- 10 - Pháp sư
Lee Scoresby tấp vào một bến cảng ở cửa sông Yenisei và thấy nơi này thật hỗn loạn, ngư dân đang cố gắng bán những mẻ cá nghèo nàn không rõ chủng loại cho các nhà máy đóng lon, chủ tàu thì giận dữ với các khoản phí sử dụng cảng mà những nhà chức trách đã tăng lên để đối phó với lũ lụt, thợ săn và người đánh bẫy thú lấy lông vật vờ dạt vào thị trấn, không làm việc được vì rừng đang tan băng nhanh chóng và hành vi rối loạn của lũ động vật.
Sẽ rất khó để tiến vào trong đất liền dọc theo đường cái, đó là điều chắc chắn; vì bình thường con đường vốn là một lối đi thông thoáng từ đất đóng băng, nhưng giờ ngay cả lớp băng vĩnh cửu cũng đang tan ra, khiến cho bề mặt trở thành một bãi lầy của bùn bị cày xéo.
Vì vậy Lee gửi khí cầu và đạo cụ của mình vào trong kho rồi dùng khoản tiền đang vơi dần để thuê một con thuyền chạy động cơ gas, mua vài két nhiên liệu và chút đồ dự trữ, rồi khởi hành ngược lên con sông đang phình to.
Ban đầu ông tiến rất chậm. Không những dòng chảy siết, mà mặt nước còn lềnh phềnh đủ loại mảnh vụn: thân cây, cành khô, động vật chết trôi, có lần còn có cả xác đàn ông trương phềnh. Ông phải lái rất cẩn thận và giữ cho cái động cơ nhỏ xíu chạy đủ mạnh để có thể tiến lên.
Ông đang hướng tới ngôi làng bộ tộc của Grumman. Người dẫn đường duy nhất của ông là kí ức đã bay qua đất nước này cách đây vài năm, nhưng kí ức đó vẫn còn rất rõ ràng nên ông không gặp nhiều khó khăn trong việc tìm ra lộ trình đúng giữa những dòng nước chảy siết, dù cho vài bờ sông đã biến mất dưới dòng nước lũ màu nâu sữa. Nhiệt độ đã làm náo động lũ côn trùng, một đám mây muỗi vằn khiến mọi đường nét trở nên mờ mịt. Lee bôi thuốc mỡ từ cà độc dược lên mặt và tay rồi hút một loạt xì gà cay để ngăn những thứ tồi tệ nhất xảy đến với mình.
Còn về Hester, nó đang lầm lì ngồi trên mũi thuyền, hai tai ép vào tấm lưng gầy gò, đôi mắt lim dim. Ông đã quen với sự im lìm của con linh thú, và nó đối với ông cũng vậy. Họ chỉ nói chuyện khi nào cần thiết.
Vào buổi sáng ngày thứ ba, Lee lái chiếc thuyền nhỏ lên con lạch thông ra dòng chảy chính, chảy xuống từ một dãy đồi thấp đáng ra phải đang nằm sâu dưới tuyết, nhưng giờ lại loang lổ đất nâu. Chẳng bao lâu sau, dòng nước đã chảy giữa những cây thông lùn và cây vân sam, rồi sau vài dặm họ tới một tảng đá tròn lớn cao cỡ một căn nhà, nơi Lee tấp vào bờ rồi neo thuyền lại.
“Chỗ này đã từng có một cầu cảng,” ông nói với Hester. “Nhớ ông thợ săn hải cẩu già ở Nova Zembla đã nói với chúng ta về nó không? Giờ nó hẳn đã bị chìm dưới nước vài mét rồi.”
“Nếu vậy tôi hi vọng người ta đủ sáng suốt để xây làng trên cao,” Hester nói trong lúc nhảy lên bờ.
Không quá nửa giờ sau, ông đã đặt túi đồ của mình xuống bên cạnh căn nhà gỗ của trưởng làng và quay ra chào đám đông nhỏ vừa tụ tập lại. Ông sử dụng điệu bộ phổ biến trên phía bắc để biểu thị tình hữu nghị rồi đặt khẩu súng trường xuống dưới chân.
Một người Tartar Siberia già với đôi mắt gần như bị che lấp bởi các nếp nhăn quanh đó cũng đặt cây cung của mình xuống bên cạnh khẩu súng. Con linh thú chồn gulo của ông giật giật cái mũi hít ngửi Hester, nó liền vẫy một bên tai để đáp lại. Sau đó trưởng làng cất tiếng.
Lee trả lời, rồi họ rà qua nửa tá ngôn ngữ trước khi tìm ra tiếng nói chung có thể giúp họ giao tiếp.
“Tôi xin thể hiện lòng tôn trọng đối với ngài và bộ tộc của ngài,” Lee nói. “Tôi có chút cần sa, chẳng đáng gì, nhưng tôi sẽ rất vinh dự được gửi tặng ngài.”
Trưởng làng gật đầu cảm tạ, và một trong những người vợ của ông nhận lấy cái gói Lee lấy ra từ túi đồ của mình.
“Tôi đang tìm kiếm một người đàn ông tên Grumman,” Lee nói. “Tôi nghe kể rằng ông ta đã được thu nhận làm một người bà con của các vị. Có thể ông ta đã có một cái tên khác, nhưng người đàn ông này là dân Âu châu.”
“À,” trưởng làng thốt lên, “chúng tôi đang chờ ông tới.”
Những người dân làng còn lại, tập trung trong ánh nắng mỏng manh đang bốc hơi trên nền đất lầy bùn ở giữa những căn nhà, dù chẳng hiểu nổi một chữ nào nhưng họ cũng thấy được niềm vui của trưởng làng. Niềm vui, và sự nhẹ nhõm, Lee nhận thấy Hester đang nghĩ vậy.
Trưởng làng gật đầu vài lần.
“Chúng tôi vẫn đang mong ông,” ông ta nhắc lại. “Ông tới để đưa Tiến sĩ Grumman sang thế giới khác.”
Lee nhướn mày, nhưng ông chỉ nói: “Đúng như ngài nói. Ông ta có ở đây không?”
“Đi theo tôi,” trưởng làng đáp.
Các dân làng khác kính cẩn dạt sang một bên. Hiểu được sự căm ghét của Hester đối với thứ bùn dơ dáy mà nó phải nhảy qua, Lee bồng con thỏ lên tay rồi đeo túi lên vai, tiếp bước trưởng làng dọc theo một lối mòn trong rừng tới căn nhà lán cách làng mười tầm tên bắn dài, tại một khoảng trống trong rừng thông rụng lá.
Trưởng làng dừng lại bên ngoài căn nhà lán khung gỗ và phủ da. Nơi này được trang hoàng bằng ngà lợn rừng, gạc nai sừng tấm và tuần lộc, nhưng chúng không chỉ đơn thuần là những chiến tích săn bắn, vì chúng được treo cùng với hoa khô và những cành thông nhỏ được bện kĩ càng, như để phục vụ một mục đích nghi lễ nào đó.
“Ông phải nói chuyện với ông ấy bằng sự kính trọng,” vị trưởng làng lặng lẽ nói. “Ông ấy là một pháp sư. Trái tim ông đang không khỏe.”
Đột nhiên Lee cảm nhận một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng, Hester cứng người trên tay ông, vì họ đã thấy rằng suốt thời gian qua họ vẫn luôn bị theo dõi. Từ giữa đám hoa khô và những cành thông, một tròng mắt vàng sáng nhòm ra. Đó là một con linh thú. Trong lúc Lee quan sát, con linh thú quay đầu rồi nhẹ nhàng kẹp lấy một cành thông trong cái mỏ khỏe khoắn của mình rồi kéo nó ngang qua không trung như một tấm rèm.
Trưởng làng cất tiếng bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, gọi người đàn ông bằng cái tên mà người thợ săn hải cẩu già đã nói với ông: Jopari. Một lúc sau cánh cửa mở ra.
Đứng trong khung cửa, hốc hác, mắt sáng rực, là một người đàn ông mặc đồ da và lông. Mái tóc đen của ông lốm đốm bạc, bộ hàm chìa ra rõ rệt, con linh thú chim ưng biển ngồi trên nắm tay ông quắc mắt nhìn.
Trưởng làng cúi chào ba lần rồi rút lui, để lại Lee một mình với vị pháp sư học giả mà ông tới tìm.
“Tiến sĩ Grumman,” ông lên tiếng. “Tên tôi là Lee Scoresby. Tôi đến từ Texas, nghề nghiệp của tôi là phi công khí cầu. Nếu ông cho phép tôi ngồi nói chuyện một lúc, tôi sẽ kể cho ông điều gì đã đưa tôi đến đây. Tôi nói đúng có phải không? Ông chính là Tiến sĩ Stanislaus Grumman, thuộc Viện hàn lâm Berlin?”
“Phải,” vị pháp sư đáp. “Còn ông nói ông tới từ Texas sao. Gió đã cuốn ông đi xa khỏi quê hương của mình, ông Scoresby ạ.”
“Vâng, hiện giờ có những làn gió kì lạ đang thổi qua thế giới.”
“Quả vậy. Tôi nghĩ ánh mặt trời khá là ấm áp. Ông sẽ tìm thấy một cái trường kỉ trong căn lán của tôi. Nếu ông mang nó ra đây giúp tôi, chúng ta có thể ngồi dưới thứ ánh sáng dễ chịu này và trao đổi tại đây. Tôi có chút cà phê, nếu ông sẵn lòng thưởng thức cùng.”
“Ông thật tử tế,” Lee nói rồi tự mình bê chiếc trường kỉ bằng gỗ ra trong khi Grumman tới bên bếp lò để rót thứ đồ uống nóng bỏng vào hai cái cốc thiếc. Như đôi tai của Lee cảm nhận thì âm giọng của ông ta không phải của người Đức, mà là của người Anh, thuộc nước Anh. Vị giám đốc của Đài quan sát đã đúng.
Khi cả hai đã ngồi xuống, Hester nằm bên cạnh Lee bình thản khép mắt lại, còn con linh thú chim ưng biển vĩ đại thì nhìn chằm chằm vào mặt trời chói sáng, Lee bắt đầu. Ông khởi đầu bằng cuộc gặp gỡ của mình tại Trollesund với John Faa, vua của những người du mục, rồi kể về việc họ đã chiêu mộ con gấu Iorek Byrnison, di chuyển tới Bolvangar để cứu thoát Lyra và những đứa trẻ khác như thế nào; rồi ông nói về những điều mình đã học được từ cả Lyra và Serafina Pekkala khi họ đang bay trong khí cầu về phía Svalbard.
“Ông thấy đấy, Tiến sĩ Grumman, từ cái cách mà cô bé đó miêu tả, tôi thấy dường như Ngài Asriel chỉ cần khua khua cái đầu bị chặt đóng trong băng vào các học giả ở đó là họ đã sợ chết khiếp đến mức không buồn nhìn kĩ. Đó là điều đã khiến tôi nghi ngờ rằng ông có thể vẫn còn sống. Và rõ ràng là, thưa ông, ông sở hữu một kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực này. Tôi đã nghe nói tới ông suốt dọc bờ biển Cực Bắc, về việc ông đã để người ta đục sọ như thế nào, về chủ đề nghiên cứu của ông dường như biến đổi giữa đào bới đáy biển sang quan sát ánh sáng phương bắc ra sao, về việc ông đã đột ngột xuất hiện như thể chui ra từ trong không khí cách đây khoảng mười, mười hai năm về trước, và tất cả những chuyện đó đều cực kì thú vị. Nhưng có thứ gì đó đã lôi kéo tôi tới đây, Tiến sĩ Grumman ạ, vượt qua cả sự tò mò đơn thuần. Tôi quan tâm đến đứa trẻ. Tôi cho rằng cô bé có vai trò quan trọng, các phù thủy cũng nghĩ vậy. Nếu có bất cứ điều gì ông biết về cô bé và về những chuyện đang diễn ra, tôi rất mong ông sẽ kể cho tôi. Như tôi đã nói, có điều gì đó đã khiến tôi tin chắc rằng ông có thể, vậy nên tôi mới tới đây.
“Nhưng trừ khi tôi nghe nhầm, thưa ông, tôi đã nghe trưởng làng nói rằng tôi tới để đưa ông sang một thế giới khác. Liệu có phải tôi nghe nhầm không, hay đó thực sự là điều ông ta đã nói? Và thêm một câu hỏi nữa, thưa ông; cái tên mà ông ta gọi ông là gì vậy? Đó có phải một kiểu tên bộ tộc, một danh hiệu pháp sư nào đó không?”
Grumman khẽ mỉm cười rồi nói: “Cái tên ông ấy dùng là tên thật của tôi, John Parry. Phải, ông đã tới để đưa tôi đến thế giới khác. Còn về điều đã đưa ông tới đây, tôi nghĩ ông sẽ thấy rằng nó là thứ này.”
Nói rồi ông xòe lòng bàn tay ra. Trong đó là một thứ Lee có thể nhìn thấy nhưng không thể hiểu nổi. Ông thấy một cái nhẫn bằng bạc và ngọc lam, một thiết kế của Navajo, ông thấy nó rất rõ và nhận ra nó chính là của mẹ mình, ông biết sức nặng của nó, sự mịn màng của lớp đá, cái cách mà người thợ kim hoàn đã gập lớp kim loại vào sát ở góc nơi hòn đá được cắt ra, ông cũng biết cái góc bị cắt đó đã trở nên nhẵn mịn vì ông đã miết những ngón tay mình lên đó rất rất nhiều lần, trong nhiều năm, từ rất lâu về trước khi ông còn là một đứa trẻ ở vùng đất tràn ngập ngải trắng tại quê hương mình.
Ông thấy mình đứng lên. Hester đang run rẩy, đứng thẳng dậy, tai vểnh lên. Con chim ưng biển đã lao vào giữa Lee và Grumman mà Lee không hề nhận thấy, để bảo vệ chủ nhân của mình, nhưng Lee không định tấn công; ông cảm thấy cõi lòng tan nát; ông thấy mình lại như một đứa trẻ, giọng ông nghẹt lại và lẩy bẩy khi ông nói:
“Ông lấy vật đó ở đâu vậy?”
“Cầm lấy đi,” Grumman, hay là Parry, đáp. “Nhiệm vụ của nó đã hoàn thành rồi. Nó đã triệu ông tới. Giờ tôi không cần nó nữa.”
“Nhưng làm thế nào…” Lee nói, nhấc cái vật thân thương đó lên khỏi lòng bàn tay của Grumman. “Tôi không hiểu làm thế nào ông lại có thể - có phải ông - ông lấy cái này như thế nào? Tôi đã không thấy nó phải đến bốn mươi năm rồi.”
“Tôi là một pháp sư. Tôi có thể thực hiện nhiều việc mà ông không hiểu nổi. Ngồi xuống đi, ông Scoresby. Bình tĩnh lại. Tôi sẽ kể cho ông những điều ông cần biết.”
Lee ngồi xuống trở lại, ông cầm chiếc nhẫn, không ngừng miết những ngón tay của mình lên đó.
“Chà,” ông thốt lên, “cả người tôi đang run đây, thưa ông. Tôi nghĩ mình cần phải nghe những gì ông có thể kể.”
“Tôi hiểu rồi,” Grumman nói, “tôi sẽ bắt đầu. Như đã nói với ông, tên tôi là Parry, và tôi không sinh ra ở thế giới này. Ngài Asriel hoàn toàn không phải là người đầu tiên du hành giữa các thế giới, mặc dù ông ta là người đầu tiên mở đường một cách ngoạn mục đến vậy. Ở thế giới của mình, tôi là một người lính, rồi sau đó là một nhà thám hiểm. Mười hai năm trước tôi đang đi cùng một đoàn thám hiểm tới một nơi trong thế giới của tôi tương ứng với Beringland của ông. Những người đồng hành của tôi có mục đích khác, nhưng tôi muốn tìm một thứ mình biết tới từ những huyền thoại cổ xưa: một khe nứt trong kết cấu của thế giới, một cái lỗ xuất hiện giữa vũ trụ của chúng tôi và một vũ trụ khác. Một vài người đồng hành của tôi bị mất tích. Trong lúc tìm kiếm họ, tôi và hai người khác đã bước qua cái lỗ, một cánh cửa nọ, mà thậm chí còn không nhìn thấy nó, và hoàn toàn rời khỏi thế giới của mình. Ban đầu chúng tôi không nhận thấy điều gì đã xảy ra. Chúng tôi cứ đi tiếp cho tới khi tìm thấy một thị trấn, lúc đó mọi chuyện mới rõ ràng: chúng tôi đang ở trong một thế giới khác biệt.
“Sau đó, dù có cố gắng thế nào, chúng tôi cũng không thể tìm lại được cánh cửa ban đầu nữa. Chúng tôi đi qua đó trong một trận bão tuyết, là một người dày dặn kinh nghiệm ở Bắc Cực, chắc hẳn ông hiểu điều đó có nghĩa là gì.
“Vì vậy chúng tôi không có lựa chọn nào khác là phải lưu lại thế giới mới. Không lâu sau, chúng tôi khám phá ra nơi đó nguy hiểm đến nhường nào. Có vẻ như có một loại ma cà rồng hay bóng ảo kì lạ đang lảng vảng ở đó, một thứ chết người và tàn nhẫn. Hai người đồng hành của tôi đã chết không lâu sau đấy, nạn nhân của lũ Quỷ hút hồn, như chúng được gọi.
“Kết cục là tôi thấy thế giới của chúng là một nơi đáng ghê tởm, và tôi muốn rời khỏi đó ngay lập tức. Con đường trở lại thế giới của bản thân đã bị bịt lại vĩnh viễn, nhưng vẫn có những cánh cửa khác dẫn vào những thế giới khác, vậy là một chút nghiên cứu đã giúp tôi tìm được đường đến đây.
“Vậy nên tôi đã đến đây. Không lâu sau tôi đã khám phá ra một điều kì diệu, ông Scoresby ạ, vì các thế giới đều cực kì khác biệt, và tại thế giới này, lần đầu tiên tôi đã thấy được linh thú của mình. Phải, tôi không hề biết tới Sayan Kötör đây cho tới khi vào thế giới của ông. Người ta không thể tưởng tượng được ra những thế giới nơi linh thú là một tiếng nói câm lặng trong tâm trí, không hơn không kém. Nhưng ngược lại, ông có thể hình dung ra sự kinh ngạc của tôi khi biết được rằng một phần bản chất của mình là giới nữ, có dạng chim, và xinh đẹp không?
“Vậy là với Sayan Kötör bên cạnh mình, tôi đi lang thang qua những vùng đất phương bắc và đã học được rất nhiều từ những người của Cực Bắc, như những người bạn tốt của tôi trong ngôi làng phía dưới kia. Những gì họ kể với tôi về thế giới này lấp đầy một vài lỗ hổng kiến thức mà tôi có, và tôi bắt đầu thấy được câu trả lời cho nhiều bí ẩn.
“Tôi đến Berlin dưới cái tên Grumman. Tôi không tiết lộ với ai về cội nguồn của mình; đó là bí mật cá nhân. Tôi đã nộp một bản luận văn cho Viện hàn lâm rồi bảo vệ nó trong cuộc tranh luận, đó là phương pháp của họ. Tôi biết được nhiều điều hơn thành viên Viện hàn lâm nên không gặp khó khăn gì để có được tư cách hội viên.
“Vậy là với giấy ủy nhiệm mới của mình tôi có thể bắt đầu làm việc tại thế giới này, nơi tôi thấy bản thân cực kì mãn nguyện, trong phần lớn thời gian. Tôi có nhớ nhung một vài điều về thế giới của mình, hẳn rồi. Ông đã kết hôn chưa, ông Scoresby? Chưa à? Chà, tôi thì rồi; tôi yêu thương người vợ của mình hết mực, cũng như tôi yêu con trai, đứa con duy nhất của tôi, cậu nhóc chưa tròn một tuổi khi tôi rời khỏi thế giới đó. Tôi nhớ họ khủng khiếp. Nhưng dù có tìm kiếm hàng ngàn năm tôi cũng chẳng thể thấy được đường về. Chúng tôi đã bị chia cắt mãi mãi.
“Tuy nhiên, công trình nghiên cứu của mình lại khiến tôi mê mải. Tôi đã tìm kiếm những dạng tri thức khác nhau; tôi được kết nạp vào giáo phái thờ sọ; tôi trở thành một pháp sư. Và tôi đã khám phá ra vài điều hữu ích: lấy ví dụ, tôi đã tìm ra cách chế tạo thuốc mỡ từ rêu cầm máu và bảo quản được tất cả các công dụng của cây tươi.
“Bây giờ tôi đã biết rất nhiều về thế giới này, ông Scoresby ạ. Ví dụ như tôi biết về Bụi. Từ biểu cảm của ông, tôi thấy rằng ông đã từng nghe thấy từ đó. Nó đang khiến các nhà thần học của các ông sợ chết khiếp, nhưng chính họ mới là những kẻ làm tôi lo sợ. Tôi biết điều mà Ngài Asriel đang tiến hành, và lí do vì sao, vậy nên tôi đã gọi ông tới đây. Tôi sẽ giúp ông ta, vậy đấy, vì nhiệm vụ mà ông ta đang đảm đương là điều vĩ đại nhất trong lịch sử loài người. Vĩ đại nhất trong ba mươi lăm nghìn năm lịch sử nhân loại, ông Scoresby ạ.
“Bản thân tôi không tự làm được nhiều. Tim tôi đã hỏng quá sức chữa trị của bất cứ ai trong thế giới này. Có lẽ thứ còn lại trong tôi là một nỗ lực vượt bậc. Nhưng tôi biết một điều mà Ngài Asriel không biết, một điều ông ta cần biết nếu muốn nỗ lực của mình thành công.
“Ông thấy đấy, tôi đã bị cái thế giới ma ám thu hút, nơi lũ Quỷ hút hồn sống bằng cách ăn ý thức của con người. Tôi muốn biết chúng là gì, làm thế nào chúng trở thành thực thể được. Là một pháp sư, tôi có thể khám phá ra những thứ trong thế giới linh hồn, nơi tôi không thể tới bằng cơ thể của mình. Tôi đã dành nhiều thời gian trong trạng thái nhập định để thám hiểm thế giới ma ám đó. Tôi phát hiện ra các nhà triết học ở đấy, hàng thế kỉ trước, đã chế tạo ra một vật dụng khiến chính bản thân họ bị suy tàn: một công cụ mà họ gọi là con dao kì ảo. Nó có nhiều quyền năng - nhiều hơn cả những gì họ đoán được khi chế tạo nó, thậm chí còn hơn nhiều những điều mà họ biết hiện nay - và không hiểu sao, họ đã để lũ Quỷ hút hồn lọt vào thế giới của mình khi sử dụng nó.
“Tôi biết về con dao kì ảo và những gì nó có thể làm. Tôi cũng biết nó ở đâu, làm thế nào nhận ra được người sử dụng nó, và tôi biết người đó cần phải làm gì cho Ngài Asriel. Hi vọng anh ta đủ sức đảm đương nhiệm vụ này. Vì vậy tôi đã triệu tập ông đến đây, ông sẽ đưa tôi bay về phía bắc, vào thế giới mà Asriel đã mở ra, nơi tôi đoán là sẽ gặp được người nắm giữ con dao kì ảo.
“Xin hãy nhớ lấy, đó là một thế giới đầy rẫy hiểm nguy. Những con Quỷ hút hồn đó kinh khủng hơn bất cứ thứ gì ở thế giới của ông hay của tôi. Chúng ta sẽ phải cẩn thận và can đảm. Tôi sẽ không quay lại, nên nếu ông muốn thấy lại quê hương, ông sẽ cần tất cả lòng dũng cảm, tất cả dụng cụ, và tất cả sự may mắn của mình.
“Đó là nhiệm vụ của ông, ông Scoresby ạ. Đó là lí do ông đi tìm tôi.”
Nói tới đó, vị pháp sư trở nên im lặng. Mặt ông tái nhợt và lấm tấm mồ hôi.
“Đây là ý tưởng điên rồ nhất tôi từng được nghe suốt cuộc đời mình,” Lee nói.
Ông đứng dậy trong sự bối rối, bước một hai bước về hướng này rồi lại một hai bước sang hướng khác, trong lúc đó Hester trên trường kỉ quan sát không chớp mắt. Đôi mắt Grumman đang nhắm hờ; linh thú của ông ngồi trên đầu gối, thận trọng quan sát Lee.
“Ông có cần tiền không?” Một lúc sau Grumman lên tiếng. “Tôi có thể kiếm chút vàng cho ông. Không khó đâu.”
“Quỷ tha ma bắt, tôi đến đây không phải vì vàng,” Lee nóng nảy đáp. “Tôi tới đây… Tôi tới đây để xem ông có còn sống hay không, vì tôi cho rằng ông còn sống. Nói chung về mặt đó, sự tò mò của tôi đã được thỏa mãn.”
“Tôi rất mừng khi nghe điều đó.”
“Ngoài ra còn có một khía cạnh khác trong chuyện này nữa,” Lee nói thêm rồi kể cho Grumman nghe về hội đồng phù thủy tại Hồ Enara, và quyết định mà các phù thủy đã thề sẽ thực hiện. “Ông thấy đấy,” ông kết thúc câu chuyện, “cô bé Lyra đó… Chà, nó là lí do ban đầu khiến tôi lên đường giúp các phù thủy. Ông nói ông đã đưa tôi tới đây bằng cái nhẫn Navajo đó. Có thể như vậy mà cũng có thể không. Điều tôi biết là, tôi tới đây vì nghĩ rằng mình đang giúp đỡ Lyra. Tôi chưa từng thấy một đứa trẻ nào như thế. Nếu tôi có một đứa con gái của riêng mình; tôi hi vọng nó được một nửa sự mạnh mẽ; dũng cảm và ngoan ngoãn của con bé. Rồi tôi nghe nói rằng ông biết tới một vật nào đó, tôi không biết nó là cái gì, trao sự bảo vệ cho bất cứ ai nắm giữ nó. Và từ những điều ông nói thì tôi nghĩ nó hẳn phải là con dao kì ảo này.
“Vậy nên đây là cái giá tôi đặt ra để đưa ông tới thế giới khác, Tiến sĩ Grumman ạ: không phải vàng, mà là con dao kì ảo, và tôi không muốn nó cho bản thân, tôi muốn nó cho Lyra. Ông phải thề sẽ để cho cô bé được vật đó bảo vệ; rồi tôi sẽ đưa ông tới bất cứ đâu ông muốn.”
Vị pháp sư chăm chú lắng nghe rồi nói: “Tôi rõ rồi, ông Scoresby; tôi xin thề. Ông có tin tưởng lời thề của tôi không?”
“Ông sẽ thề trên thứ gì?”
“Cứ nói bất cứ thứ gì ông muốn.”
Lee nghĩ rồi nói: “Thề trên bất cứ thứ gì đã khiến ông từ chối tình yêu của cô phù thủy kia. Tôi đoán đó là thứ quan trọng nhất mà ông biết.”
Grumman tròn mắt ngạc nhiên, rồi ông nói: “Ông đoán khá lắm, ông Scoresby ạ. Tôi sẵn lòng thề trên điều đó. Tôi hứa với ông là sẽ đảm bảo rằng cô bé Lyra Belacqua nhận được sự bảo vệ của con dao kì ảo. Nhưng tôi phải cảnh báo ông: người nắm giữ con dao có nhiệm vụ riêng của mình, và có thể việc anh ta đang làm sẽ đẩy cô bé vào mối nguy hiểm thậm chí còn khủng khiếp hơn.”
Lee điềm tĩnh gật đầu. “Có thể như vậy,” ông nói, “nhưng dù cơ hội an toàn có nhỏ đến đâu, tôi cũng muốn cô bé có được nó.”
“Tôi đảm bảo với ông. Giờ thì tôi cần phải đi sang thế giới mới, và ông sẽ phải đưa tôi đi.”
“Còn gió thì sao? Tôi đoán là ông không quá ốm yếu để có thể quan sát thời tiết chứ?”
“Cứ để gió cho tôi lo.”
Lee gật đầu. Ông ngồi lại xuống chiếc trường kỉ và vân vê chiếc nhẫn ngọc lam trong lúc Grumman tập hợp vài món đồ cần thiết vào một chiếc túi da hươu, rồi hai người bọn họ quay trở xuống con đường rừng dẫn tới làng.
Trưởng làng phát biểu trong một lúc lâu. Càng ngày càng có nhiều dân làng bước ra để chạm vào tay Grumman, để thì thầm vài lời, và để nhận lại một thứ như lời chúc phúc. Lee kiểm tra thời tiết trong lúc đó. Bầu trời phía nam hiện ra thật thoáng đãng, một làn gió mang mùi hương tươi mát khẽ đẩy những cành non lên cao và làm lay động những ngọn thông. Về phía bắc, sương mù vẫn đang phủ lên con sông nặng nề trôi, nhưng đây mới là lần đầu tiên sau hàng ngày trời nó có triển vọng sẽ tan đi.
Tại tảng đá nơi đã từng là cầu cảng, ông nâng túi đồ của Grumman lên thuyền, đổ đầy nhiên liệu vào cái động cơ bé xíu và nó lập tức nổ bình bịch. Ông rời bến. Với vị pháp sư đứng trên mũi, chiếc thuyền tăng tốc theo dòng chảy, lao đi dưới những tán cây rồi lướt ra nhánh sông chính nhanh đến nỗi khiến Lee thấy lo cho Hester đang khom mình ngay dưới mép thuyền; nhưng nó là một nhà du hành dày dạn kinh nghiệm, đáng ra ông phải biết điều đó; vậy mà sao ông lại bồn chồn lo lắng đến thế?
Họ tới bến tàu tại cửa sông và phát hiện ra rằng mọi khách sạn, mọi nhà trọ, mọi phòng riêng đều đã bị trưng dụng cho các binh sĩ. Mà đó không ai khác lại là các phân đội của Vệ binh Hoàng gia Muscovy, đội quân được huấn luyện gắt gao và trang bị xa hoa nhất trên thế giới, cũng là đội quân thề giữ vững quyền lực của Huấn Quyền.
Lee đã định nghỉ ngơi một đêm trước khi lên đường vì trông Grumman có vẻ cần đến điều đó, nhưng chẳng có chút cơ hội nào để kiếm được phòng cả.
“Có chuyện gì vậy?” Ông hỏi người lái thuyền khi trả lại chiếc thuyền đã thuê.
“Chúng tôi không biết. Quân đoàn đến vào ngày hôm qua và trưng dụng tất cả chỗ dừng chân, mọi mẩu thức ăn và toàn bộ tàu bè trong thị trấn. Ông mà không thuê con thuyền này thì họ hẳn đã thuê nốt rồi.”
“Ông có biết họ định đi đâu không?”
“Lên phía bắc,” người lái thuyền trả lời. “Theo tôi nghe được thì sắp có một cuộc chiến tranh, cuộc chiến quy mô nhất từ trước đến giờ.”
“Phía bắc, vào thế giới mới đó à?”
“Phải. Vẫn còn những đội quân khác đang tới - đây chỉ là đội tiên phong. Trong vòng một tuần nữa sẽ chẳng còn tới một mẩu bánh mì hay tí gallon rượu mạnh nào đâu. Anh đã giúp tôi khi thuê chiếc thuyền này - giá cả giờ tăng lên gấp đôi rồi…”
Giờ có nghỉ ngơi cũng chẳng ích gì, kể cả họ có kiếm được chỗ trọ đi nữa. Lòng đầy lo lắng về chiếc khí cầu của mình, Lee vội vàng tới kho hàng nơi ông đã để nó lại cùng với Grumman theo sau. Người đàn ông đã cố giữ nhịp độ. Trông ông không được khỏe, nhưng ông lại là người rất kiên cường.
Người quản lí nhà kho, đang bận rộn đếm các bộ phận máy dự trữ cho một trung sĩ đi trưng thu thuộc đội Vệ binh, ngẩng lên thật nhanh khỏi kẹp tài liệu của mình.
“Khí cầu - tiếc quá - bị trưng thu hôm qua rồi,” ông nói. “Ông có thể thấy tình hình đấy. Tôi không có lựa chọn nào khác cả.”
Hester giật giật đôi tai, và Lee liền hiểu ra nó định nói gì.
“Ông đã chuyển cái khí cầu đi chưa?” Ông hỏi.
“Người ta sẽ đến lấy nó vào chiều nay.”
“Không đâu,” Lee nói, “bởi vì tôi có thẩm quyền cao hơn cả đội Vệ binh.”
Nói rồi ông cho người quản lí kho xem chiếc nhẫn ông lấy từ ngón tay tên Skraeling đã chết ở Nova Zembla. Viên trung sĩ đứng cạnh đó bên quầy vội dừng việc đang làm lại và cúi chào khi thấy biểu tượng của Giáo hội, nhưng dù đã được rèn luyện kỉ luật nghiêm khắc, anh ta cũng không thể ngăn nổi vẻ bối rối thoáng qua khuôn mặt.
“Vậy nên chúng tôi sẽ lấy cái khí cầu ngay bây giờ,” Lee nói, “ông có thể cử vài người đi bơm đầy nó. Tôi muốn ngay lập tức. Bao gồm cả đồ ăn, nước uống, và bì làm nặng nữa nhé.”
Người giữ kho nhìn viên trung uý, thấy anh ta nhún vai nên đành vội vàng chạy đi xử lí chiếc khí cầu. Lee và Grumman rút lui về cầu tàu nơi có các bình chứa gas để giám sát việc bơm đầy khí đốt và nói chuyện kín đáo với nhau.
“Ông lấy cái nhẫn đó ở đâu ra vậy?” Grumman hỏi.
“Từ ngón tay một người chết. Hơi mạo hiểm khi dùng nó, nhưng tôi không thấy được cách nào khác để lấy lại khí cầu của mình. Ông có nghĩ tên trung sĩ đó đã nghi ngờ điều gì không?”
“Đương nhiên là có chứ. Nhưng hắn là một kẻ rất kỉ luật. Hắn sẽ không nghi vấn Giáo hội. Giả dụ hắn có đi báo cáo thì chúng ta đã cao chạy xa bay trước khi chúng có thể làm bất cứ điều gì rồi. Chà, tôi hứa với ông một ngọn gió, ông Scoresby; hi vọng ông thích nó.”
Bầu trời phía trước mặt lúc này xanh ngắt và ánh nắng chan hòa. Về phía bắc, những khối sương mù vẫn lơ lửng như một dãy núi trên mặt biển, nhưng cơn gió nhẹ đang dần đẩy lùi chúng, khiến Lee lại cảm thấy nôn nóng muốn được bay lên không trung.
Trong khi chiếc khí cầu được bơm đầy và bắt đầu phồng lên trên mép của mái nhà kho, Lee kiểm tra giỏ khí cầu rồi chuyển toàn bộ dụng cụ của mình vào một cách đặc biệt cẩn trọng; vì ở thế giới khác, ai mà biết được họ sẽ gặp phải nhiễu động không khí như thế nào chứ! Cả các thiết bị khoa học nữa, ông tỉ mỉ gắn chúng vào thành khí cầu, kể cả cái la bàn có kim chỉ hướng đang quay trên mặt một cách khá vô dụng. Cuối cùng ông buộc hai chục túi cát quanh giỏ để làm bì.
Khi túi khí gas đã đầy và đang ngả về phía bắc trong cơn gió thổi mạnh, toàn bộ khí cầu căng ra trên những sợi dây chắc mập đang neo nó xuống, Lee trả cho người giữ kho đồng vàng cuối cùng của mình rồi giúp Grumman trèo vào giỏ. Rồi ông quay sang những người đang giữ dây để ra lệnh thả ra.
Nhưng trước khi có thể làm vậy, họ đã bị chen ngang. Từ con hẻm bên hông nhà kho vang lên tiếng giày bốt nện thình thình, bước đều chân, rồi một tiếng hét lên ra lệnh:
“Dừng lại!”
Những người giữ dây dừng lại, người nhìn theo hướng đó, người lại nhìn Lee. Ông liến hét lên đanh thép:
“Thả dây ra đi!”
Hai trong số họ tuân lệnh, và chiếc khí cầu tròng trành dâng lên, nhưng hai người còn lại thì chú tâm đến các binh sĩ đang nhịp nhàng bước quanh góc tòa nhà. Hai người đó vẫn để dây buộc chắc quanh cọc neo, khiến khí cầu nghiêng ngả sang một bên đến chóng mặt. Lee tóm chặt lấy vòng treo túi khí; Grumman cũng đang ôm lấy nó, còn linh thú của ông thì quặp móng lại quanh cái vòng.
Lee gào lên: “Thả ra, lũ ngu ngốc! Nó đang bay lên mà!”
Vì sức nâng của túi gas là quá lớn nên đám đàn ông dù có kéo mạnh đến mấy cũng chẳng thể níu nó lại được. Một người thả tay ra khiến dây neo của anh ta tự động tuột khỏi cọc; nhưng người còn lại, cảm thấy sợi dây đang kéo lên, lại theo bản năng bám chặt lấy nó thay vì thả ra. Lee đã từng thấy chuyện này xảy ra trước đây, nó khiến ông khiếp đảm. Linh thú của người đàn ông tội nghiệp, một con chó husky trông có vẻ nặng nề, hú lên trong hoảng sợ và đau đớn từ mặt đất khi chiếc khí cầu lao lên trời xanh. Sau năm giây tưởng chừng như vô tận, mọi việc kết thúc; người đàn ông đuối sức; anh ta rơi, người lịm đi, rồi ngã tùm vào dòng nước.
Nhưng đám binh sĩ đã giương sẵn súng. Một loạt đạn bay vút qua giỏ khí cầu, một viên va vào vòng treo tóe lửa, khiến hai tay Lee đau nhói lên vì tác động mạnh, nhưng chẳng có viên nào gây ra thiệt hại gì cả. Đến khi họ nã loạt đạn thứ hai, chiếc khí cầu đã gần như ra khỏi tầm với, lao vọt lên trời xanh và phóng ra ngoài biển khơi. Lee cảm thấy trái tim mình đang rộn lên hân hoan. Ông từng nói với Serafina Pekkala rằng ông không quan tâm đến chuyện bay lượn, rằng đó chỉ là một công việc, nhưng ông không thực sự nghĩ như vậy. Vút bay lên cao với một ngọn gió thuận hòa sau lưng và một thế giới mới trước mặt: cuộc đời này còn gì tuyệt vời hơn?
Ông thả vòng treo ra và thấy rằng Hester đang thu mình trong cái góc quen thuộc của nó, mắt nhắm hờ. Từ sâu phía dưới và tít đằng sau, một loạt đạn vô dụng lại phóng tới. Thị trấn nhanh chóng lùi lại phía xa, đường cong rộng lớn của cửa sông lấp lánh trong ánh nắng bên dưới họ.
“Chà, Tiến sĩ Grumman,” ông lên tiếng, “tôi không biết ông thế nào, nhưng tôi thì thấy dễ chịu hơn khi ở trên không trung. Mặc dù tôi ước giá mà anh chàng tội nghiệp kia chịu thả tay khỏi dây neo. Việc đó có khó gì đâu, hơn nữa nếu không thả ra ngay lập tức thì sẽ chẳng còn cơ hội nào cả.”
“Cảm ơn, ông Scoresby,” vị pháp sư nói. “Ông xử lí việc đó rất tốt. Giờ chúng ta có thể yên tâm bay được rồi. Tôi sẽ rất biết ơn nếu được dùng mấy bộ đồ lông kia; không khí vẫn còn lạnh quá.”