- 7 - Rolls Royce
Lyra tỉnh dậy sớm, cảm nhận buổi sáng tĩnh lặng và ấm áp, cứ như thể thành phố này không bao giờ có bất cứ mùa nào khác ngoài mùa hạ êm đềm này. Cô bé trượt người khỏi giường rồi đi xuống tầng, cô nghe thấy tiếng vài đứa trẻ đang nô đùa dưới nước nên đã ra xem chúng đang làm gì.
Ba đứa con trai và một đứa con gái đang khỏa nước qua một bến cảng ngập tràn ánh nắng trong mấy con thuyền đạp vịt, đua nhau đạp về phía những bậc thang. Khi thấy Lyra, chúng đi chậm lại một chút, nhưng rồi cuộc đua lại lôi kéo chúng trở lại. Những kẻ thắng cuộc đâm sầm vào các bậc thang mạnh đến nỗi một đứa trong số chúng ngã nhào xuống nước, và khi cố gắng trèo vào một con thuyền khác, nó lại làm lật luôn con thuyền đó. Cứ thế, chúng cùng nhau bơi loanh quanh như thể nỗi kinh hoàng của đêm hôm trước chưa từng tồn tại. Chúng nhỏ tuổi hơn hầu hết những đứa trẻ bên tòa Tháp, Lyra nghĩ. Cô nhảy vào làn nước nhập hội với chúng, cùng với Pantalaimon trong hình dạng một con cá nhỏ màu bạc đang lấp lánh bên cạnh. Cô bé chưa từng gặp khó khăn khi bắt chuyện với những đứa trẻ khác, và chẳng mấy chốc chúng đã túm tụm lại quanh cô, ngồi trên tảng đá ấm trong những vũng nước, quần áo của chúng khô nhanh chóng dưới ánh nắng mặt trời. Tội nghiệp Pantalaimon lại phải trốn vào túi áo cô, một con ếch trong lớp cotton ấm và mát.
“Các cậu định làm gì với con mèo đó?”
“Các cậu thật sự có thể xua điềm xui đi sao?”
“Các cậu từ đâu tới?”
“Bạn của cậu, cậu ta không sợ Quỷ hút hồn à?”
“Will chẳng sợ cái gì hết,” Lyra đáp. “Mà tớ cũng thế. Sao các cậu lại sợ mèo chứ?”
“Cậu không biết về lũ mèo à?” Thằng bé lớn nhất nói đầy ngờ vực. “Bọn mèo chứa ma quỷ bên trong, thật đấy. Cứ thấy mèo là cậu phải giết. Chúng sẽ cắn và truyền con quỷ vào người cậu. Mà cậu đang làm gì với con báo to đùng đó vậy?”
Nhận ra rằng chúng muốn nói đến Pantalaimon trong dạng báo đốm của mình, cô liền lắc đầu vẻ ngây thơ.
“Chắc các cậu mơ đấy,” cô nói. “Dưới ánh trăng thì có đủ thứ trông khác biệt. Nhưng tớ và Will, ở chỗ chúng tớ không có Quỷ hút hồn, nên chúng tớ không biết nhiều lắm về chúng.”
“Nếu không thấy được chúng thì các cậu vẫn an toàn,” một thằng nhóc nói. “Nếu thấy chúng thì có nghĩa là chúng có thể tóm được cậu. Ba tớ đã nói vậy, sau đó ông ấy bị chúng tóm mất. Đúng lúc ông không để ý tới chúng.”
“Vậy giờ chúng đang ở đây xung quanh chúng ta à?”
“Phải,” đứa con gái đáp. Nó với tay ra nắm lấy một nắm đầy không khí rồi reo vang: “Tớ tóm được một con rồi!”
“Chúng không thể làm hại cậu,” một trong những cậu bé nói. “Nên chúng ta cũng không thể làm gì chúng, vậy đấy.”
“Bọn Quỷ hút hồn vẫn luôn tồn tại ở thế giới này à?” Lyra hỏi.
“Phải,” một thằng bé đáp, nhưng đứa khác lại nói: “Không, chúng tới từ cách đây rất lâu rồi. Từ hàng trăm năm trước.”
“Chúng tới vì Hội đó,” đứa thứ ba nói.
“Hội gì cơ?” Lyra hỏi.
“Còn lâu!” Đứa con gái cãi lại. “Bà tớ nói chúng tới vì con người xấu xa quá, nên Chúa cử chúng tới trừng phạt chúng ta.”
“Bà cậu chẳng biết gì cả,” một thằng bé nói. “Bà ta có râu, bà cậu ấy. Bà ta là một con dê, thề luôn.”
“Hội là gì vậy?” Lyra cố nài.
“Cậu biết Torre degli Angeli rồi đấy,” một thẳng bé đáp, “tòa tháp đá, phải, nó thuộc về Hội, ở trong đó có một nơi bí mật. Hội là những người đàn ông thông suốt về mọi thứ. Triết học, thuật giả kim, họ biết đủ thứ. Và họ chính là những người đã để lũ Quỷ hút hồn vào.”
“Không đúng,” một thằng bé khác nói. “Chúng tới từ những ngôi sao mà.”
“Đúng đấy! Việc xảy ra thế này này: có một người đàn ông của Hội sống cách đây hàng trăm năm đã tìm cách tách kim loại. Chì. Ông ta định biến nó thành vàng. Vậy là ông ta cứ cắt nhỏ, nhỏ mãi cho tới khi có được mẩu nhỏ nhất có thể. Không có thứ gì nhỏ được hơn vậy nữa. Thậm chí còn nhỏ đến mức không nhìn thấy nổi. Nhưng ông ta vẫn cắt nó, và cái mẩu cực kì nhỏ đó chứa toàn bộ lũ Quỷ hút hồn bị nén vặn vẹo bên trong, chúng bị nhét chặt đến mức hoàn toàn không còn tí không gian nào. Nhưng ông ta vừa mới cắt mẩu kim loại thì bùm! Chúng lao ra và lảng vảng ở đây kể từ đó. Ba tớ kể vậy đấy.”
“Hiện giờ có thành viên nào của Hội đang ở trong tháp không?” Lyra hỏi.
“Không! Họ cũng chạy trốn như những người khác rồi,” đứa con gái đáp.
“Không có ai trong tháp đâu. Cái chỗ đó bị ám quẻ rồi,” một thằng nhóc nói. “Đó là lí do con mèo chạy ra từ đó. Bọn tớ sẽ không vào trong đó đâu, nghiêm túc đấy. Không có đứa trẻ nào vào trong đó hết. Đáng sợ lắm.”
“Người của Hội chẳng ngán vào trong đó đâu,” một đứa khác nói.
“Họ có ma thuật đặc biệt hay gì đó ấy. Họ tham lam lắm, sống trên sinh mạng của người dân nghèo,” đứa con gái nói. “Những người nghèo làm tất cả mọi việc, còn người của Hội thì cứ thế sống mà chẳng làm gì.”
“Nhưng trong tháp bây giờ không có ai cả à?” Lyra hỏi. “Không một người lớn nào?”
“Chẳng có người lớn nào trong thành phố hết!”
“Họ chẳng dám ở lại đâu.”
Nhưng cô bé đã thấy một thanh niên ở trên đó. Cô tin chắc như vậy. Hơn nữa, có điều gì đó trong cái cách mà những đứa trẻ này nói: bản thân là một kẻ nói dối điêu luyện, cô bé nhận ra được những kẻ dối trá khi gặp chúng, bọn trẻ đang che giấu một điều gì đó.
Rồi đột nhiên cô nhớ ra: cậu nhóc Paolo có nhắc tới việc nó và Angelica có một người anh tên Tullio cũng đang ở trong thành phố, và Angelica đã suỵt nó… Có thể nào người thanh niên mà cô bé thấy là anh trai của chúng không?
Cô để bọn trẻ lôi thuyền và bàn đạp lên bờ biển, còn mình thì vào trong nhà pha chút cà phê rồi kiểm tra xem Will đã dậy chưa. Nhưng cậu bé vẫn đang ngủ, với con mèo cuộn tròn dưới chân. Lyra đang nóng lòng muốn gặp lại vị học giả của mình, cô bèn viết một tờ ghi chú, đặt nó trên sàn cạnh giường ngủ của cậu rồi lấy balô đi tìm cái cửa sổ.
Con đường cô chọn dẫn qua khu quảng trường nhỏ mà chúng đã đến vào đêm hôm trước, nhưng giờ thì nó trống trơn.
Mặt trời rải nắng lên mặt tiền của tòa tháp cổ kính làm bật lên những họa tiết chạm khắc đã mờ bên cạnh cửa vào: những hình dáng giống con người với đôi cánh gập lại, đường nét trên cơ thể họ đã bị thời tiết qua hàng thế kỉ ăn mòn, nhưng không hiểu tại sao sự tĩnh lặng của họ lại toát lên uy quyền, lòng trắc ẩn và sức mạnh trí tuệ.
“Thiên thần,” Pantalaimon trong dạng dế thốt lên từ trên vai Lyra.
“Có khi là Quỷ hút hồn,” Lyra nói.
“Không phải! Mấy đứa kia đã nói nó là angeli[8] gì đó mà,” nó khẳng định. “Dám cá với cậu đó là thiên thần.”
“Chúng ta vào chứ?”
Hai đứa ngước nhìn cánh cửa gỗ sồi vĩ đại gắn trên bản lề được trang trí lộng lẫy. Nửa tá bậc cầu thang dẫn tới đó đã bị mòn vẹt đi, còn bản thân cánh cửa thì đang hé mở. Chẳng có thứ gì ngăn cản Lyra bước vào ngoại trừ nỗi sợ của chính cô.
Cô bé nhón chân lên bậc thang cao nhất rồi nhìn qua khoảng hở. Một khu sảnh lát đá sẫm màu là thứ duy nhất cô thấy được, tuy chỉ là một phần; nhưng Pantalaimon đang lo lắng run rẩy trên vai cô, giống y như khi chúng nghịch ngợm với những cái sọ trong hầm mộ ở Học viện Jordan. Giờ cô đã khôn ngoan hơn. Nơi này không tốt chút nào. Cô chạy xuống cầu thang và ra khỏi quảng trường, hướng tới ánh nắng rực rỡ của đại lộ cây cọ. Ngay khi chắc chắn rằng không có ai đang nhìn, cô lao thẳng qua đường, tới chỗ ô cửa sổ và vào thành phố Oxford của Will.
Bốn mươi phút sau cô bé đã lại ở trong tòa nhà nghiên cứu vật lí, tranh cãi với người gác cửa; nhưng lần này cô đã có con át chủ bài.
“Ông cứ hỏi Tiến sĩ Malone đi,” cô bé ngọt ngào nói. “Đó là tất cả những gì ông phải làm. Bà ấy sẽ nói cho ông biết.”
Người gác cửa quay sang phía điện thoại của mình. Lyra thương hại nhìn ông ấn nút và nói vào máy. Người ta không cho ông một nhà gác hẳn hoi để ngồi, giống như tại một học viện Oxford thực thụ, mà chỉ là một quầy gỗ lớn, cứ như thể đây là một cửa hàng vậy.
“Được rồi,” người gác cửa quay lại nói. “Bà ấy nói cháu lên đi. Nhớ là đừng có đi đâu khác đó.”
“Không đâu ạ,” cô bé ra vẻ nghiêm trang, một cô gái nhỏ ngoan ngoãn làm theo những gì được bảo.
Thế nhưng trên đỉnh cầu thang, cô đã phải ngạc nhiên vì khi vừa đi ngang qua một cánh cửa với biểu tượng phụ nữ trên đó thì cánh cửa liền mở ra, và Tiến sĩ Malone đứng đó lặng lẽ ra hiệu cho cô vào.
Cô bé bước vào, trong lòng đầy bối rối. Đây không phải phòng thí nghiệm mà là phòng vệ sinh, còn Tiến sĩ Malone đang bị kích động.
Bà nói: “Lyra - đang có người khác trong phòng thí nghiệm - sĩ quan cảnh sát hay gì đó - họ biết cháu đã đến gặp ta vào ngày hôm qua - ta không biết họ muốn gì nhưng ta không thích thế này - chuyện gì đang diễn ra vậy?”
“Làm sao họ biết được là cháu đã tới gặp bà?”
“Ta không biết! Họ không biết tên cháu, nhưng ta biết họ muốn nói đến ai…”
“Ồ. Cháu có thể nói dối họ. Dễ thôi.”
“Nhưng chuyện gì đang diễn ra thế?”
Một giọng phụ nữ vang lên từ dãy hành lang phía ngoài:
“Tiến sĩ Malone? Bà đã gặp đứa trẻ chưa?”
“Rồi,” Tiến sĩ Malone nói. “Tôi chỉ đang chỉ cho cô bé phòng vệ sinh ở đâu thôi…”
Bà ấy đâu cần phải lo lắng đến vậy, Lyra nghĩ, nhưng có lẽ bà ấy chưa quen với nguy hiểm.
Người phụ nữ trong hành lang còn trẻ và ăn vận rất thanh lịch. Cô ta cố gắng nặn ra một nụ cười khi Lyra bước ra, nhưng đôi mắt vẫn giữ nguyên vẻ gay gắt và ngờ vực.
“Xin chào,” cô ta lên tiếng. “Cháu là Lyra đúng không?”
“Vâng. Tên cô là gì?”
“Cô là Hạ sĩ Clifford. Vào đây nào.”
Lyra nghĩ người phụ nữ này quả là ngang nhiên, cô ta hành động như thể phòng thí nghiệm đó là của mình vậy. Tuy vậy, cô bé vẫn ngoan ngoãn gật đầu. Đó là khoảnh khắc đầu tiên khiến cô thấy nhói lên vì hối hận. Cô biết mình đáng ra không nên ở đây; cô biết Chân Kế muốn cô làm gì, và đây không phải việc đó. Cô đứng lưỡng lự nơi ngưỡng cửa.
Một người đàn ông cao lớn mạnh mẽ với đôi lông mày trắng phau đã ở sẵn trong phòng. Lyra biết những học giả trông như thế nào, và chẳng ai trong số hai người này là học giả cả.
“Vào đi, Lyra,” Hạ sĩ Clifford nhắc lại. “Không sao đâu. Đây là Thanh tra Walters.”
“Chào Lyra,” người đàn ông nói. “Ta đã nghe đủ chuyện về cháu từ Tiến sĩ Malone đây. Ta rất muốn gặp cháu để hỏi vài câu, nếu cháu đồng ý.”
“Câu hỏi kiểu gì ạ?” Cô bé hỏi.
“Không khó khăn gì đâu,” ông ta vừa cười vừa đáp. “Đến đây ngồi đi, Lyra.”
Ông ta đẩy một cái ghế về phía Lyra. Cô bé cẩn thận ngồi xuống và nghe thấy tiếng cánh cửa tự đóng lại. Tiến sĩ Malone đang đứng cạnh đó. Con dế Pantalaimon trong túi ngực của cô tỏ ra kích động: cô có thể cảm thấy nó đang đập vào ngực mình, hi vọng rằng sự rung động không quá lộ liễu. Cô thầm nhắc nó ngồi im.
“Cháu từ đâu tới vậy Lyra?” Thanh tra Walters hỏi.
Nếu cô trả lời là Oxford, họ sẽ dễ dàng kiểm tra được, nhưng cô cũng không thể nói là từ một thế giới khác. Những người này rất nguy hiểm, họ kiểu gì cũng muốn biết thêm cho xem. Cô nghĩ tới cái tên duy nhất còn lại mà mình biết thuộc thế giới này: quê hương của Will.
“Winchester,” cô nói.
“Cháu vừa mới đánh nhau phải không Lyra?” Ông thanh tra hỏi. “Làm thế nào mà cháu có mấy vết bầm đó vậy? Có một vết trên má cháu và một vết khác ở dưới chân - ai đó đã đánh đập cháu à?”
“Không ạ,” Lyra đáp.
“Cháu có đến trường không Lyra?”
“Có. Thỉnh thoảng ạ,” cô nói thêm.
“Hôm nay cháu không đi học sao?”
Cô bé không nói gì. Càng ngày cô càng cảm thấy khó chịu. Cô nhìn Tiến sĩ Malone, vẻ mặt bà đầy căng thẳng và không vui.
“Cháu chỉ tới đây để gặp Tiến sĩ Malone thôi,” Lyra nói.
“Cháu đang sống ở Oxford à, Lyra? Cháu đang ở đâu thế?”
“Với vài người,” cô đáp. “Chỉ là bạn bè thôi ạ.”
“Địa chỉ của họ là gì?”
“Cháu không biết chính xác tên gọi của chỗ đấy. Cháu có thể tìm được nó dễ thôi, nhưng cháu không thể nhớ nổi tên đường.”
“Những người này là ai?”
“Chỉ là bạn của cha cháu thôi ạ,” cô đáp.
“Ồ, ra vậy. Làm cách nào cháu tìm được Tiến sĩ Malone thế?”
“Vì cha cháu là một nhà vật lí và ông ấy biết bà.”
Giờ thì dễ dàng hơn rồi, cô bé nghĩ thầm. Cô bắt đầu thả lỏng hơn và nói dối trôi chảy hơn.
“Vậy bà ấy đã cho cháu xem công trình đang tiến hành của mình rồi chứ?”
“Rồi ạ. Cỗ máy với cái màn hình… Vâng, tất cả ạ.”
“Cháu có hứng thú với mấy thứ đó đúng không? Khoa học các kiểu ấy?”
“Vâng. Đặc biệt là vật lí ạ.”
“Lớn lên cháu sẽ trở thành nhà khoa học à?”
Câu hỏi kiểu đó xứng đáng nhận được một cái nhìn trống rỗng, và nó đã được như vậy. Người đàn ông không hề tỏ ra nao núng. Đôi mắt sáng màu của ông ta thoáng liếc sang người phụ nữ trẻ rồi trở lại phía Lyra.
“Vậy cháu có ngạc nhiên về thứ Tiến sĩ Malone đã cho cháu xem không?”
“À, đại khái ạ, nhưng cháu biết cần trông chờ điều gì.”
“Nhờ cha cháu à?”
“Vâng. Vì công việc ông ấy đang làm cũng na ná thế này.”
“Ra vậy. Cháu có hiểu không?”
“Một phần thôi ạ.”
“Vậy cha cháu cũng đang nghiên cứu vật chất tối à?”
“Vâng.”
“Ông ấy có tiến xa như Tiến sĩ Malone không?”
“Không phải theo cách đó ạ. Ông ấy có thể làm vài việc khác tốt hơn, nhưng cái máy với những dòng chữ trên màn hình, ông ấy không có cái nào như thế.”
“Will có ở cùng với các bạn của cháu không?”
“Có ạ, cậu ấy…”
Cô dừng bặt lại, ngay lập tức nhận ra rằng mình vừa mắc một sai lầm khủng khiếp.
Hai người kia cũng đã nhận ra, họ liền đứng bật dậy định ngăn cô chạy ra ngoài, nhưng bằng cách nào đó Tiến sĩ Malone đã kịp cản đường, viên hạ sĩ vấp chân rồi ngã nhào ra, cản đường của viên thanh tra. Việc đó đã cho Lyra thời gian để lao ra ngoài và đóng sầm cửa lại phía sau, rồi cô chạy hết tốc lực về phía cầu thang.
Hai người đàn ông mặc áo choàng trắng bước ra từ một cánh cửa khiến cô đâm sầm vào họ. Đột nhiên Pantalaimon hóa thành một con quạ, kêu rít và đập cánh loạn xạ, hai người này giật mình ngã bổ ngửa ra, Lyra lập tức giằng khỏi tay họ rồi chạy xuống tầng cầu thang cuối cùng để vào hành lang ngay đúng lúc người gác cửa đặt điện thoại xuống, lật đật đuổi theo phía sau quầy trực và gọi lớn: “Này! Dừng lại đấy! Con bé kia!”
Nhưng tấm chắn mà ông ta cần phải lật lên lại ở đầu bên kia, nhờ vậy cô bé đã ra được cửa xoay trước khi ông ta có thể ra ngoài để đuổi theo cô.
Phía sau cô, cửa thang máy đang mở dần, người đàn ông có mái tóc trắng lao ra thật nhanh và mạnh mẽ…
Nhưng cánh cửa không chịu xoay! Pantalaimon rít lên với cô: chúng đang đẩy nhầm phía!
Cô bé hét lên hoảng sợ rồi lao ra ngoài sang bên một ô cửa khác, dồn trọng lượng nhỏ bé của mình lên tấm kính nặng nề, cố gắng làm nó xoay. Cô di chuyển được cái cửa vừa kịp lúc để tránh bàn tay đang vươn ra của ông gác cửa, ông ta sau đó ngáng đường của gã đàn ông tóc trắng nên Lyra có thể thoát ra và chạy đi trước khi họ qua được cửa.
Cô lao qua đường, mặc kệ đám xe cộ, những tiếng phanh kít, tiếng bánh xe rít lên; chui vào khe hở giữa những tòa nhà cao tầng, rồi một con đường khác, với xe phóng đến từ hai phía, nhưng cô đã nhanh nhẹn né những chiếc xe đạp, gã đàn ông tóc trắng luôn bám sát phía sau - ôi, hắn ta mới khủng khiếp làm sao!
Cô chạy vào một khu vườn - qua một hàng rào - xuyên vài bụi cây - Pantalaimon nhanh nhẹn bay phía trước, nói vọng lại cho cô biết phải đi đường nào. Cô thu người phía sau một thùng chứa than khi tiếng bước chân gã đàn ông tóc trắng vụt qua. Cô không hề nghe thấy tiếng hắn thở, hắn quá nhanh, quá sung sức. Lúc đó Pantalaimon lên tiếng: “Quay lại thôi - trở lại con đường…”
Cô bèn lẩn ra khỏi chỗ trốn rồi chạy qua bãi cỏ, ra khỏi cổng vườn, trở lại khoảng không thoáng đãng của Đường Banbury; một lần nữa cô lại luồn lách qua đường, và một lần nữa các bánh xe lại rít lên; rồi cô phi lên Norham Gardens, một con đường tĩnh lặng rợp bóng cây và những ngôi nhà cao theo kiến trúc thời Victoria bên cạnh công viên.
Cô tạm dừng để thở. Phía trước một trong những khu vườn ở đó là một bờ giậu cao với gờ tường thấp dưới chân, cô bé ngồi xuống, thu người lại bên dưới hàng cây thủy lạp.
“Bà ấy đã giúp chúng ta!” Pantalaimon nói. “Tiến sĩ Malone đã ngáng đường chúng. Bà ấy ở phe chúng ta chứ không phải phe bọn chúng.”
“Ôi, Pan,” cô bé thốt lên. “Đáng ra tớ không nên nhắc đến Will - đáng ra tớ phải cẩn thận hơn…”
“Đáng ra không nên đến,” nó nói gay gắt.
“Tớ biết. Cả việc đó nữa…”
Nhưng cô không có thời gian để mắng nhiếc bản thân, vì Pantalaimon đã bay lên vai cô và nói: “Coi chừng - phía sau kìa…” rồi lập tức biến trở lại thành dế và chui tọt vào túi áo cô.
Cô đứng đó, sẵn sàng tinh thần để chạy thì thấy một chiếc xe lớn màu đen sẫm lặng lẽ tấp vào vỉa hè bên cạnh mình. Cô đang chuẩn bị lao đi theo một trong hai hướng thì cửa sau của chiếc xe hạ xuống, và gương mặt nhìn ra từ đó là của một người mà cô biết.
“Lizzie,” ông già ở Bảo tàng lên tiếng. “Thật mừng được gặp lại cháu. Ta có thể cho cháu đi nhờ đến đâu đó không?”
Nói rồi ông ta mở cửa và ngồi lùi lại để dành chỗ bên cạnh mình. Pantalaimon khẽ cắn vào ngực cô qua lớp cotton mỏng, nhưng cô đã vào xe ngay tức khắc, tay ôm chặt cái balô, người đàn ông vươn tay qua người cô để đóng cửa xe lại.
“Trông cháu có vẻ đang vội,” ông ta nói. “Cháu muốn đi đâu?”
“Lên Summertown ạ,” cô nói, “cảm ơn ông.”
Người lái xe đội một chiếc mũ lưỡi trai. Mọi thứ về chiếc xe đều êm ái, mềm mại và mạnh mẽ, từ người ông già tỏa ra một mùi nước hoa nồng đậm trong không gian đóng kín. Chiếc xe rời khỏi vỉa hè, khởi hành mà không tạo ra một tiếng động nào.
“Cháu định làm gì thế, Lizzie?” Ông già hỏi. “Cháu đã tìm hiểu được thêm gì về những cái sọ chưa?”
“Rồi ạ,” cô đáp trong lúc xoay người để nhìn ra cửa sau. Không có dấu hiệu nào của gã đàn ông tóc bạc. Cô đã thoát! Giờ đây, khi đã an toàn trong chiếc xe đầy mãnh lực của một người đàn ông giàu có như thế này, còn lâu hắn ta mới tìm được cô. Niềm hân hoan chiến thắng dâng lên trong cô.
“Ta cũng đã gửi đi một số yêu cầu,” ông nói. “Một nhà nhân chủng học bạn ta nói rằng họ có vài cái khác trong bộ sưu tập, cũng như những cái đang trưng bày. Một vài trong số chúng thực sự rất cổ. Chủng người Neanderthal[9], cháu biết đấy.”
“Vâng, đó cũng là thứ cháu đã nghe được,” Lyra đáp, dù chẳng biết tí gì về điều ông ta đang nói.
“Vậy còn bạn cháu thế nào rồi?”
“Bạn nào ạ?” Lyra đáp, hoảng hốt: cô cũng đã nói với ông ta về Will rồi sao?
“Người bạn mà cháu đang sống cùng ấy.”
“À. Vâng. Cô ấy vẫn khỏe ạ, cảm ơn ông.”
“Cô ấy đang làm gì? Cô ấy là nhà khảo cổ à?”
“À… Nhà vật lí ạ. Cô ấy nghiên cứu vật chất tối,” Lyra nói, vẫn chưa thực sự bình tĩnh lại. Việc nói dối ở thế giới này khó khăn hơn cô tưởng. Ngoài ra còn một thứ vẫn đang khiến cô day dứt: ông già này có một điều gì đó rất thân quen mà cô đã quên mất từ lâu, cô không thể nào nhớ ra nổi.
“Vật chất tối à?” Ông ta thốt lên. “Thật hấp dẫn làm sao! Sáng nay ta đã đọc được chút ít về nó trên tờ The Times. Vũ trụ tràn ngập cái thứ vật chất bí ẩn này, mà chẳng ai biết nó là gì! Còn bạn cháu thì đang theo đuổi nó, phải không?”
“Vâng. Cô ấy biết nhiều về nó lắm.”
“Vậy sau này cháu định làm gì, hả Lizzie? Cháu cũng sẽ theo vật lí học chứ?”
“Có thể ạ,” Lyra đáp. “Cái đó còn tuỳ.”
Ông tài xế khẽ hắng giọng rồi giảm tốc chiếc xe.
“Ồ, chúng ta đến Summertown rồi,” ông già nói. “Cháu muốn xuống ở đâu?”
“À - cứ qua mấy cửa hàng này là được ạ - cháu có thể đi bộ từ đó,” Lyra nói. “Cảm ơn ông.”
“Rẽ trái vào South Parade rồi tấp vào bên phải được chứ, Allan,” ông già nói.
“Đã rõ, thưa ngài,” ông tài xế nói.
Một phút sau chiếc xe lặng lẽ đỗ lại bên ngoài một thư viện công cộng. Ông già giữ cửa mở ở phía mình nên Lyra phải trèo qua đầu gối ông để ra ngoài. Trong xe rất rộng rãi, nhưng không hiểu sao việc này lại khiến cô khó xử, dù ông già có rất tử tế, cô cũng không muốn chạm vào ông ta.
“Đừng quên cặp của cháu nhé,” ông ta nói rồi đưa nó cho cô.
“Cảm ơn ông,” cô nói.
“Hi vọng sẽ lại được gặp cháu, Lizzie,” ông nói. “Gửi lời chào của ta đến người bạn của cháu nhé.”
“Tạm biệt ông,” cô nói rồi nấn ná lại trên vỉa hè cho tới khi chiếc xe rẽ qua góc đường và biến mất, sau đó cô mới tiến về phía hàng cây duyên mộc. Cô có một cảm giác lạ lùng về gã đàn ông tóc trắng nên muốn hỏi ý kiến Chân Kế.
Will đang đọc lại những bức thư của bố. Cậu bé ngồi trên hiên nhà lắng nghe những tiếng la hét vọng lại từ xa của lũ trẻ đang ngụp lặn phía ngoài cửa cảng và đọc những dòng chữ viết tay nắn nót trên giấy viết thư máy bay, cố gắng hình dung ra người đàn ông đã viết nên nó, đọc đi đọc lại những chỗ nhắc đến đứa bé sơ sinh, đến chính cậu.
Cậu nghe thấy tiếng Lyra chạy từ xa vọng tới. Cậu nhét những bức thư vào túi rồi đứng dậy, gần như đúng lúc đó Lyra xuất hiện, mắt long lên, cùng với Pantalaimon trong dạng mèo rừng hoang dại đang gầm ghè, điên tiết đến mức không buồn trốn nữa. Cô bé vốn rất hiếm khi khóc lóc giờ lại đang nức nở vì giận dữ; lồng ngực cô phập phồng, răng nghiến chặt, cô lao vào cậu, tóm chặt lấy hai tay cậu và gào lên: “Giết hắn! Giết hắn! Tớ muốn hắn ta chết! Ước gì Iorek ở đây - ôi, Will, tớ đã hành động sai lầm, tớ xin lỗi…”
“Sao? Có chuyện gì vậy?”
“Lão già - lão ta không gì khác ngoài một tên trộm đê hèn - lão đã cướp mất nó, Will ạ! Lão đã cướp mất Chân Kế của tớ rồi! Lão già hôi hám với bộ đồ đắt tiền và tên người hầu lái xe - ôi, tớ đã làm một việc sai lầm vào sáng nay - ôi, tớ…”
Cô bé cứ thế nức nở đến mức Will nghĩ rằng trái tim quả thật có thể tan vỡ, và lúc này tim cô đang vỡ tan ra, vì cô sụp xuống sàn rền rĩ, người run lên bần bật, còn Pantalaimon ở bên cạnh thì hóa thành một con sói, tru lên trong nỗi buồn thảm cay đắng.
Từ phía xa bên kia dòng nước, lũ trẻ ngừng việc chúng đang làm và lấy tay che mắt nhìn. Will ngồi xuống bên cạnh Lyra và lay vai cô.
“Thôi nào! Ngưng khóc đi!” Cậu nói. “Kể cho tớ nghe từ đầu xem nào. Lão già nào? Chuyện gì đã xảy ra?”
“Cậu sẽ rất tức giận cho xem - tớ đã hứa sẽ không để lộ về cậu, tớ đã hứa, vậy mà…” Cô khóc lóc còn Pantalaimon thì biến thành một con chó con vụng về, tai cụp xuống, đuôi ve vẩy, đi luẩn quẩn vì tự thấy nhục nhã; Will hiểu rằng Lyra đã làm một việc quá xấu hổ để có thể kể với cậu, cậu bèn quay sang nói với con linh thú.
“Chuyện gì đã xảy ra? Cứ kể đi xem nào,” cậu nói.
Pantalaimon đáp: “Bọn tớ đã đến chỗ vị học giả, ở đó có vài người khác, một đàn ông và một phụ nữ - chúng đã lừa bọn tớ - chúng hỏi rất nhiều câu, hỏi về cả cậu nữa. Trước khi kịp dừng lại thì bọn tớ đã để lộ về việc quen biết cậu, rồi bọn tớ bỏ chạy…”
Lyra đang giấu mặt trong hai bàn tay, đầu tì xuống vỉa hè. Pantalaimon thì biến đổi hết dạng này sang dạng khác vì kích động: chó, chim, mèo, chồn ermine trắng muốt.
“Gã đàn ông trông như thế nào?” Will hỏi.
“To lớn,” Lyra nói bằng giọng nghẹn ngào, “rất khỏe, mắt màu xanh nhạt…”
“Hắn có thấy cậu về qua ô cửa sổ không?”
“Không, nhưng…”
“À, vậy thì hắn sẽ không biết chúng ta ở đâu đâu.”
“Nhưng còn Chân Kế!” Cô gào lên rồi ngồi bật dậy, mặt đanh lại vì cảm xúc dồn nén, chẳng khác gì một cái mặt nạ Hy Lạp.
“Ừ,” Will nói. “Kể cho tớ về nó đi.”
Giữa những tiếng khóc nấc và tiếng nghiến răng, cô kể lại cho cậu nghe chuyện đã xảy ra: ông già đã thấy cô sử dụng Chân Kế trong Bảo tàng vào ngày hôm trước như thế nào, ông ta đã dừng xe và tấp vào lề đường bên đó khiến cô phải trèo qua mình để ra ngoài ra sao, và ông ta hẳn đã nhanh tay lấy Chân Kế khi chuyển cái balô cho cô như thế nào…
Cậu có thể thấy cô bé đang tuyệt vọng đến nhường nào, nhưng không thể hiểu tại sao cô lại phải thấy có lỗi. Rồi cô nói:
“Will ạ, tha lỗi cho tớ, tớ đã làm một việc tồi tệ. Chân Kế đã bảo tớ phải ngừng tìm kiếm Bụi và giúp cậu. Tớ phải giúp cậu tìm lại bố. Và tớ đã có thể, tớ đã có thể đưa cậu đến chỗ của ông ấy dù có là ở đâu đi chăng nữa, nếu tớ có cái máy. Nhưng tớ không chịu nghe. Tớ chỉ làm việc mình muốn, đáng ra tớ không nên như vậy…”
Will đã thấy cô sử dụng cái máy và biết rằng nó có thể cho cô biết sự thật. Cậu quay đi. Cô bé nắm lấy cổ tay cậu, nhưng cậu giật ra rồi bước tới mép nước. Bọn trẻ lại đang chơi đùa trên bến cảng. Lyra chạy tới bên cậu và nói: “Will, tớ thật lòng xin lỗi…”
“Được ích gì chứ? Tớ không quan tâm cậu có thấy hối lỗi hay không. Cậu đã làm thế rồi.”
“Nhưng Will, chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau, cậu và tớ, vì chẳng còn ai khác cả!”
“Tớ chẳng thấy được cách nào cả.”
“Tớ cũng không, nhưng mà…”
Đang nói dở thì cô dừng bặt lại, một tia sáng lóe lên trong mắt cô. Cô quay người chạy về phía cái balô đang bị vứt chỏng chơ trên vỉa hè và điên cuồng sục sạo trong đó.
“Tớ biết hắn ta là ai! Cả nơi hắn ở nữa! Xem này!” Cô nói rồi giơ một tấm danh thiếp nhỏ màu trắng lên. “Hắn đã đưa cho tớ cái này lúc ở Bảo tàng! Chúng ta có thể đi lấy nó về!”
Will cầm lấy tấm thiếp và đọc:
Ngài Charles Latrom, CBE[10]
Dinh thự Limefield
Headington Cũ
Oxford
“Hắn là ‘ngài’ đấy,” cậu thốt lên. “Một hiệp sĩ. Như thế có nghĩa là người ta sẽ tự động tin hắn chứ không phải là bọn mình. Cậu muốn tớ làm cái gì chứ? Gọi cảnh sát à? Cảnh sát đang truy đuổi tớ đấy! Mà kể cả hôm qua có không như vậy thì giờ họ cũng đang truy tìm tớ rồi. Còn cậu mà đi, người ta sẽ biết cậu là ai, và biết rằng cậu quen tớ, nên cách đó cũng không được.”
“Chúng ta có thể cướp nó. Chúng ta có thể vào nhà hắn ta lấy cắp nó. Tớ biết Headington ở đâu, ở Oxford của tớ cũng có Headington. Không xa đâu. Chúng ta có thể đi bộ tới đó trong một giờ, dễ lắm.”
“Cậu là đồ ngốc.”
“Iorek Byrnison hẳn sẽ tới thẳng đó ngắt đầu hắn ra. Ước gì ông ấy ở đây. Ông ấy sẽ…”
Nhưng cô liền im bặt. Will đang nhìn cô, và cái nhìn đó khiến cô hoảng sợ. Cô hẳn cũng sẽ sợ hãi không kém nếu bị một con gấu mặc giáp nhìn như vậy, vì có thứ gì đó trong ánh mắt Will khiến cô nghĩ tới Iorek, dù chúng vẫn chỉ là đôi mắt của một cậu bé.
“Cả đời tớ chưa từng nghe thấy thứ gì ngu xuẩn đến thế,” cậu bé nói. “Cậu nghĩ chúng ta có thể cứ đến nhà hắn rồi lẻn vào lấy nó đi được à? Cậu phải suy nghĩ đi. Phải dùng cái bộ não chết tiệt của mình ấy. Nếu đó là một gã giàu có thì hắn sẽ có đủ loại chuông báo trộm và những thứ khác, sẽ có chuông kêu, những cái khóa đặc biệt, đèn có công tắc hồng ngoại tự động bật…”
“Tớ chưa từng nghe nói tới những thứ đó,” Lyra nói. “Ở thế giới của tớ không có, nên tớ không thể biết được, Will ạ.”
“Được rồi, vậy nghĩ thế này đi: hắn có cả một căn nhà để cất giấu, vậy một tên trộm sẽ mất bao lâu để kiểm tra tất cả những tủ chạn, ngăn kéo và chỗ giấu đồ trong một căn nhà? Những kẻ đến nhà tớ đã có hàng giờ để tìm xung quanh nhưng chúng không tìm ra nổi thứ mình muốn, mà lão này thì tớ dám chắc là nhà hắn to hơn nhà chúng tớ rất nhiều. Có khi còn có cả két sắt nữa. Nên kể cả chúng ta có vào được trong nhà đi chăng nữa thì cũng chẳng bao giờ kịp tìm trước khi cảnh sát tới đâu.”
Cô bé gục đầu xuống. Tất cả những điều cậu nói đều đúng. “Vậy chúng ta phải làm gì đây?” Cô hỏi.
Cậu bé không trả lời. Nhưng lần này chắc chắn là chúng ta. Giờ cậu đã bị ràng buộc với cô dù có muốn hay không.
Cậu đi về phía mép nước, trở lại sân hiên, rồi lại quay lại mép nước. Cậu đập hai tay lại với nhau, cố gắng tìm kiếm một câu trả lời nhưng chẳng có gì hiện ra, cậu liền tức giận lắc đầu.
“Cứ… tới đó đi,” cậu bé nói. “Cứ tới đó gặp hắn ta. Nhờ bà học giả của cậu giúp cũng chẳng ích gì khi mà cảnh sát đã tới chỗ bà ấy. Bà ấy sẽ dễ tin họ hơn là chúng ta. Ít nhất nếu vào được nhà hắn, chúng ta sẽ thấy được các phòng chính nằm ở đâu. Khởi đầu là thế đã.”
Không nói thêm câu nào, cậu đi vào trong và giấu những lá thư xuống dưới gối trong căn phòng mình ngủ. Như vậy, nếu cậu có bị tóm thì chúng cũng không bao giờ có được những bức thư.
Lyra đang đợi trên hiên cùng với Pantalaimon đậu trên vai trong dạng chim sẻ. Trông cô bé đã tươi tỉnh lên.
“Chúng ta sẽ lấy lại được nó thôi,” cô nói. “Tớ có thể cảm thấy điều đó.”
Cậu bé không nói gì. Chúng lên đường tới chỗ ô cửa sổ.
Mất một tiếng rưỡi để đi bộ tới Headington. Lyra dẫn đường, tránh trung tâm thành phố, còn Will thì cảnh giới xung quanh, không nói không rằng. Tình hình lúc này đối với Lyra khó khăn hơn nhiều so với cả khi ở Bắc Cực, trên đường tới Bolvangar, vì lúc đó cô có những người du mục và Iorek Byrnison bên mình. Vùng lãnh nguyên dù luôn đầy nguy hiểm rình rập, người ta cũng sẽ nhận ra nguy hiểm khi nhìn thấy nó. Ở đây, trong cái thành phố vừa là của cô lại vừa không phải, hiểm họa trông có thể rất thân thiện, sự phản bội lại mỉm cười và có mùi ngọt ngào. Kể cả chúng có không định giết cô hay tách rời cô khỏi Pantalaimon thì chúng cũng đã cướp của cô vật dẫn đường duy nhất. Không có Chân Kế, cô chỉ là… một cô gái nhỏ, lạc lối.
Dinh thự Limefield có màu mật ong ấm áp, một nửa mặt tiền được bao phủ bởi dây leo trinh đằng. Nó tọa lạc trong một khu vườn rộng lớn được tỉa tót cẩn thận, với bụi cây ở một bên và đường lái xe rải sỏi chạy thẳng tới cửa trước. Chiếc Rolls Royce được đỗ lệch về bên trái phía trước một gara đôi. Mọi thứ Will nhìn thấy đều nói lên sự giàu sang và quyền thế, một kiểu mang tính ưu việt ổn định không chính thức mà vài người thuộc giới quý tộc Anh vẫn không hề coi trọng. Có điều gì đó về nơi này khiến cậu nghiến răng mà không hiểu tại sao, nhưng rồi đột nhiên cậu nhớ lại một dịp hồi còn nhỏ - mẹ đã đưa cậu tới một căn nhà không khác gì nơi này - họ vận những bộ đồ tươm tất nhất, còn cậu thì phải tỏ ra lễ độ nhất có thể, rồi một ông già và bà già khiến mẹ cậu khóc, họ rời khỏi căn nhà và bà vẫn khóc…
Lyra thấy cậu thở gấp, hai nắm tay nghiến chặt, cô bé đủ khôn ngoan để không hỏi lí do: đó là việc của cậu, không phải của cô. Đúng lúc đó cậu hít một hơi thật sâu.
“Được rồi,” cậu nói, “cũng phải thử thôi.”
Cậu bé bước tới đường lái xe, Lyra liền theo sát phía sau. Chúng cảm thấy mình quá lộ liễu.
Cánh cửa có một cái chuông kéo kiểu cổ lỗ sĩ, giống như ở thế giới của Lyra, Will đã không biết phải tìm nó ở đâu cho đến khi Lyra chỉ cho cậu. Khi chúng kéo, cái chuông kêu lên inh ỏi ở sâu tít phía trong nhà.
Người đàn ông ra mở cửa chính là người hầu đã lái xe, chỉ khác là lúc này ông ta không đội mũ. Ông ta nhìn Will trước rồi quay sang Lyra, và biểu hiện của ông biến đổi chút ít.
“Chúng cháu muốn gặp Ngài Charles Latrom ạ,” Will lên tiếng.
Hàm của cậu đang nhô ra giống như tối hôm qua lúc cậu đối mặt với lũ trẻ ném đá cạnh tòa tháp. Người phục vụ gật đầu.
“Đợi ở đây nhé,” ông nói. “Tôi sẽ nói lại với Ngài Charles.”
Ông ta đóng cửa lại. Nó được làm từ gỗ sồi rắn chắc, với hai cái khóa nặng trịch, trên dưới đều có then cài, dù Will nghĩ rằng chẳng có tên trộm khôn ngoan nào lại đi đột nhập từ cửa chính cả. Ngoài ra, một chiếc chuông báo trộm được gắn rất lộ ngay trước cửa nhà, đèn pha lớn ở mỗi góc; chúng sẽ chẳng bao giờ tới được gần, nói gì đến đột nhập vào trong.
Tiếng những bước chân đều đặn tiến về phía cửa, và rồi nó lại mở ra. Will ngước lên nhìn gương mặt người đàn ông đã có quá nhiều nhưng vẫn muốn có thêm nữa, và thấy ông ta hòa nhã, điềm tĩnh, uy quyền đến mức khó hiểu, không hề có tí chút tội lỗi hay xấu hổ nào.
Nhận thấy Lyra đứng bên cạnh mình đang rất nôn nóng và giận dữ, Will vội nói:
“Xin ông thứ lỗi, nhưng Lyra cho rằng lúc nãy em ấy đã đi nhờ xe của ông và để quên đồ ở đó.”
“Lyra? Ta không biết Lyra nào cả. Quả là một cái tên hiếm gặp. Ta biết một đứa trẻ tên là Lizzie. Còn cháu là ai?”
Vừa thầm rủa mình vì quên mất điều đó, Will nói: “Cháu là anh trai của em ấy, Mark ạ.”
“Ra vậy. Chào Lizzie, hay là Lyra. Các cháu vào đi.”
Ông ta đứng sang một bên. Cả Will và Lyra đều không mong đợi điều này, chúng ngập ngừng bước vào. Khu sảnh lờ mờ tối, thoang thoảng mùi sáp ong và hương hoa. Mọi bề mặt đều được đánh bóng và lau chùi sạch sẽ, một cái tủ bằng gỗ gụ tựa vào tường chứa những mô hình bằng sứ xinh xắn. Will thấy người hầu đứng ở phía xa, như đang chờ được gọi.
“Vào phòng làm việc của ta đi,” Ngài Charles nói và giữ mở một cánh cửa khác dẫn ra khỏi sảnh.
Ông ta đang tỏ ra lịch thiệp, thậm chí còn tiếp đón rất ân cần, nhưng có điều gì đó trong cách cư xử của ông ta khiến Will phải cảnh giác. Phòng làm việc là một căn phòng lớn và dễ chịu theo cách của khói xì gà và ghế bành bọc da, dường như nó đầy ngập những giá sách, hình ảnh, và các cúp săn bắn. Ở đó có ba hay bốn cái tủ mặt kính chứa các dụng cụ khoa học cổ - kính hiển vi bằng đồng, kính thiên văn bọc da xanh, kính lục phân, compa; dễ thấy tại sao ông ta lại muốn chiếc Chân Kế.
“Ngồi xuống đi,” Ngài Charles nói rồi chỉ vào một chiếc sofa bọc da. Ông ta ngồi xuống chiếc ghế phía sau bàn làm việc và tiếp tục: “Vậy? Các cháu muốn nói gì?”
“Ông đã cướp…” Lyra nóng nảy kêu lên, nhưng bị Will lườm nên đã ngừng lại.
“Lyra nghĩ em ấy để quên đồ trong xe của ông,” cậu nhắc lại. “Chúng cháu tới xin lại nó ạ.”
“Đây có phải vật cháu nói không?” Ông nói rồi lấy một bọc vải nhung từ ngăn kéo bàn ra. Lyra đứng bật dậy. Ông ta lờ cô bé đi và cởi lớp vải ra, để lộ màu vàng lộng lẫy của chiếc chân Kế đang nằm trong lòng bàn tay mình.
“Đúng rồi!” Lyra thốt lên rồi với lấy nó.
Nhưng ông ta đã khép bàn tay lại. Mặt bàn rộng khiến cô không thể với tới; và trước khi cô kịp làm bất cứ việc gì, ông ta đã quay đi, đặt chiếc Chân Kế vào một tủ mặt kính rồi khóa nó lại và thả chìa khóa vào túi áo gilê của mình.
“Nhưng nó đâu phải của cháu, Lizzie,” ông ta nói. “Hay là Lyra, nếu đó là tên của cháu.”
“Nó là của tôi! Chân Kế của tôi!”
Ông già lắc đầu một cách buồn bã và nặng nề, như thể ông ta đang trách mắng Lyra và điều đó khiến ông phiền muộn, nhưng ông ta làm thế là muốn tốt cho chính cô.
“Ta nghĩ ít nhất thì về vấn đề này cũng có một mối nghi ngờ đáng kể,” ông ta nói.
“Nhưng nó là của em ấy!” Will nói. “Thật đấy! Em ấy đã cho cháu xem! Cháu biết nó là của con bé!”
“Các cháu thấy đấy, ta nghĩ các cháu sẽ phải chứng minh điều đó,” ông ta nói. “Ta không cần phải chứng minh gì cả, vì ta đang nắm giữ nó. Nó được coi như là của ta, giống như tất cả những món đồ khác trong bộ sưu tập này vậy. Ta phải nói rằng, Lyra ạ, ta rất kinh ngạc khi thấy cháu không trung thực…”
“Tôi không hề nói dối!” Lyra gào lên.
“Ồ, thế mà có đấy. Cháu đã nói với ta tên cháu là Lizzie. Giờ thì ta biết được là không phải như vậy. Nói thật, cháu chẳng có chút hi vọng nào để có thể thuyết phục bất cứ ai tin rằng một đồ vật quý giá thế này lại thuộc về mình. Ta nói cháu nghe này. Chúng ta gọi cảnh sát đi.”
Ông ta quay đi gọi người hầu.
“Không, gượm đã…” Will kêu lên trước khi Ngài Charles kịp cất tiếng, nhưng Lyra đã chạy vòng qua bàn làm việc, không biết từ đâu Pantalaimon đã nằm trong tay cô, một con mèo rừng đang nhe răng gầm gừ và rít lên với gã đàn ông. Ngài Charles chớp mắt trước sự xuất hiện đột ngột của con linh thú, nhưng không hề tỏ ra nao núng.
“Ông còn không biết mình đã lấy cắp thứ gì,” Lyra quát lên. “Ông thấy tôi dùng nó nên nghĩ mình sẽ cướp lấy nó, và ông đã làm vậy. Nhưng ông - ông còn tồi tệ hơn cả mẹ tôi - ít ra thì bà ấy cũng biết nó quan trọng - ông thì chỉ định cho nó lên giá rồi không động gì đến! Ông phải chết! Nếu có thể, tôi sẽ khiến cho ai đó giết ông. Ông không đáng được tha chết. Ông là…”
Cô không nói nổi nữa. Tất cả những gì cô có thể làm là nhổ một bãi tướng lên mặt gã đàn ông, nên cô đã dùng hết sức làm vậy.
Will ngồi im quan sát, nhìn quanh, ghi nhớ vị trí của mọi vật.
Ngài Charles bình tĩnh rút một chiếc khăn tay bằng lụa ra chùi mặt.
“Mày có chút khả năng kiềm chế nào không vậy?” Ông ta kêu lên. “Đi ra ngồi xuống ngay, đồ mất nết thô thiển.”
Lyra cảm thấy lệ ứa ra từ khóe mắt mình do cả người đang run lên bần bật, cô ngồi phịch xuống chiếc sofa. Cái đuôi mèo dày lông của Pantalaimon dựng lên, nó đứng trong lòng cô với đôi mắt rực lửa không rời khỏi lão già.
Will ngồi yên, trong lòng đầy bối rối. Ngài Charles có thể tống khứ chúng đi từ lâu rồi. Ông ta đang chơi trò gì vậy?
Đúng lúc đó, cậu nhìn thấy một thứ kì quái đến mức cậu cứ nghĩ mình đã tưởng tượng ra. Từ trong ống tay cái áo khoác bằng vải lanh của Ngài Charles, qua cổ tay áo trắng muốt, thò ra cái đầu màu xanh ngọc của một con rắn. Cái lưỡi đen ngòm của nó rung rinh đủ hướng, còn cái đầu bọc giáp với đôi mắt đen viền vàng di chuyển từ Lyra sang Will rồi lại trở lại Lyra. Cô bé đang giận dữ đến mức không hề để ý thấy nó, còn Will thì chỉ nhìn thấy trong một thoáng trước khi nó lại thụt vào trong ống tay áo của ông già, nhưng như thế là đủ khiến cậu tròn mắt vì kinh ngạc.
Ngài Charles tới bên bậu cửa sổ và điềm tĩnh ngồi xuống, chỉnh lại nếp nhăn trên quần.
“Ta nghĩ các cháu nên lắng nghe ta nói thay vì hành xử theo cái cách không kiểm soát như vậy,” ông nói. “Các cháu thật sự không có lựa chọn nào đâu. Cái máy đang ở trong tay ta, và nó sẽ ở nguyên đó. Ta muốn có nó. Ta là một nhà sưu tầm. Cháu có thể khạc nhổ, giậm chân hay gào thét thế nào tuỳ thích, nhưng đến khi hai đứa có thể thuyết phục được bất cứ ai khác lắng nghe mình thì ta đã chuẩn bị được cả đống giấy tờ để chứng minh ta đã mua cái máy rồi. Ta có thể làm được việc đó dễ như trở bàn tay. Và rồi các cháu sẽ không bao giờ lấy lại được nó.”
Giờ thì cả hai đứa đều im lặng. Ông già vẫn chưa nói xong. Một sự bối rối khủng khiếp khiến nhịp tim Lyra đập chậm lại, làm cho căn phòng trở nên cực kì tĩnh lặng.
“Tuy nhiên,” ông ta nói tiếp, “có một thứ ta còn muốn hơn thế. Ta không thể tự đi lấy nó nên sẵn sàng lập một giao kèo với các cháu. Các cháu đi lấy vật ta muốn, rồi ta sẽ trả lại cái - các cháu gọi nó là cái gì ấy nhỉ?”
“Chân Kế,” Lyra đáp, giọng đục ngầu.
“Chân Kế. Thú vị lắm. Chân, sự thật - nhưng biểu tượng đó - phải, ra là vậy.”
“Vật ông muốn là gì?” Will hỏi. “Và nó ở đâu?”
“Nó ở một nơi ta không thể tới, nhưng các cháu thì có thể. Ta biết rất rõ là các cháu đã tìm thấy một cánh cửa ở đâu đó. Ta đoán là nó không quá xa với Summertown, nơi ta thả Lizzie, hay Lyra, sáng hôm nay. Ta cũng biết rằng qua cánh cửa là một thế giới khác, một thế giới không có người lớn nào. Đến đây ta vẫn nói đúng chứ? À, các cháu biết đấy, người đàn ông đã tạo ra cánh cửa đấy có một con dao. Hiện giờ hắn đang giấu nó ở thế giới đó, hắn đang cực kì sợ hãi. Hắn có lí do để sợ. Nếu ta đoán đúng thì hắn đang ở trong một tòa tháp cổ bằng đá với cánh cửa khắc hình các thiên thần. Tháp Torre degli Angeli.
“Vậy nên đó là nơi các cháu phải đến, ta không quan tâm các cháu làm thế nào, nhưng ta muốn có con dao đó. Mang nó đến cho ta thì các cháu sẽ có lại Chân Kế. Ta sẽ rất tiếc phải rời xa nó, nhưng ta là một người biết giữ lời. Đó là việc các cháu cần phải làm: mang cho ta con dao.”