- 6 - Các sinh vật bay phát sáng
“Grumman?” Người đàn ông râu đen buôn lông thú nói. “Của Viện hàn lâm Berlin ấy à? Một gã liều lĩnh. Tôi gặp ông ta trên đầu phía bắc của dãy Ural năm năm trước. Tôi cứ nghĩ là ông ta chết rồi cơ.”
Sam Cansino, một người quen cũ và là dân Texas giống Lee Scoresby, ngồi trong quán bar nghi ngút khói và đượm ánh đèn dầu của Khách sạn Samirsky, dốc ngược li shot chứa thứ vodka lạnh buốt. Ông dùng khuỷu tay đẩy đĩa cá ngâm dấm và bánh mì đen về phía Lee, ông này ăn đầy mồm rồi gật đầu ra hiệu để Sam nói tiếp.
“Ông ta đã bước vào một cái bẫy mà thằng ngốc Yakovlev tạo ra,” nhà buôn nói tiếp, “và để chân bị chọc rách tới tận xương. Thay vì dùng thuốc thông thường, ông ta khăng khăng đòi dùng thứ mà lũ gấu sử dụng - rêu cầm máu - một dạng địa y, nó không hẳn là rêu; ông ta nằm trên xe kéo, vừa gào lên đau đớn vừa ra chỉ thị cho cấp dưới - họ đang định hướng bằng các vì sao, và họ phải đo đạc chính xác nếu không sẽ bị ông ta xỉ vả, mà lạy hồn, miệng lưỡi ông ta thì sắc lẹm như dây thép gai vậy. Một người đàn ông gầy gò, cứng cỏi, mạnh mẽ, tò mò về mọi thứ. Ông có biết ông ta đã được kết nạp làm dân Tartar không?”
“Không thể nào,” Lee Scoresby nói, đổ thêm vodka vào cốc của Sam. Con linh thú Hester của ông đang thu mình bên khuỷu tay chủ trên quầy bar, mắt lim dim như thường lệ, còn đôi tai thì ép sát vào lưng.
Lee đến vào chiều hôm đó, được đẩy đến Nova Zembla nhờ ngọn gió mà các phù thủy gọi tới. Sau khi đã cất dụng cụ đi, ông đi thẳng tới Khách sạn Samirsky, gần điểm đóng gói cá. Đây là nơi nhiều kẻ lang thang trên vùng Cực Bắc dừng chân để trao đổi thông tin, tìm việc hay gửi tin nhắn cho nhau. Trong quá khứ Lee Scoresby từng lưu lại đó vài ngày, chờ đợi một hợp đồng, hành khách hay một cơn gió thuận, vì vậy không có gì khác thường trong việc ông làm lúc này cả.
Nhất là với những thay đổi to lớn mà họ cảm nhận được trong thế giới xung quanh mình, việc mọi người tụ tập lại và nói chuyện là điều tự nhiên. Mỗi ngày trôi qua lại có thêm những tin tức mới: băng trên sông Yenisei đã tan hết, mà lại là vào thời gian này trong năm; một phần của đại dương đã bị rút cạn, để lộ những lớp kiến tạo đều đều kì lạ của đá dưới đáy biển; một con mực dài ba chục mét đã lôi tuột ba ngư dân ra khỏi thuyền rồi xé tan họ…
Sương mù vẫn tiếp tục ùa vào từ phía bắc, dày đặc, lạnh lẽo và thỉnh thoảng lại thấm đẫm thứ ánh sáng kì quặc nhất có thể tưởng tượng được, trong đó lờ mờ hiện ra những hình thù vĩ đại và văng vẳng những tiếng nói kì bí.
Nhìn chung đó không phải thời điểm thích hợp để làm việc, chính vì thế mà quán bar của Khách sạn Samirsky mới đông nghẹt người.
“Có phải ông vừa nói Grumman không?” Người đàn ông ngồi trên quầy nói, đó là một ông lão bận đồ thợ săn hải cẩu có con linh thú chuột lemming đang nghiêm nghị nhìn ra từ túi áo. “Ông ta đúng là một người Tartar. Tôi đã có mặt khi ông ta gia nhập bộ lạc đó. Tôi đã thấy ông ta để cho họ khoan sọ. Ông ta cũng có một tên khác nữa; một cái tên Tartar; cho tôi một phút để nhớ lại đã.”
“Ồ, thế này thì sao nhỉ,” Lee Scoresby nói. “Hãy để tôi mời ông một li, ông bạn. Tôi đang tìm kiếm thông tin về người đàn ông này. Ông ta đã gia nhập vào bộ lạc nào vậy?”
“Bộ lạc Yenisei Pakhtars. Dưới chân dãy Semyonov. Gần ngã ba sông Yenisei và, tôi quên mất tên nó rồi, con sông chảy xuống từ những ngọn đồi ấy. Có một tảng đá cỡ căn nhà ở bến tàu nổi.”
“À, phải,” Lee nói. “Giờ thì tôi nhớ rồi. Tôi đã từng bay qua nó. Mà ông nói Grumman để cho người ta khoan sọ mình ấy à? Tại sao vậy?”
“Ông ta là một pháp sư,” ông thợ săn hải cẩu già nói. “Tôi cho rằng bộ lạc đó đã công nhận ông ta là một pháp sư trước khi thu nạp. Việc khoan sọ đó là cả một quá trình khó khăn. Nó diễn ra trong hai đêm một ngày. Người ta dùng một cái khoan tay hình cung, giống như để đánh lửa vậy.”
“À, điều đó giải thích cho việc đội của ông ta rất nghe lời,” Sam Cansino nói. “Đó là đám du thủ du thực hung tợn nhất mà tôi từng thấy, nhưng chúng chạy quanh thực hiện mệnh lệnh của ông ta như những đứa trẻ bồn chồn. Tôi cứ nghĩ ông ta làm được vậy là nhờ mấy lời chửi bới của mình. Đúng là hợp lí hơn nếu chúng cho rằng ông ta là một pháp sư. Nhưng các ông biết không, sự tò mò của người đàn ông đó cũng mạnh mẽ như bộ hàm của sói vậy; ông ta không bao giờ từ bỏ. Ông ta ép tôi phải kể đủ mọi thông tin dù là vụn vặt nhất mà mình biết về vùng đất quanh đó, về các thói quen của lũ chồn gulo và cáo. Rồi ông ta bị thương vì cái bẫy chết tiệt của Yakovlev; chân bị rạch toang như thế mà ông ta vẫn viết lại các kết quả của rêu cầm máu, đo nhiệt độ bản thân, quan sát hình dạng vết thương, ghi chép về đủ mọi thứ… Một gã kì quặc. Có một phù thủy muốn ông ta làm người yêu, nhưng ông ta đã từ chối.”
“Vậy sao?” Lee nói, nghĩ tới vẻ đẹp của Serafina Pekkala.
“Ông ta đáng ra không nên làm vậy,” ông thợ săn hải cẩu nói. “Được một phù thủy trao cho tình yêu thì nên nhận lấy mới phải. Nếu không thì mọi chuyện tồi tệ xảy ra với bản thân đều là do lỗi của chính mình. Nó giống như phải lựa chọn giữa một lời chúc phúc hay một lời nguyền rủa vậy. Việc duy nhất ta không thể làm là không chọn cái nào cả.”
“Có lẽ ông ta có lí do,” Lee nói.
“Nếu ông ta có chút tỉnh táo nào thì đó hẳn là một lí do tốt đấy.”
“Ông ta ương bướng lắm,” Sam Cansino nói.
“Có khi lại là chung thủy với người phụ nữ khác,” Lee đoán. “Tôi nghe được chuyện khác về ông ta; rằng ông ta biết nơi cất giữ vật chứa ma thuật nào đó, tôi không biết nó là gì, nhưng nó có thể bảo vệ người nắm giữ. Các ông đã từng nghe về câu chuyện đó chưa?”
“Có, tôi đã nghe rồi,” ông thợ săn hải cẩu nói. “Bản thân ông ta không giữ vật đó, nhưng ông ta biết nó ở đâu. Có người từng thử bắt ông ta khai ra, nhưng Grumman đã giết hắn.”
“Còn con linh thú của ông ta,” Sam Cansino nói, “rất kì lạ. Nó là đại bàng, một con đại bàng đen với đầu và ức trắng, thuộc một loài tôi chưa từng nhìn thấy trước đây. Tôi không biết nó được gọi là gì.”
“Nó là chim ưng biển,” người phục vụ quầy bar nghe được liền nói. “Các vị đang nói về Stan Grumman à? Linh thú của ông ta là chim ưng biển. Một con chim ưng săn cá.”
“Chuyện gì đã xảy ra với ông ta vậy?” Lee Scoresby hỏi.
“Ồ, ông ta bị vướng vào cuộc chiến của dân Skraeling trên phía Beringland. Tin tức cuối cùng tôi nghe được là ông ta đã bị bắn,” ông thợ săn hải cẩu nói. “Giết chết tươi luôn.”
“Tôi nghe nói họ đã chặt đầu ông ta,” Lee Scoresby nói.
“Không, cả hai ông đều nhầm rồi,” người phục vụ quầy bar nói, “tôi biết nhờ nghe tin từ một người Inuit đã đi cùng với ông ta. Xem chừng họ đã cắm trại ở đâu đó trên Sakhalin rồi gặp tuyết lở. Grumman đã bị chôn vùi dưới cả trăm tấn đất đá. Tay Inuit này đã chứng kiến chuyện đó.”
“Điều tôi không thể hiểu nổi,” Lee Scoresby nói trong lúc chuyển chai rượu đi vòng quanh mời, “là người đàn ông này đang làm gì. Có thể là ông ta đang thăm dò tìm dầu mỏ? Ông ta là quân nhân? Hay có thứ gì đó liên quan đến triết học? Sam, ông đã nói gì đó về các phép đo đạc. Đó là gì vậy?”
“Họ đang đo độ sáng của các vì sao. Cả cực quang nữa. Ông ta rất say mê cực quang. Mặc dù tôi nghĩ hứng thú chính của ông ta là ở những tàn tích cơ. Những thứ cổ xưa.”
“Tôi biết người có thể cho ông biết nhiều hơn,” ông thợ săn hải cẩu nói. “Trên núi có một đài quan sát của Viện hàn lâm Hoàng gia Muscovy. Họ sẽ có thể kể cho ông nghe. Tôi biết rằng ông ta đã lên đó nhiều hơn một lần.”
“Mà ông cần biết để làm gì vậy Lee?” Sam Cansino hỏi.
“Ông ta còn nợ tôi tiền,” Lee Scoresby nói.
Lời giải thích này thỏa đáng đến mức nó lập tức dập tắt sự tò mò của họ. Câu chuyện chuyển sang chủ đề mà tất cả mọi người đều nói: những biến đổi khủng khiếp diễn ra xung quanh họ mà không ai có thể thấy được.
“Các ngư dân,” ông thợ săn hải cẩu nói, “họ nói rằng người ta có thể giong thuyền thẳng vào thế giới mới đó.”
“Có một thế giới mới sao?” Lee hỏi.
“Chỉ cần cái màn sương chết tiệt này tan đi là chúng ta có thể nhìn thẳng vào nó luôn,” ông thợ săn hải cẩu tự tin nói với họ. “Lần đầu tiên nó xảy ra, tôi đang ngồi ngoài trời trên chiếc kayak của mình và nhìn về hướng bắc, hoàn toàn tình cờ. Tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng mình đã thấy. Thay vì trái đất vòng xuống trên đường chân trời thì nó lại lao thẳng đi. Tôi có thể nhìn đến vô tận, và trong tầm mắt của mình tôi thấy được đất liền, bờ biển, đồi núi, bến cảng, cây cối và những cánh đồng ngô xanh biếc, trải ra bất tận trên bầu trời. Tôi nói các anh nghe, đó là một thứ đáng bỏ ra năm chục năm cày cuốc để được nhìn thấy, một cảnh tượng như thế. Tôi đáng lẽ đã chèo thuyền thẳng lên trời vào vùng biển bình yên đó mà không thèm nhìn lại; nhưng rồi sương giăng xuống…”
“Chưa từng thấy thứ sương mù nào như thế này,” Sam Cansino càu nhàu. “Chắc nó đã lơ lửng được cả tháng rồi, có khi còn hơn. Nhưng nếu muốn đòi tiền từ Stanislaus Grumman thì ông không gặp may rồi, Lee ạ; ông ta chết rồi.”
“A! Tôi nhớ ra tên Tartar của ông ta rồi!” Ông thợ săn hải cẩu reo lên. “Tôi vừa mới nhớ ra chúng đã gọi ông ta là gì trong lúc khoan. Nghe có vẻ như là Jopari.”
“Jopari à? Tôi chưa từng nghe thấy cái tên nào kiểu như thế,” Lee nói. “Có khi là tiếng Nhật Bổn, tôi đoán thế. Chà, nếu muốn đòi lại tiền, chắc tôi có thể lần theo những người được thừa kế và chia phần của ông ta. Hay có khi Viện hàn lâm Berlin có thể quyết toán được khoản nợ đó. Tôi sẽ lên đài quan sát hỏi xem họ có địa chỉ nào mà tôi có thể liên hệ hay không.”
Đài quan sát cách đó khá xa về phía bắc, Lee Scoresby thuê một chiếc xe chó kéo cùng lái xe. Thật chẳng dễ dàng gì để kiếm được một người sẵn sàng liều mình di chuyển trong màn sương, nhưng Lee rất có sức thuyết phục, hoặc là tiền của ông có; vậy nên cuối cùng một ông lão Tartar tới từ vùng Ob đã đồng ý đưa ông đến đó sau một hồi lâu vật lộn cò cưa.
Người lái xe không trông cậy vào la bàn, nếu có thì ông sẽ thấy rằng đó là việc bất khả thi. Ông định hướng nhờ những dấu hiệu khác, một ví dụ là con linh thú cáo Bắc Cực của ông, nó ngồi trên đầu xe hăng hái đánh hơi đường đi. Lee, người luôn mang theo la bàn đi khắp mọi nơi, nhận ra rằng từ trường trái đất cũng bị nhiễu loạn như mọi thứ khác.
Ông lão lái xe nói khi họ dừng lại để pha cà phê: “Nó đã từng xảy ra rồi, cái thứ này này.”
“Cái gì cơ, bầu trời mở ra á? Đã từng xảy ra rồi sao?”
“Hàng nghìn thế hệ rồi. Người dân của tôi vẫn còn nhớ. Đã từ rất lâu về trước, cách đây hàng nghìn thế hệ.”
“Người ta nói gì về nó?”
“Bầu trời bị rạch toang, các linh hồn di chuyển từ thế giới này sang thế giới khác. Toàn bộ đất liền đều dịch chuyển. Băng tan rồi lại đông cứng. Một thời gian sau các linh hồn khép lỗ hổng lại. Niêm phong nó. Nhưng các phù thủy nói rằng bầu trời ở đó rất mỏng, đằng sau ánh sáng phương bắc.”
“Chuyện gì sẽ xảy ra vậy, Umaq?”
“Cũng giống như trước đây thôi. Rồi mọi thứ lại như cũ. Nhưng chỉ sau khi đã trải qua sự rối loạn khủng khiếp, chiến tranh thảm khốc. Một cuộc chiến tinh thần.”
Người lái xe không nói gì thêm, rồi không lâu sau họ lại lên đường, chậm chạp lần đi trên bề mặt mấp mô và những chỗ trũng, băng qua những vỉa đá trồi lên lờ mờ, tối sẫm trong màn sương vàng vọt, cho tới khi ông lão lên tiếng:
“Đài quan sát ở trên kia. Giờ anh đi bộ đi. Đường quá gồ ghề cho xe kéo. Anh muốn quay về, tôi chờ ở đây.”
“Vâng, tôi muốn quay về sau khi đã xong việc, Umaq ạ. Ông nhóm lửa đi, ông bạn, rồi ngồi xuống nghỉ một lát. Tôi chắc sẽ đi khoảng ba, bốn tiếng gì đó.”
Lee Scoresby lên đường, cùng với Hester đang rúc trong ngực áo khoác của ông. Sau nửa tiếng leo trong khó nhọc, ông thấy một khối những tòa nhà đột ngột hiện ra phía trên như thể chúng vừa được một bàn tay khổng lồ đặt vào đó vậy. Nhưng hiệu ứng đó chỉ là nhờ sương tan trong thoáng chốc, chỉ một phút sau sương đã lại phủ kín vạn vật. Ông thấy mái vòm khổng lồ của đài quan sát chính, một cái nhỏ hơn ở hơi xa một chút, giữa chúng là một nhóm những tòa nhà hành chính và khu nhà ở. Không có chút ánh sáng nào lọt ra vì các cửa sổ đều đã được bôi đen vĩnh viễn để không ảnh hưởng đến bóng tối cho các kính thiên văn của họ.
Vài phút sau khi tới nơi, Lee nói chuyện với một nhóm các nhà thiên văn học đang háo hức muốn biết ông có thể đem tới cho họ tin tức gì, vài nhà triết học tự nhiên cũng đang nản chí không kém gì mấy nhà thiên văn học bị mắc kẹt trong sương mù. Lee kể cho họ nghe về mọi thứ ông đã thấy, và sau khi chủ đề đó đã được xử lí hoàn toàn, ông liền hỏi về Stanislaus Grumman. Các nhà thiên văn học đã nhiều tuần liền không có khách ghé thăm nên rất thiết tha được nói chuyện.
“Grumman? Phải, tôi sẽ kể với ông một điều về ông ta,” ông giám đốc nói. “Dù tên như thế nhưng ông ta là người Anh. Tôi nhớ là…”
“Chắc chắn là không phải đâu,” phó giám đốc nói. “Ông ta là một thành viên của Viện hàn lâm Hoàng gia Đức. Tôi đã gặp ông ta ở Berlin. Tôi dám chắc ông ta là người Đức.”
“Không, tôi nghĩ rồi ông sẽ phát hiện ra rằng ông ta là người Anh. Dù sao thì cái cách ông ta sử dụng ngôn ngữ đó cũng hoàn hảo không tì vết,” giám đốc nói. “Nhưng tôi đồng ý, ông ta chắc chắn là một thành viên của Viện hàn lâm Berlin. Ông ta là một nhà địa chất…”
“Không, không, ông nhầm rồi,” một người khác nói. “Ông ta quả là có quan sát trái đất, nhưng không phải dưới con mắt của một nhà địa chất. Tôi từng có lần nói chuyện lâu với ông ta. Tôi đoán người ta gọi ông ta là nhà khảo cổ học cổ đại.”
Năm người bọn họ đang ngồi quây quanh một chiếc bàn trong phòng được dành làm phòng chung, phòng tiếp khách và phòng ăn, quầy bar, phòng giải lao và ít nhiều mọi mục đích khác. Hai trong số họ là người Muscovy, một người Ba Lan, một Yoruba và một Skraeling. Lee Scoresby cảm nhận được rằng cộng đồng nhỏ này đang vui mừng vì có khách đến thăm, chỉ vì ông đem tới sự thay đổi trong cuộc trò chuyện. Ông Ba Lan đang nói thì bị tay người Yoruba cắt ngang:
“Ông nói một nhà khảo cổ học cổ đại ý là sao? Các nhà khảo cổ vốn đã nghiên cứu những thứ xa xưa rồi; sao ông lại cần phải thêm một từ khác mang nghĩa cổ xưa vào nữa?”
“Lĩnh vực nghiên cứu của ông ta lùi về quá khứ xa hơn ông tưởng tượng rất nhiều, vậy thôi. Ông ta đang tìm kiếm dấu tích của những nền văn minh cách đây hai mươi, ba mươi nghìn năm về trước,” ông Ba Lan trả lời.
“Vớ vẩn!” Ông giám đốc kêu lên. “Thật hết sức vớ vẩn! Ông bị ông ta dắt mũi rồi. Những nền văn minh ba mươi nghìn năm tuổi ấy à? Hừ! Bằng chứng đâu chứ?”
“Dưới lớp băng,” ông Ba Lan đáp. “Đó là vấn đề. Theo Grumman thì từ trường của trái đất đã biến đổi một cách đột ngột vào nhiều thời điểm khác nhau trong quá khứ. Trên thực tế, trục của trái đất cũng đã bị dịch chuyển, khiến cho những vùng ôn đới bị phủ đầy băng.”
“Như thế nào?” Tay Yoruba hỏi.
“Ồ, ông ta có một học thuyết phức tạp. Vấn đề là, chứng cứ có thể có cho những nền văn minh từ rất sớm đã bị chôn vùi dưới băng kể từ đó. Ông ta tự nhận là có vài bức hình chụp những lớp kiến tạo đá bất thường…”
“Hừ! Chỉ vậy thôi à?” Ông giám đốc nói.
“Tôi chỉ báo cáo lại thôi chứ không có ý bảo vệ cho ông ta,” ông Ba Lan đáp.
“Các quý ông, các vị đã biết Grumman được bao lâu rồi?” Lee Scoresby hỏi.
“À, để xem nào,” ông giám đốc ngẫm nghĩ. “Lần đầu tôi gặp ông ta là vào bảy năm trước.”
“Trước đó khoảng một hoặc hai năm, ông ta đã tạo danh tiếng cho bản thân với bài báo về những biến đổi trong cực từ,” tay Yoruba nói. “Nhưng ông ta chẳng biết từ đâu mà xuất hiện. Ý tôi là không một ai biết ông ta hồi sinh viên hay từng thấy bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây của ông ta…”
Họ nói chuyện một lúc, đóng góp hồi tưởng và đưa ra những gợi ý về điều đã xảy đến với Grumman, mặc dù đa phần đều cho rằng ông ta có thể đã chết. Trong lúc ông người Ba Lan đi pha thêm chút cà phê, con linh thú thỏ rừng Hester của Lee khẽ nói với ông:
“Kiểm tra gã người Skraeling đi, Lee.”
Gã người Skraeling rất kiệm lời. Lee cứ nghĩ bản tính ông ta vốn ít nói, nhưng khi được Hester nhắc, ông liền liếc nhìn theo cách rất tự nhiên trong lúc cuộc hội thoại tạm ngừng và thấy linh thú của người đàn ông, một con cú tuyết, đang nhìn chằm chằm mình với đôi mắt màu cam sáng rực. Bọn cú con nào thì trông cũng như thế, chúng cứ nhìn chằm chằm người ta; nhưng Hester nói đúng, ở con linh thú này có một vẻ thù địch và ngờ vực mà khuôn mặt người đàn ông không hề thể hiện.
Và rồi Lee nhìn thấy một thứ khác: gã Skraeling đang đeo chiếc nhẫn có khắc biểu tượng của Giáo hội trên đó. Đột nhiên ông hiểu ra lí do cho sự im lặng của người đàn ông. Ông từng nghe nói mọi tổ chức nghiên cứu triết học đều phải bao gồm một đại diện của Huấn Quyền trong hàng ngũ cán bộ của mình, với vai trò một nhân viên kiểm duyệt để ngăn chặn tin tức về bất cứ khám phá mang tính dị giáo nào.
Vì vậy, khi nhận ra điều này và nhớ lại điều đã nghe Lyra nói, ông hỏi:
“Các quý ông, xin hãy cho tôi biết - các ông có tình cờ biết liệu Grumman có từng xem xét nghi vấn về Bụi không?”
Sự im lặng ngay lập tức bao trùm lấy căn phòng nhỏ ngột ngạt, tất cả mọi người đều dồn sự chú ý lên gã người Skraeling, dù không ai nhìn thẳng vào ông ta. Lee biết Hester vẫn sẽ giữ được vẻ khó dò với đôi mắt khép hờ và đôi tai ép phẳng trên lưng, ông liền mang một bộ dạng ngây thơ vui vẻ khi nhìn từ khuôn mặt này sang khuôn mặt khác.
Cuối cùng ông dừng lại ở gã Skraeling và hỏi: “Xin thứ lỗi cho tôi - có phải tôi vừa hỏi về một thứ bị cấm được biết hay không?”
Gã người Skraeling đáp: “Ông đã nghe nhắc tới chủ đề này ở đâu vậy, ông Scoresby?”
“Từ một hành khách cùng tôi bay qua biển cách đây một thời gian,” Lee nói một cách thoải mái. “Người đó không nói nó là gì, nhưng từ cách nó được nhắc đến, xem chừng đó là thứ mà Grumman có thể đã điều tra. Tôi hiểu nó như là một vật thể trên bầu trời, giống như cực quang vậy. Nhưng nó khiến tôi bối rối, vì là một phi công tôi biết khá rõ bầu trời nhưng lại chưa từng gặp thứ vật chất này. Rốt cuộc nó là gì vậy?”
“Đúng như ông nói, một hiện tượng trên trời,” gã người Skraeling đáp. “Nó không có ý nghĩa thực tiễn nào đáng kể cả.”
Vào lúc đó Lee quyết định đã đến lúc phải đi; ông không tìm hiểu được thêm gì, và cũng không muốn để Umaq đợi. Ông để các nhà thiên văn học lại cho đài quan sát mù sương của họ rồi tiến bước xuống phía lối đi, lần đường nhờ bám theo linh thú của mình, vì đôi mắt của nó sát với mặt đất hơn.
Rồi khi họ vừa mới xuống lối đi được mười phút thì có thứ gì đó lướt vụt qua trong màn sương trên đầu ông và lao bổ xuống Hester. Đó là con linh thú cú của gã Skraeling.
Nhưng Hester đã cảm nhận được con cú đang lao tới và ép mình xuống kịp thời, khiến bộ móng của con cú vồ trượt. Hester có thể chiến đấu: móng chân của nó cũng rất sắc, nó lại kiên cường và can đảm. Lee biết rằng gã Skraeling chắc chắn cũng đang ở gần đó nên đã với lấy khẩu súng lục ổ quay giắt ở thắt lưng.
“Đằng sau kìa, Lee,” Hester kêu lên, ông liền quay ngoắt lại rồi sụp xuống đúng lúc một mũi tên vút qua vai.
Ông lập tức nổ súng. Gã Skraeling ngã xuống, lầm bầm khi viên đạn cắm vào chân hắn. Một lúc sau con linh thú cú lượn vòng lại không chút tiếng động rồi nhào xuống bên cạnh chủ một cách vụng về như sắp ngất tới nơi. Nó gần như nằm soài xuống nền tuyết, vật lộn để gấp cánh lại.
Lee Scoresby lên cò khẩu súng lục rồi dí nó vào đầu gã đàn ông.
“Được đấy, đồ ngu xuẩn,” ông nói. “Ngươi cố như thế làm gì? Ngươi không thấy rằng giờ tất cả chúng ta đều đang vướng phải rắc rối giống nhau khi cái thứ này đã xảy đến với bầu trời sao?”
“Quá muộn rồi,” gã Skraeling nói.
“Quá muộn cho cái gì?”
“Quá muộn để dừng lại. Ta đã gửi chim đưa thư đi rồi. Huấn Quyền sẽ biết về những câu hỏi của ngươi, và họ sẽ vui mừng được biết về Grumman…”
“Biết gì về ông ta?”
“Về việc những người khác cũng đang tìm kiếm ông ta. Điều đó chứng thực những điều chúng ta đã nghĩ. Và việc những người khác cũng biết về Bụi. Ngươi là kẻ thù của Giáo hội, Lee Scoresby ạ. Các ngươi nhờ những trái nó mà nhận biết được[6]. Nhờ những câu hỏi của nó mà thấy rắn độc giày vò trái tim nó…”
Con cú khẽ rúc lên, đập cánh ngắt quãng. Đôi mắt sáng màu cam của nó mờ đi vì đau đớn. Trên nền tuyết trắng xung quanh gã Skraeling in đậm một vệt đỏ thẫm: ngay cả trong ánh sáng lờ mờ của màn sương dày đặc, Lee cũng có thể thấy rằng gã đàn ông đang hấp hối.
“Xem ra viên đạn của ta đã đâm trúng động mạch rồi,” ông nói. “Để ta lấy tay áo làm garô cầm máu cho ngươi.”
“Không!” Gã Skraeling gắt lên. “Ta sẵn lòng được chết! Ta sẽ có được cành cọ của kẻ tử vì đạo[7]! Ngươi sẽ không giành được khỏi ta đâu!”
“Vậy thì cứ chết đi nếu muốn. Chỉ cần nói cho ta điều này…”
Nhưng ông không bao giờ có cơ hội nói nốt câu hỏi của mình, vì chỉ với một cái rùng mình thật khẽ, con linh thú cú đã tan biến. Linh hồn của gã Skraeling biến mất. Đã có lần Lee thấy một bức họa vẽ một vị thánh của nhà thờ đang bị những kẻ ám sát tấn công. Trong lúc chúng dùng dùi cui đánh đập thân thể đang lịm dần của ngài, linh thú của vị thánh được các tiểu thiên sứ đưa lên trời và đưa cho một cành cọ, vật tượng trưng cho người tử vì đạo. Gương mặt gã Skraeling lúc này cũng mang biểu hiện giống như của vị thánh trong bức họa: một vẻ căng thẳng nhập định hướng tới sự quên lãng. Lee buông hắn ra trong ghê tởm.
Hester tặc lưỡi.
“Đáng ra ta nên đoán được là hắn sẽ gửi tin đi,” nó nói. “Lấy nhẫn của hắn đi.”
“Làm quái gì chứ? Chúng ta đâu phải trộm cướp?”
“Không, chúng ta là những kẻ phản đạo,” nó nói. “Không phải chúng ta lựa chọn như thế, mà là do ác tâm của hắn. Đằng nào thì một khi Giáo hội biết được việc này, chúng ta cũng xong đời thôi. Trong lúc đó thì ta phải tận dụng mọi lợi thế có thể nắm được. Nào, lấy cái nhẫn rồi cất nó đi, biết đâu có lúc xài được.”
Hiểu ra ý nghĩa của việc đó, Lee liền lấy cái nhẫn ra khỏi ngón tay của kẻ đã chết. Trong không khí ảm đạm, ông nhận thấy rằng lối đi đã bị gián đoạn khi mặt đất đột ngột dốc xuống một vùng đen thẫm lởm chởm đá sỏi. Ông lăn xác của gã Skraeling tới đó, nó rơi xuống được một hồi lâu thì ông mới nghe thấy tiếng va đập. Lee chưa từng thấy vui thú với bạo lực, ông ghét phải giết chóc, mặc dù trước đây ông đã phải làm việc đó ba lần.
“Nghĩ như thế chẳng ích gì đâu,” Hester nhận xét. “Hắn không cho chúng ta được lựa chọn, và chúng ta cũng không bắn để giết hắn. Khỉ thật, Lee ạ, hắn muốn chết mà. Đám người này loạn trí cả rồi.”
“Có lẽ ngươi nói đúng,” ông nói rồi cất khẩu súng đi.
Phía cuối con đường họ thấy người lái xe cùng đàn chó đã thắng sẵn cương, sẵn sàng lên đường.
“Nói tôi nghe, Umaq,” Lee nói khi họ khởi hành trở về trạm đóng gói cá, “ông có từng nghe về một người tên là Grumman không?”
“Ồ, có chứ,” ông lái xe đáp. “Ai cũng biết Tiến sĩ Grumman hết.”
“Ông có biết là ông ta có một cái tên Tartar không?”
“Không phải Tartar. Ý ông là Jopari chứ gì? Không phải Tartar đâu.”
“Chuyện gì đã xảy ra với ông ta vậy? Ông ta chết rồi à?”
“Ông hỏi thế thì tôi phải thừa nhận rằng mình không biết. Vì vậy ông không bao giờ biết được sự thật từ tôi đâu.”
“Vậy à. Thế tôi có thể hỏi ai?”
“Tốt hơn ông nên hỏi bộ lạc của ông ta. Đến Yenisei hỏi họ đi.”
“Bộ lạc của ông ta… Ý ông là những người đã kết nạp ông ta? Những người đã khoan sọ ông ta?”
“Phải. Ông nên đi hỏi họ. Có thể ông ta chưa chết, cũng có thể đã chết rồi. Có khi lại chẳng chết cũng không sống.”
“Làm sao ông ta chẳng chết cũng không sống được?”
“Ở thế giới linh hồn. Có lẽ ông ta đang ở thế giới linh hồn. Tôi lại nói nhiều quá rồi. Giờ sẽ không nói gì nữa.”
Vậy là ông ta im lặng từ đó.
Nhưng khi họ về tới trạm, Lee lập tức tới bến tàu để kiếm một con tàu có thể cho ông quá giang đến cửa sông Yenisei.
Cùng lúc đó, các phù thủy cũng đang lùng sục. Nữ hoàng Latvia Ruta Skadi bay cùng với nhóm của Serafina Pekkala trong nhiều ngày nhiều đêm, qua sương mù và gió xoáy, trên những vùng bị lũ lụt và lở đất tàn phá. Rõ ràng là họ đang ở trong một thế giới mà không ai trong số họ từng biết tới, với những cơn gió lạ, mùi hương mới trong không khí, những con chim khổng lồ không rõ tên tấn công họ khi vừa nhìn thấy và phải đuổi đi bằng một loạt tên bắn; rồi khi họ tìm thấy một vùng đất để nghỉ ngơi, đến cây cối cũng thật kì quặc.
Tuy vậy, một vài loại cây cũng ăn được, có những sinh vật nhỏ không khác thỏ là mấy có vị rất ngon, và ở đó không lo bị thiếu nước. Có lẽ đó vốn là một vùng đất tốt để sinh sống, nhưng lại có những hình dạng ma quái trôi lơ lửng như sương trên các đồng cỏ và tụ tập lại quanh những dòng suối và vùng nước trũng. Khi có ánh sáng thì chúng gần như không hiện hữu, chỉ có thể nhìn thấy như một thứ trôi giạt trong ánh sáng, phai nhạt dần một cách đều đặn, giống như những tấm mạng trong suốt xoay chuyển trước gương. Các phù thủy chưa từng thấy thứ gì như vậy trước đây và liến thấy không tin tưởng chúng.
“Cô có nghĩ là chúng vẫn đang sống không, Serafina Pekkala?” Ruta Skadi hỏi khi họ lượn vòng ở cao phía trên một nhóm vật thể đứng bất động tại rìa khoảng rừng rộng.
“Dù còn sống hay đã chết thì chúng cũng đầy ác tâm,” Serafina trả lời. “Từ tận đây tôi cũng cảm nhận được. Trừ khi biết được vũ khí gì có thể làm tổn hại chúng, tôi sẽ không muốn tiến lại gần hơn thế này đâu.”
Có vẻ như lũ Quỷ hút hồn bị giới hạn dưới mặt đất, chúng không có khả năng bay, thật may cho các phù thủy. Cuối ngày hôm đó, họ đã thấy được điều mà lũ Quỷ hút hồn có thể làm.
Việc đó xảy ra tại một công trình bắc qua sông, nơi con đường bụi bặm băng qua cây cầu đá thấp tè bên cạnh một khoảng cây rừng. Ánh nắng của buổi chiều muộn chiếu xiên qua vùng đồng cỏ, làm bật lên một màu xanh rực rỡ trên mặt đất và khiến cho không khí như được rắc bụi vàng lấp lánh. Trong thứ ánh sáng xiên ngang lộng lẫy đó, các phù thủy thấy một nhóm khách lữ hành đang tiến về phía cây cầu, vài người đi bộ, vài người trên những chiếc xe ngựa kéo, và hai trong số họ thì cưỡi ngựa. Họ không nhìn thấy các phù thủy vì chẳng có lí do gì để nhìn lên trời, nhưng họ là những người đầu tiên các phù thủy thấy trong thế giới này. Đúng lúc Serafina định sà xuống bắt chuyện thì họ nghe thấy một tiếng kêu hoảng hốt.
Tiếng hét phát ra từ kị sĩ trên con ngựa đầu đoàn. Ông ta đang chỉ vào đám cây, và khi các phù thủy nhìn xuống, họ thấy một dòng những hình thù ma quái đang túa ra qua bãi cỏ, dường như đang trôi về phía đoàn người - con mồi của chúng - một cách dễ dàng.
Đoàn người tản ra. Serafina kinh ngạc khi thấy kị sĩ đầu đoàn quay lại ngay lập tức rồi phi nước đại bỏ đi mà không ở lại giúp những người đồng hành của mình, kị sĩ thứ hai cũng làm y hệt, bỏ chạy nhanh nhất có thể theo một hướng khác.
“Bay thấp xuống và quan sát nào, các chị em,” Serafina nói với những người bạn đồng hành của mình. “Nhưng đừng can thiệp cho tới khi tôi ra lệnh.”
Họ thấy rằng đoàn người nhỏ bao gồm cả trẻ con, vài đứa ở trên xe kéo, vài đứa đi bộ bên cạnh. Rõ ràng là đám trẻ không thấy được lũ Quỷ hút hồn, và lũ Quỷ cũng chẳng hứng thú với chúng: thay vào đó chúng lao về phía những người lớn. Một người phụ nữ lớn tuổi ngồi trên xe đang ôm lấy hai đứa bé trong lòng, Ruta Skadi rất tức giận trước sự hèn nhát của bà ta: vì bà ta cố gắng trốn phía sau lũ trẻ và đẩy chúng tới trước về phía con Quỷ hút hồn đang đến gần, như thể đang dâng hiến chúng để giữ lấy mạng mình.
Hai đứa trẻ vùng ra khỏi người đàn bà rồi nhảy xuống khỏi chiếc xe. Giống như những đứa trẻ khác xung quanh, chúng chạy tới chạy lui trong hoảng loạn, hoặc đứng ôm nhau khóc trong lúc lũ Quỷ hút hồn tấn công người lớn. Chẳng mấy chốc bà già đã bị bọc kín trong thứ ánh sáng mờ ảo trong suốt cử động liên hồi, ăn ngấu nghiến theo một cách vô hình nào đó khiến Ruta Skadi cảm thấy ghê tởm không muốn xem. Số phận tương tự tấn công mọi người lớn trong đoàn trừ hai người đã bỏ chạy trên ngựa.
Vừa thấy mê mẩn vừa kinh hoàng, Serafina Pekkala bay xuống gần hơn nữa. Có một người cha cùng với đứa con của mình đang cố lội qua sông để chạy trốn, nhưng một con Quỷ đã bắt kịp họ, và trong lúc đứa trẻ vừa khóc lóc vừa bám chặt lấy lưng người cha, người đàn ông bước chậm lại rồi đứng ngập trong nước đến thắt lưng, bị bắt và bất lực.
Chuyện gì đang xảy ra với ông ta vậy? Serafina lượn phía trên mặt nước cách đó vài mét, quan sát trong kinh hoàng. Cô đã nghe các lữ khách ở thế giới của mình nói về huyền thoại ma cà rồng, và cô nghĩ đến điều đó khi nhìn con Quỷ hút hồn bận rộn ngốn ngấu - một thứ gì đó, một đặc tính nào đó mà người đàn ông có, linh hồn của ông ta, có lẽ là linh thú; vì hiển nhiên là trong thế giới này các linh thú ở bên trong chứ không lộ ra bên ngoài. Đôi tay ông chùng xuống dưới đùi đứa bé, khiến nó ngã vào làn nước phía sau trong lúc cố gắng một cách vô ích để tóm lấy tay ông. Nó thở hắt ra, gào khóc, nhưng người đàn ông chỉ chầm chậm quay đầu lại rồi nhìn xuống đứa con trai bé bỏng đang chìm dần bên cạnh mình với vẻ hoàn toàn thờ ơ.
Như thế là quả đủ với Serafina. Cô bổ nhào xuống lôi đứa bé ra khỏi làn nước. Đúng lúc đó Ruta Skadi hét lên: “Cẩn thận, người chị em! Phía sau kìa…”
Trong thoáng chốc, Serafina cảm thấy một mảng xám xịt gớm guốc ở bên rìa trái tim mình, cô vươn tới bàn tay của Ruta Skadi và liền được kéo ra khỏi hiểm nguy. Họ bay lên cao, đứa bé gào thét và bấu những ngón tay sắc lẹm vào eo cô, rồi Serafina thấy con Quỷ hút hồn phía sau mình, một mảng sương trôi giạt cuộn xoáy trên mặt nước, lượn lờ khắp nơi tìm con mồi đã đánh mất. Ruta Skadi bắn một mũi tên vào giữa tim nó, nhưng chẳng có chút tác dụng nào.
Thấy rằng đứa bé không gặp nguy hiểm gì từ lũ Quỷ hút hồn, Serafina đặt nó xuống bờ sông rồi họ lui lại trở về không trung. Đoàn người lữ hành nhỏ lúc này đã dừng lại hoàn toàn; đám ngựa gặm cỏ hoặc lắc đầu xua ruồi, trẻ con gào khóc hoặc ôm chặt lấy nhau và quan sát từ xa, còn tất cả người lớn thì vẫn bất động. Mắt họ đang mở; có người đứng, mặc dù phần lớn đã ngồi xuống; một sự tĩnh lặng khủng khiếp bao trùm lấy họ. Khi những con Quỷ hút hồn cuối cùng đã no nê và trôi dạt đi, Serafina hạ thấp độ cao rồi đáp xuống trước mặt một phụ nữ đang ngồi trên cỏ, người phụ nữ trông khỏe khoắn mạnh mẽ với hai gò má ửng đỏ và mái tóc mượt mà sáng óng ánh.
“Này cô?” Serafina lên tiếng. Không có lời đáp lại. “Cô có nghe thấy tôi nói không? Cô có thấy tôi không?”
Cô lay vai người phụ nữ. Với một nỗ lực tột cùng, cô ta ngước lên. Cô ta dường như chẳng nhận thức được gì. Đôi mắt cô ta vô hồn, khi Serafina bấu lên da cánh tay, cô ta chỉ chậm rãi nhìn xuống rồi lại quay đi.
Các phù thủy khác đang di chuyển giữa những cỗ xe nằm rải rác khắp nơi, sợ hãi nhìn các nạn nhân. Đám trẻ con, trong lúc đó, đang tụ lại trên một gò đất nhỏ cách đó không xa, nhìn chằm chằm các phù thủy và hoảng sợ thì thầm với nhau.
“Người cưỡi ngựa đang nhìn kìa,” một phù thủy lên tiếng.
Cô chỉ lên nơi con đường dẫn qua một khoảng hở trong những ngọn đồi. Kị sĩ bỏ chạy lúc trước đã thắng ngựa và quay lại nhìn, tay che nắng cho mắt để xem chuyện gì đang diễn ra.
“Chúng ta sẽ nói chuyện với ông ta,” Serafina nói rồi lao lên không trung.
Dù có xử sự thế nào khi đối mặt với lũ Quỷ hút hồn thì ông ta cũng không phải là một kẻ hèn nhát. Khi thấy các phù thủy đến gần, ông liền tháo dây đeo của khẩu súng trường sau lưng rồi thúc ngựa chạy về phía bãi cỏ, nơi ông có thể chỉnh hướng để bắn và đối mặt với họ ở không gian thoáng đãng; nhưng Serafina Pekkala đã chậm rãi đáp xuống, giơ cây cung ra rồi đặt nó xuống mặt đất phía trước mặt mình.
Dù ở đây người ta có cử chỉ này không thì ý nghĩa của nó cũng không thể nhầm lẫn được. Người đàn ông hạ súng xuống khỏi vai rồi chờ đợi, nhìn từ Serafina sang những phù thủy khác, rồi lên cả phía các linh thú của họ đang lượn vòng ở bầu trời phía trên. Những người phụ nữ, trẻ trung và dữ dằn, khoác lụa đen và cưỡi cành thông bay qua bầu trời - ở thế giới của ông không hề có thứ gì như vậy, nhưng ông đối mặt với họ bằng sự thận trọng đầy bình tĩnh. Serafina tiến lại gần và thấy ngoài sức mạnh, trên gương mặt ông còn in hằn sự đau khổ. Thật khó bỏ qua kí ức về việc ông ta quay ngựa chạy trốn trong khi những người đồng hành bỏ mạng.
“Cô là ai?” Ông hỏi.
“Tên tôi là Serafina Pekkala. Tôi là nữ hoàng của các phù thủy thuộc Hồ Enara, nằm ở một thế giới khác. Tên ông là gì?”
“Joachim Lorenz. Cô nói là phù thủy à? Vậy các cô có bắt tay với ma quỷ không?”
“Nếu có thì điều đó có khiến chúng tôi trở thành kẻ thù của ông không?”
Ông nghĩ một lúc rồi đặt khẩu súng trường lên ngang đùi. “Sự việc có thể đã từng như vậy,” ông đáp, “nhưng thời thế thay đổi rồi. Tại sao các cô lại đến thế giới này?”
“Vì thời thế đã thay đổi. Những sinh vật đã tấn công đoàn của ông là thứ gì vậy?”
“À, lũ Quỷ hút hồn…” Ông nhún vai nói, có đôi chút ngạc nhiên. “Các cô không biết Quỷ hút hồn à?”
“Chúng tôi chưa bao giờ thấy chúng ở thế giới của mình. Chúng tôi đã thấy ông chạy trốn, và không biết phải nghĩ về việc đó như thế nào. Nhưng giờ thì tôi hiểu rồi.”
“Không có cách nào chống trả lại chúng đâu,” Joachim Lorenz nói. “Chỉ có trẻ con là không bị đụng đến. Đoàn lữ hành nào cũng phải bao gồm một nam và một nữ cưỡi trên lưng ngựa, luật là vậy, và họ sẽ phải làm điều chúng tôi đã làm nếu không bọn trẻ sẽ không có ai chăm sóc cả. Nhưng tình thế lúc này rất tồi tệ; các thành phố đều chật ních Quỷ hút hồn, trong khi trước đây ở mỗi nơi chỉ có không quá chục con.”
Ruta Skadi nhìn quanh quất. Cô thấy kị sĩ còn lại đang quay về phía những cỗ xe, và nhận ra rằng quả thật đó là một phụ nữ. Đám trẻ con đang chạy tới chào đón bà.
“Nhưng hãy cho tôi biết các cô đang tìm kiếm thứ gì?” Joachim Lorenz nói tiếp. “Cô chưa trả lời tôi. Các cô sẽ chẳng đến nếu không có mục đích gì. Giờ hãy trả lời tôi đi.”
“Chúng tôi đang tìm kiếm một đứa trẻ,” Serafina đáp, “một cô bé tới từ thế giới của chúng tôi. Tên cô bé là Lyra Belacqua, còn được gọi là Lyra Silvertongue. Nhưng cô bé có thể ở đâu trong thế giới rộng lớn này thì chúng tôi không thể đoán được. Ông chưa từng thấy một đứa bé lạ mặt đi một mình sao?”
“Chưa. Nhưng đêm hôm trước chúng tôi thấy các thiên thần đang hướng về phía Cực.”
“Thiên thần?”
“Hàng toán bay trên không trung, được vũ trang và tỏa sáng lấp lánh. Vài năm gần đây họ không được phổ biến lắm, nhưng vào thời ông nội tôi họ thường bay qua thế giới này, ông nội hay nói như vậy.”
Ông lấy tay che mắt rồi nhìn xuống phía những cỗ xe nằm rải rác và đoàn lữ hành đã bị dừng lại. Kị sĩ còn lại lúc này đã xuống ngựa và đang vỗ về vài đứa trẻ.
Serafina dõi theo ánh nhìn của ông rồi nói: “Nếu chúng tôi cắm trại với các vị tối nay và canh chừng lũ Quỷ hút hồn, liệu ông có thể kể cho chúng tôi thêm về thế giới này và những thiên thần mà ông đã thấy không?”
“Chắc chắn rồi. Hãy đi với tôi.”
Các phù thủy giúp di chuyển những cỗ xe đi xa hơn dọc theo con đường, qua cầu và tránh xa khỏi đám cây mà lũ Quỷ hút hồn vừa chui ra. Các nạn nhân người lớn phải ở lại đó, dù thật đau đớn khi phải nhìn những đứa bé bám lấy người mẹ không còn đáp lại chúng, hay kéo tay áo của người cha câm lặng đang nhìn vào hư không với đôi mắt vô hồn. Những đứa bé hơn không thể hiểu được tại sao chúng phải rời bỏ cha mẹ của mình. Những đứa lớn hơn, vài đứa trong số chúng đã mất cha mẹ của chính mình và những đứa đã từng chứng kiến, chỉ đơn thuần tỏ ra buồn rầu và không nói gì. Serafina bế cậu bé đã ngã xuống sông, nó gào khóc đòi cha, với qua vai Serafina về phía dáng người câm lặng vẫn đang thờ ơ đứng trong làn nước. Serafina cảm thấy nước mắt cậu bé rơi trên làn da trần của mình.
Người nữ kị sĩ mặc cái quần túm ống bằng vải bạt xù xì và cưỡi ngựa như một người đàn ông, không hề hé lời với các phù thủy. Khuôn mặt bà đầy khắc nghiệt. Bà thúc bọn trẻ đi tiếp với giọng điệu nghiêm khắc, lờ đi những giọt nước mắt của chúng. Mặt trời lúc chạng vạng thấm đẫm không khí bằng thứ ánh sáng vàng óng làm nổi bật mọi chi tiết nhưng không khiến chúng chói lóa, khiến gương mặt của những đứa trẻ, người đàn ông cùng người đàn bà dường như trở nên bất tử, mạnh mẽ và tuyệt đẹp.
Sau đó, khi những cục than hồng trong đống lửa tỏa sáng giữa vòng tròn đá phủ tro, còn những ngọn đồi khổng lồ nằm im lìm dưới ánh trăng, Joachim Lorenz kể cho Serafina và Ruta Skadi về lịch sử thế giới của ông.
Nơi đây đã từng là một thế giới hạnh phúc, ông giải thích. Các thành phố rộng rãi và thanh lịch, những cánh đồng màu mỡ được canh tác chu đáo. Các con tàu buôn nối đuôi nhau đi đi về về trên những đại dương xanh biếc, các ngư dân kéo những mẻ lưới đầy ắp cá tuyết và cá ngừ, cá vược cùng cá đối; thú ăn thịt tự do chạy trong rừng và không đứa trẻ nào phải chịu đói. Trong những khoảnh sân và quảng trường của các thành phố lớn, các đại sứ tới từ Brasil và Benin, từ Eireland và Corea hòa trộn với những người bán thuốc lá, cùng những nghệ sĩ hài kịch từ Bergamo, xen lẫn những người môi giới cho vay tài sản lớn. Vào ban đêm, những người tình đeo mặt nạ gặp gỡ dưới hàng cây rủ hoa hồng hay trong khu vườn lấp lánh ánh đèn, bầu không khí náo nức mùi hương hoa nhài và rộn ràng tiếng nhạc đàn dây mandarone.
Các phù thủy tròn mắt lắng nghe câu chuyện về một thế giới vừa giống lại vừa thật khác biệt với thế giới của họ.
“Nhưng rồi mọi thứ trở nên tồi tệ,” ông nói. “Ba trăm năm trước, tất cả thay đổi. Vài người cho rằng Hội Torre degli Angeli của các nhà hiền triết - Tháp của các Thiên thần - tại thành phố chúng tôi vừa đi qua là những người đáng trách. Những người khác lại nói đó là sự phán quyết mà chúng ta phải gánh vì một tội lỗi tày đình nào đó, mặc dù tôi chưa từng nghe thấy người ta đồng tình về việc tội lỗi đó là gì. Nhưng đột nhiên chẳng hiểu từ đâu mà lũ Quỷ hút hồn kéo đến, kể từ đó chúng tôi vẫn luôn bị ám. Các vị đã thấy chúng làm gì rồi đó. Giờ thì hãy tưởng tượng xem sẽ thế nào nếu phải sống trong cùng một thế giới với lũ Quỷ hút hồn. Làm sao chúng tôi có thể phát triển phồn thịnh được khi mà chúng tôi không thể dựa vào bất cứ thứ gì nếu sự việc cứ tiếp diễn thế này? Vào bất cứ lúc nào, một người cha cũng có thể bị bắt, hoặc một người mẹ, rồi cả gia đình sẽ tan tác; một thương nhân có thể bị bắt và doanh nghiệp của anh ta sẽ phá sản, rồi tất cả thư kí và đại điện của anh ta sẽ mất việc; và những người tình làm sao còn có thể tin vào những lời hẹn thề của nhau được? Toàn bộ lòng tin và đức hạnh đều tan biến khỏi thế giới của chúng tôi khi lũ Quỷ hút hồn đến.”
“Những nhà hiền triết này là ai vậy?” Serafina hỏi. “Còn tòa tháp mà ông đã nhắc đến nằm ở đâu?”
“Tại thành phố chúng tôi đã rời đi - Cittàgazze. Thành phố của những con ác là. Cô có biết vì sao nơi đấy được gọi như vậy không? Vì chim ác là là bọn kẻ cắp, và đó là điều duy nhất chúng tôi có thể làm lúc này. Trong hàng trăm năm trời chúng tôi không tạo ra thứ gì, cũng chẳng xây dựng gì, tất cả những gì chúng tôi có thể làm là lấy cắp từ các thế giới khác. Ồ vâng, chúng tôi biết về những thế giới khác. Những nhà hiền triết ở Torre degli Angeli đã khám phá ra tất cả những thứ chúng tôi cần phải biết về chủ đề đó. Họ có một câu thần chú mà chỉ cần xướng lên, nó sẽ cho phép ta bước qua một cánh cửa vốn không hề ở đó, và thấy mình đang ở trong một thế giới khác. Có người nói đó không phải là một câu thần chú mà là một chiếc chìa khóa có thể mở được cả những chỗ không có khóa. Ai mà biết được? Dù có là thứ gì thì nó cũng đã để cho lũ Quỷ hút hồn ùa vào. Theo như tôi hiểu thì các nhà hiền triết vẫn đang sử dụng nó. Họ tới những thế giới khác để lấy trộm rồi mang về những thứ mình tìm thấy. Vàng bạc đá quý là hiển nhiên rồi, nhưng còn cả những thứ khác nữa, như những ý tưởng, các bao tải ngô, hay bút chì. Đó là nguồn gốc toàn bộ sự sung túc của chúng tôi,” ông cay đắng nói, “cái Hội trộm cắp đó.”
“Tại sao Quỷ hút hồn lại không làm hại trẻ con?” Ruta Skadi hỏi.
“Đó là bí ẩn vĩ đại nhất. Có một sức mạnh nào đó trong sự ngây thơ của trẻ con đã đẩy lùi lũ Quỷ của sự Thờ ơ. Nhưng không chỉ có vậy. Lũ trẻ đơn thuần là không nhìn thấy chúng, mặc dù chúng tôi không thể lí giải tại sao. Chưa từng. Nhưng trẻ con mồ côi vì Quỷ hút hồn thì rất phổ biến, như các vị có thể tưởng tượng, những đứa trẻ có cha mẹ bị bắt; chúng tụ họp thành từng nhóm vất vưởng trong đất nước, đôi khi chúng làm thuê cho những người lớn để tìm kiếm thức ăn và nguồn dự trữ trong vùng Quỷ hút hồn hoành hành, hoặc đôi khi chúng lại chỉ đơn thuần là đi lang thang và bới rác tìm đồ ăn.
“Đó là thế giới của chúng tôi. Ồ, chúng tôi vẫn chung sống được với sự nguyền rủa này. Chúng là những vật kí sinh thực thụ: chúng không giết chết vật chủ của mình nhưng lại rút gần cạn sinh lực của anh ta. Tuy nhiên vẫn có một sự cân bằng tương đối - cho tới gần đây, khi cơn bão lớn tới. Quả là một cơn bão khốc liệt; nghe như thể cả thế giới đang nứt nẻ và gãy rời ra; trong kí ức của tôi chưa từng có trận bão nào như vậy.
“Rồi sau đó một màn sương ùa tới bao phủ mọi miền của thế giới mà tôi biết trong nhiều ngày liền, khiến không ai có thể đi lại; và khi sương tan đi, các thành phố tràn ngập lũ Quỷ hút hồn, hàng trăm hàng nghìn con. Vậy là chúng tôi di tản lên những ngọn đồi và ra biển khơi, nhưng lần này thì dù có đi đâu chúng tôi cũng không thể thoát nổi chúng. Như các vị đã chứng kiến.
“Giờ tới lượt cô. Hãy kể cho tôi nghe về thế giới của các cô, và lí do tại sao các cô lại rời khỏi nó mà đến đây.”
Serafina thành thật kể lại với ông tất cả những gì cô biết. Ông là một người trung thực, không có gì cần phải che giấu cả. Ông chăm chú lắng nghe, lắc đầu trong kinh ngạc, rồi khi cô nói xong, ông liền nói:
“Tôi đã kể cho các vị nghe về sức mạnh mà người ta nói các nhà hiền triết của chúng tôi nắm giữ, sức mạnh khai mở con đường dẫn tới các thế giới khác. Có người cho rằng thỉnh thoảng họ quên không đóng cánh cửa đó lại; tôi sẽ không ngạc nhiên nếu thi thoảng lữ khách từ những thế giới khác tìm được đường đến đây. Dù sao thì chúng tôi cũng biết là các thiên thần đi qua đó.”
“Thiên thần?” Serafina hỏi. “Ông có nhắc đến họ. Chúng tôi chưa từng nghe nói về thiên thần. Họ là gì vậy?”
“Cô muốn biết về các thiên thần à?” Joachim Lorenz hỏi. “Được thôi. Họ tự gọi bản thân là bene elim, tôi được kể như vậy. Có người còn gọi họ là những Người giám sát. Họ không phải những sinh vật từ xác thịt như chúng tôi mà là từ linh hồn; hoặc có lẽ da thịt của họ tinh tế hơn chúng tôi, nhẹ hơn và trong hơn, tôi không biết nữa; nhưng họ không giống chúng tôi. Họ mang theo các thông điệp từ thiên đường, đó là lời kêu gọi của họ. Thỉnh thoảng chúng tôi lại thấy họ trên trời, bay qua thế giới này trên đường tới thế giới khác, lấp lánh như những con đom đóm trên cao tít. Trong đêm tĩnh lặng người ta thậm chí còn có thể nghe thấy tiếng đập cánh của họ. Thiên thần có những mối quan tâm khác với chúng tôi, mặc dù vào thời xa xưa, họ đã xuống trần giao du với đàn ông và phụ nữ, có người nói họ còn có con với chúng tôi nữa.
“Rồi khi màn sương kéo tới sau trận bão kinh hoàng, tôi bị kẹt lại trên những ngọn đồi phía sau thành phố Sant’Elia trên đường về nhà. Tôi lánh tạm vào một căn chòi của người chăn cừu bên dòng suối cạnh khu rừng bạch dương. Suốt cả đêm hôm đó, tôi nghe thấy những tiếng nói trong màn sương trên đầu mình, các tiếng kêu thét báo động và giận dữ, cả tiếng vỗ cánh nữa, tôi chưa bao giờ nghe thấy những âm thanh đó gần đến thế. Đến khi trời gần sáng thì có tiếng giao chiến, tiếng tên bay vút và tiếng kiếm va vào nhau loảng xoảng. Tôi không dám ra ngoài xem dù cực kì tò mò, vì tôi sợ. Nếu cô muốn biết thì tôi sợ chết khiếp luôn. Khi bầu trời trở nên sáng nhất có thể trong màn sương đó, tôi đánh liều nhòm ra ngoài và thấy một dáng người cao lớn đầy thương tích nằm bên bờ suối. Tôi có cảm giác như thể mình đang nhìn những thứ không được phép nhìn - những thứ thiêng liêng. Tôi phải quay đi chỗ khác, và khi quay lại nhìn thì hình dáng đó đã biến mất.
“Đó là lần tôi tới được gần nhất với một thiên thần. Nhưng như tôi đã nói với các vị, đêm hôm trước chúng tôi đã thấy họ ở tít cao phía trên giữa các vì sao, hướng về phía Cực, giống như một hạm đội tàu biển đang giương buồm… Có điều gì đó đang diễn ra, nhưng ở dưới này chúng tôi không đoán nổi nó có thể là gì. Có thể là một cuộc chiến đã nổ ra. Trên thiên đường đã từng có một cuộc chiến, ồ, hàng nghìn năm trước rồi, từ rất rất lâu, nhưng tôi không biết kết quả như thế nào. Việc một cuộc chiến khác nổ ra là hoàn toàn có thể. Nhưng sự tàn phá sẽ rất khủng khiếp, và hậu quả dành cho chúng tôi… Tôi không thể tưởng tượng được.
“Dù vậy,” ông nói tiếp trong lúc ngồi thẳng dậy để cời lửa, “kết cục của nó có thể sẽ tốt hơn những gì tôi e sợ. Rất có thể chiến tranh trên thiên đường sẽ quét sạch lũ Quỷ hút hồn ra khỏi thế giới này và đẩy chúng trở lại cái hố mà chúng đã thoát ra. Như vậy thật may mắn biết bao, phải không nào! Chúng tôi có thể được sống thật thoải mái và hạnh phúc, không còn phải lo đến tai họa kinh hoàng kia nữa!”
Dù vậy Joachim Lorenz không hề tỏ ra hi vọng khi ông đăm chiêu nhìn vào đống lửa. Ánh sáng bập bùng nhảy nhót trên gương mặt ông, nhưng những đường nét rắn rỏi không thể hiện chút thay đổi nào; trông ông đầy cay nghiệt và buồn bã.
Ruta Skadi lên tiếng. “Về vùng Cực, thưa ông. Ông nói các thiên thần này đang tiến về vùng Cực. Ông có biết tại sao họ lại làm vậy không? Đó có phải nơi thiên đường ngự trị không?”
“Tôi không đoán được. Tôi không phải một người uyên bác, các vị hẳn đã thấy việc đó khá rõ ràng. Nhưng phía bắc của thế giới chúng tôi, ừm, đó là nơi các linh hồn lưu lại, người ta nói vậy. Nếu các thiên thần đang tụ hợp lại thì đó là nơi họ sẽ đến, mà nếu có định tấn công thiên đường, tôi dám nói rằng đó là nơi họ sẽ xây dựng thành trì và tấn công bất ngờ từ đó.”
Ông ngước nhìn lên, và các phù thủy cũng nhìn theo. Những ngôi sao ở thế giới này cũng giống như ở thế giới của họ: dải Ngân Hà sáng rực vắt ngang vòm trời cùng với vô vàn đốm sáng lấm tấm trên nền trời đêm, về độ sáng thì gần như không hề thua kém mặt trăng…
“Thưa ông,” Serafina nói, “ông đã bao giờ nghe nói tới Bụi chưa?”
“Bụi à? Tôi đoán ý cô muốn nói đến một ý nghĩa khác hơn là bụi bẩn trên đường. Không, tôi chưa từng nghe. Nhưng nhìn kìa - giờ đang có một nhóm thiên thần…”
Ông chỉ về chòm sao Xà Phu. Quả vậy, có thứ gì đó đang bay qua nó, một cụm nhỏ xíu những sinh vật phát sáng. Mà chúng không hề trôi; chúng di chuyển một cách có chủ đích giống như ngỗng hoặc thiên nga vậy.
Ruta Skadi đứng dậy.
“Các chị em, đã đến lúc tôi phải tách khỏi các vị rồi,” cô nói với Serafina. “Tôi sẽ bay lên nói chuyện với các thiên thần này dù họ có là gì đi nữa. Nếu họ đang tới chỗ Ngài Asriel, tôi sẽ đi cùng với họ. Nếu không tôi sẽ tự đi tìm. Cảm ơn đã đồng hành cùng tôi, đi mạnh giỏi nhé.”
Họ hôn từ biệt, rồi Ruta Skadi cầm lấy cành thông mây của mình và lao thẳng lên không trung. Sergi, linh thú của cô, một con chim oanh cổ xanh, phóng ra khỏi màn đêm và sóng vai bay cùng cô.
“Chúng ta sẽ lên cao chứ?” Nó hỏi.
“Cao bằng những kẻ phát sáng đang bay trong chòm Xà Phu kia. Họ đang đi nhanh quá, Sergi ạ. Bắt kịp họ nào!”
Vậy là cô cùng với linh thú c?