạn - tất cả đồ dự trữ đã ở đây rồi, nhưng tên nhà vật lí, một gã đần độn nực cười tên Nelson, thì vẫn chưa chuẩn bị tí nào để mang cái khí cầu chết tiệt của hắn lên núi - bọn anh cứ phải ngồi không chờ hắn ta lần mò tìm cách vận chuyển. Nhưng cũng nhờ vậy mà anh có cơ hội nói chuyện với một ông bạn già đã gặp lần trước, một người đào vàng tên Jake Petersen - lần theo ông ta tới một quán bar dơ dáy và hỏi về dị thường không gian trong tiếng ồn phát ra từ trận đấu bóng chuyền trên TV. Ông ta không chịu nói ở đó - đưa anh về căn hộ của ông ta - với sự giúp đỡ của một chai Jack Daniels, ông ta đã nói một lúc rất lâu - bản thân chưa từng thấy nhưng ông ta đã gặp một người Eskimo đã chứng kiến - ông tướng này nói rằng đó là cánh cửa vào thế giới thần linh - họ đã biết về nó hàng thế kỉ rồi - một phần của lễ kết nạp pháp sư yêu cầu phải đi qua và mang về một kiểu chiến tích gì đó - dù vài người không bao giờ trở về - tuy nhiên, ông già Jake cũng có một tấm bản đồ về vùng đất đó, trên đó ông ta đã đánh dấu vật ấy theo lời kể của bạn mình. (Nhân tiện, nó ở 69°02’11’’B, 157°12’ 19’’T, trên một mũi đất thuộc Đỉnh Vọng Cảnh cách Sông Colville một hoặc hai dặm về phía bắc.) Rồi bọn anh nói đến những huyền thoại Cực Bắc khác - con tàu Na Uy không người lái bị trôi giạt sáu mươi năm trời - những chuyện kiểu như thế. Đoàn các nhà khảo cổ thì lại rất đàng hoàng, hăng hái làm việc, kiềm chế sự mất kiên nhẫn của mình với Nelson và những cái khí cầu của ông ta. Không ai trong số họ từng nghe về dị thường không gian, và tin anh đi, anh sẽ cứ để mọi việc như vậy. Gửi tới hai mẹ con tình cảm trìu mến nhất. Johnny.
Umiat, Alaska
Thứ Bảy, ngày 22 tháng 6 năm 1985
Gửi vợ yêu - dù bị anh gọi là một gã đần độn nực cười - nhà vật lí Nelson lại không hề như vậy, và nếu anh không nhầm thì chính hắn ta cũng đang tìm kiếm dị thường không gian, chuyện ngưng trệ ở Fairbanks đều là do hắn dàn xếp, em có tin được không - biết rằng những người còn lại trong đội sẽ không muốn chờ đợi vì bất cứ điều gì ngoài một lí do không thể tranh cãi như không có phương tiện vận chuyển, hắn đã liên lạc từ trước và hủy đoàn xe đã được đặt. Anh tình cờ phát hiện ra việc này và định hỏi xem hắn đang chơi trò quỷ quái gì thì nghe lén được hắn nói chuyện trên bộ đàm với ai đó - miêu tả dị thường không gian, thật luôn, chỉ có điều là hắn không biết vị trí - lúc sau anh mời hắn một li, diễn vai một người lính chất phác, dày dặn kinh nghiệm ở Cực Bắc, có nhiều thứ hơn ở ranh giới giữa trời và đất - giả vờ trêu chọc hắn về sự hạn chế của khoa học - dám cá cậu không giải thích được về Bigfoot[5], vân vân - quan sát hắn thật kĩ - rồi bất ngờ nhắc đến dị thường không gian – huyền thoại Eskimo về một khung cửa dẫn vào thế giới thần linh - vô hình - ở đâu đó gần Đỉnh Vọng Cảnh, cậu có tin nổi không, đúng nơi chúng ta đang tới, thử tưởng tượng mà xem. Và em phải biết là hắn đã choáng váng đến đờ cả người. Hắn biết chính xác ý anh là gì. Anh giả vờ không nhận ra và chuyển sang nói tới thuật phù thủy, kể cho hắn câu chuyện về con báo Zaire - nên anh hi vọng hắn coi anh là một tên lính đầu đất mê tín. Nhưng anh đoán đúng, Elaine ạ, hắn cũng đang tìm kiếm nó. Câu hỏi đặt ra là, anh có nên nói với hắn hay không? Sẽ phải tìm hiểu xem hắn đang chơi trò gì. Gửi tới hai mẹ tình cảm trìu mến nhất - Johnny.
Colville Bar, Alaska
Ngày 24 tháng 6 năm 1985
Vợ yêu - anh sẽ không có cơ hội gửi thư trong thời gian dài - đây là thị trấn cuối cùng trước khi bọn anh tiến vào vùng đồi - Rặng Brooks - các nhà khảo cổ đang rất nôn nóng được lên đó. Một ông tướng còn bị thuyết phục rằng ông ta sẽ tìm được chứng cớ về sự cư trú của loài người còn xa xưa hơn cả người ta ngờ tới - anh đã hỏi là xa xưa đến ngần nào, và vì sao ông ta lại bị thuyết phục như vậy - ông ta kể cho anh về những tác phẩm điêu khắc trên ngà kì lân biển tìm được trong lần khai quật trước - đồng vị Cacbon-14 xác định niên đại từ một thời kì đáng kinh ngạc, vượt xa phạm vi được giả định trước đây - quả thật là rất bất thường. Chẳng phải sẽ rất kì lạ nếu có ai đó bước qua dị thường không gian của anh, từ một thế giới khác - nhân nói đến việc đó, nhà vật lí Nelson giờ là bạn thân nhất của anh - trêu đùa, bóng gió ám chỉ rằng hắn biết là anh biết hắn biết, vân vân - còn anh thì giả bộ làm Thiếu tá Parry chất phác, một anh chàng kiên cường trong cơn khủng hoảng nhưng trong đầu lại chẳng có gì mấy - dù vậy anh biết hắn đang nhắm tới thứ đó. Vì một điều, mặc dù là một viện sĩ đích thực, trợ cấp của hắn thật ra lại tới từ Bộ Quốc phòng - anh biết các mã tài chính của họ - và vì một điều khác, mấy thứ mà hắn gọi là khí cầu thời tiết hoàn toàn không phải như vậy - anh đã nhìn vào trong giỏ rồi - chắc chắn là một bộ đồ chống bức xạ. Kì quặc thật, em yêu ạ. Anh sẽ bám sát kế hoạch của mình - đưa đoàn khảo cổ tới vị trí của họ rồi đi một mình trong vài ngày để kiếm dị thường không gian - nếu chẳng may đụng phải Nelson đang thơ thẩn trên Đỉnh Vọng Cảnh, anh sẽ tuỳ tình hình mà hành xử.
Sau đó - Thật sự rất may mắn. Anh đã gặp ông bạn người Eskimo của Jake Petersen, Matt Kigalik. Jake đã cho anh biết phải tìm ông ta ở đâu nhưng anh không dám hi vọng ông ta sẽ ở đó. Ông ta nói rằng dân Xô Viết cũng đang lùng tìm dị thường không gian - đầu năm nay ông ta đã bắt gặp một người đàn ông trên rặng núi và bí mật quan sát hắn trong vài ngày, vì ông đoán được hắn đang định làm gì, và ông đã đúng. Gã đàn ông đó hóa ra là người Nga, một tên gián điệp. Ông ta không kể thêm gì nữa, nhưng anh có cảm giác là tên gián điệp đã bị ông ta khử. Nhưng ông có tả thứ đó cho anh. Nó giống như một khoảng hở trong không khí, một dạng như cửa sổ. Nếu nhìn qua đó ta sẽ thấy một thế giới khác. Nhưng không dễ gì để tìm được nó vì phần của thế giới khác đó trông cũng y hệt như thế giới này - đá sỏi, rêu phong và vân vân. Nó ở phía bắc con lạch nhỏ cách một tảng đá lớn hình con gấu đang đứng về phía tây khoảng năm mươi bước chân, trong khi vị trí mà Jake cho anh thì không đúng lắm - nó gần 12’’B hơn là 11.
Chúc anh may mắn đi em yêu. Anh sẽ mang về cho em một chiến tích từ thế giới thần linh - Mãi yêu em - hôn thằng bé giùm anh - Johnny.
Will thấy đầu mình đang kêu lên ong ong.
Bố cậu đã tả chính xác thứ mà cậu tìm thấy dưới hàng cây duyên mộc. Cậu cũng đã tìm thấy một ô cửa sổ - thậm chí còn dùng cùng một từ để chỉ nó! Vậy hẳn là Will đang đi đúng đường. Kiến thức này cũng chính là thứ những gã đàn ông kia đang tìm kiếm… Có nghĩa là việc này cũng rất nguy hiểm.
Thời điểm bức thư đó được viết là khi Will một tuổi. Sáu năm sau đó là tới buổi sáng ở siêu thị khi cậu nhận ra mẹ mình đang trong tình trạng cực kì nguy hiểm, và cậu phải bảo vệ bà; rồi dần dần những tháng tiếp sau đó đem tới nhận thức lớn dần của cậu về việc mối hiểm họa nằm trong tâm trí bà, và cậu lại càng phải bảo vệ bà nhiều hơn.
Rồi sau đó, thật tàn nhẫn, cậu nhận ra rằng hóa ra không phải tất cả các hiểm họa đều nằm trong tâm trí bà. Thật sự đang có kẻ nhắm tới bà. Nhắm tới những bức thư này, tới thông tin này.
Cậu không hiểu nổi nó có nghĩa là gì. Nhưng cậu cảm thấy hạnh phúc sâu sắc vì được chia sẻ cùng bố mình một điều quan trọng đến vậy; vì John Parry và cậu con trai Will của ông đều đã tự mình khám phá ra điều phi thường này. Khi gặp nhau họ có thể trao đổi về nó, rồi bố cậu sẽ tự hào rằng Will đã đi theo bước chân của ông.
Đêm tĩnh lặng và biển bình yên. Cậu gập những bức thư lại rồi chìm vào giấc ngủ.