- 13 - Sát Thánh
Cùng lúc mặt trăng mọc, các phù thủy bắt đầu khấn thần chú để chữa lành vết thương cho Will.
Họ đánh thức và yêu cầu cậu đặt con dao lên mặt đất, nơi nó bắt được ánh sáng lấp lánh từ các vì sao. Lyra ngồi cạnh đó khuấy thảo dược trong một nồi nước sôi trên đống lửa. Trong lúc những người đồng hành của mình vỗ tay, giậm chân và hét lên theo nhịp điệu, Serafina cúi xuống con dao và cất tiếng hát bằng một giọng cao đầy dữ dội:
“Hỡi dao nhỏ! Họ nhổ sắt của ngươi
từ ruột của đất mẹ,
nhóm lửa rồi đun quặng,
làm nó khóc lóc, rỉ máu và ngập ngụa,
lấy búa nện rồi tôi luyện,
nhúng vào nước lạnh,
nung trong lò rèn
đến khi lưỡi dao đỏ rực như máu, nóng như thiêu!
Rồi họ bắt ngươi chém vào nước một lần, rồi lại thêm lần nữa,
tới khi hơi bốc đun sôi sương mù
còn nước gào khóc xin dung thứ.
Và khi ngươi lướt một cái bóng đơn độc
vào trong ba mươi nghìn bóng tối,
họ liền biết rằng ngươi đã sẵn sàng,
rồi gọi ngươi là vật kì ảo.
Nhưng dao nhỏ, ngươi đã làm gì?
Thông những cánh cửa đổ máu, mặc cho chúng mở toang!
Con dao nhỏ, mẹ ngươi đang gọi,
từ tận đáy lòng trái đất,
từ những hầm mỏ và hang động sâu cùng,
từ dạ sắt bí mật của bà.
Hãy lắng nghe!”
Serafina lại giậm chân và vỗ tay cùng với các phù thủy khác, họ rung cổ họng để phát ra một tiếng gào thét hoang dại xé toạc không khí như những móng vuốt. Ngồi giữa bọn họ, Will cảm thấy một cơn ớn lạnh thấu tận xương tuỷ.
Rồi Serafina Pekkala quay sang phía Will, cầm lấy bàn tay bị thương của cậu bằng cả hai tay. Lần này khi cô cất tiếng hát, cậu gần như muốn lùi lại, vì chất giọng trong trẻo cao vút của cô thật dữ dội, đôi mắt cô sáng lấp lánh; nhưng cậu ngồi im không nhúc nhích, để cho câu thần chú tiếp diễn.
“Hỡi máu! Nghe lời ta! Hãy quay lại,
trở thành hồ chứ đừng là sông,
Khi ngươi chạm tới không khí bên ngoài,
dừng lại! Và dựng một bức tường kết dính,
xây thật chắc để giữ dòng lũ lại.
Hỡi máu, bầu trời của ngươi là mái vòm sọ,
mặt trời của ngươi là đôi mắt rộng mở,
gió của ngươi là hơi thở trong hai lá phổi,
hỡi máu, thế giới của ngươi đã được giới hạn. Hãy ở yên đó!”
Will nghĩ cậu có thể cảm thấy toàn bộ các nguyên tử trong cơ thể mình đang đáp lại mệnh lệnh của cô phù thủy, rồi cậu tham gia cùng, thúc giục máu rỉ phải lắng nghe và tuân lệnh.
Cô đặt bàn tay của cậu xuống rồi quay sang cái ấm sắt nhỏ đặt trên đống lửa. Luồng hơi đắng ngắt đang dâng lên từ đó, Will nghe thấy tiếng chất lỏng sủi bọt ùng ục.
Serafina hát:
“Vỏ sồi, tơ nhện,
rêu đất, cỏ muối…
nắm khít, buộc chặt,
giữ chắc, sít gần,
chặn cửa, khóa cổng,
củng cố bức tường máu,
làm khô dòng máu đông.”
Rồi cô phù thủy lấy con dao của mình ra và xẻ dọc suốt chiều dài một thân cây tổng quán sủi. Thứ chất màu trắng rỉ ra từ vết thương lấp lánh trong ánh trăng. Cô bôi một ít chất lỏng đang bốc hơi vào vết rạch rồi khép lớp gỗ lại, miết nhẹ nó lại từ rễ lên tới ngọn. Vậy là thân cây nhỏ lại nguyên vẹn như cũ.
Will nghe tiếng Lyra há hốc miệng vì kinh ngạc, cậu quay lại và thấy một phù thủy khác đang ôm một con thỏ rừng đang quằn quại, vật lộn trong đôi tay rắn rỏi của cô. Con vật thở hổn hển, mắt long lên, quẫy đạp dữ dội, nhưng đôi tay của cô phù thủy không hề nhân nhượng. Một tay cô giữ hai chân trước còn tay kia nắm chặt hai chân sau, kéo thẳng người con thỏ đang điên cuồng, để cái bụng nặng nề của nó hướng lên trời.
Con dao của Serafina lướt ngang người nó. Will thấy đầu óc choáng váng, còn Lyra phải ghìm Pantalaimon lại, bản thân nó cũng đang trong dạng thỏ rừng vì thương cảm, nó lồng lộn và tợp vào tay cô bé. Con thỏ thật lịm đi, mắt lồi ra, ngực phập phồng, ruột lấp lánh.
Nhưng Serafina đã lấy thêm một chút nước xắc rồi nhỏ nó vào vết thương hở, dùng ngón tay khép vết thương lại, vuốt lớp lông ướt lên trên cho tới khi không còn sót lại vết tích của vết thương.
Cô phù thủy đang giữ con vật thả lỏng bàn tay rồi nhẹ nhàng đặt nó xuống mặt đất. Con thỏ lắc mình, quay lại liếm láp mạn sườn, vẫy tai, rồi gặm một lá cỏ như thể đang chỉ có một mình nó vậy. Đột nhiên nó dường như nhận thức được vòng người xung quanh mình nên lập tức lao vọt đi như tên bắn, đã lành lặn trở lại, lanh lẹ nhảy biến vào bóng tối.
Lyra vừa vỗ về Pantalaimon vừa liếc sang nhìn Will và thấy rằng cậu đã nhận ra việc này có ý nghĩa gì: thuốc đã sẵn sàng. Cậu chìa bàn tay ra. Trong lúc Serafina bôi thứ hỗn hợp bốc khói lên gốc ngón tay đang rỉ máu, cậu nhìn đi chỗ khác và hít mạnh vào vài lần, nhưng không rụt tay lại.
Khi lớp thịt hở của cậu đã được bôi đẫm hoàn toàn, cô phù thủy rịt vài lá thảo dược ẩm lên vết thương rồi buộc nó lại thật chặt bằng một sợi lụa.
Vậy là xong; câu thần chú đã hoàn thành.
Will ngủ rất sâu trong suốt phần còn lại của buổi đêm. Trời lạnh cóng, nhưng các phù thủy đã chất lá lên người cậu, còn Lyra thì nằm rúc sát phía sau lưng cậu. Sáng ra, Serafina băng bó lại vết thương cho cậu, Will cố gắng đoán từ biểu cảm của cô xem nó có đang lành lại không, nhưng gương mặt cô vẫn giữ vẻ điềm tĩnh.
Sau khi ăn xong, Serafina nói với hai đứa trẻ rằng các phù thủy đã đồng tình rằng vì họ đến thế giới này để tìm Lyra và bảo vệ cô, họ cũng sẽ giúp Lyra thực hiện việc mà giờ đây cô đã biết là nhiệm vụ của mình: đó là dẫn Will tới chỗ bố mình.
Vậy là họ lên đường; phần lớn cuộc hành trình diễn ra trong im lặng. Ban đầu Lyra hỏi ý kiến Chân Kế một cách thận trọng, và biết được rằng họ nên đi theo hướng của những dãy núi phía xa mà họ có thể thấy qua vùng vịnh khổng lồ. Do chưa từng ở trên cao đến vậy so với thành phố, họ không nhận ra đường bờ biển cong đến mức nào, và những ngọn núi lại ở dưới đường chân trời; nhưng giờ khi cây thưa hơn, hay khi một con dốc chạy xuống phía dưới, họ có thể phóng tầm mắt ra đại dương xanh trống trải và tới những ngọn núi cao xanh ngắt bên kia đích đến của mình. Xem chừng sẽ là cả một chặng đường dài.
Họ rất kiệm lời. Lyra bận rộn nhìn ngắm sự sống trong khu rừng, từ chim gõ kiến, sóc tới những con rắn rêu xanh nhỏ đính kim cương dọc trên lưng, trong khi Will cần toàn bộ năng lượng đơn thuần chỉ để tiếp tục tiến lên. Lyra và Pantalaimon không ngừng thảo luận về cậu.
“Bọn mình có thể kiểm tra Chân Kế,” đến một lúc Pantalaimon nói, khi chúng đang la cà trên đường để xem có thể tiến gần một con nai nhỏ đang gặm cỏ đến mức nào trước khi nó phát hiện ra chúng. “Bọn mình có bao giờ hứa là không làm đâu. Mà như thế ta có thể tìm ra đủ thứ cho cậu ta. Bọn mình làm thế là vì cậu ta, đâu phải vì bản thân.”
“Đừng có ngốc thế,” Lyra nói. “Đó sẽ là chúng ta làm vì bản thân thôi, bởi cậu ấy có yêu cầu đâu. Cậu chỉ tham lam và tọc mạch thôi, Pan ạ.”
“Như thế khác biệt đấy chứ. Bình thường cậu mới là người tham lam và tọc mạch, còn tớ lại phải cảnh cáo cậu không được làm liều. Giống như trong phòng nghỉ tại Jordan ấy. Tớ không hề muốn vào trong đó.”
“Nếu chúng ta không làm vậy, Pan ạ, cậu có nghĩ tất cả những chuyện này sẽ xảy ra không?”
“Không. Vì ông Hiệu trưởng đã đầu độc thành công Ngài Asriel và thế là hết.”
“Phải, có lẽ vậy… Mà cậu nghĩ bố của Will là ai? Tại sao ông ấy lại quan trọng thế nhỉ?”
“Đó là điều tớ muốn nói đấy! Chỉ vèo một cái là bọn mình có thể tìm ra rồi!”
Nghe vậy cô bé liền tỏ ra thèm muốn. “Trước đây chắc tớ đã làm rồi đấy,” cô nói, “nhưng tớ đang thay đổi, tớ nghĩ vậy Pan ạ.”
“Không, cậu có thay đổi gì đâu.”
“Cậu thì có thể không… Pan này, khi tớ thay đổi, cậu sẽ không biến hình nữa. Cậu sẽ là con gì nhỉ?”
“Bọ chét, hi vọng vậy.”
“Không, nhưng cậu không có chút cảm giác gì về con vật mình sẽ biến thành à?”
“Không. Tớ cũng chẳng muốn biết.”
“Cậu đang hờn vì tớ không chịu làm theo điều cậu muốn.”
Pantalaimon liền biến thành một con lợn, kêu lên ủn ỉn, éc éc rồi lại khụt khịt cho tới khi cô bé phải phá lên cười, rồi nó lại hóa thành sóc và lao qua những cành cây bên cạnh cô.
“Cậu nghĩ bố cậu ấy là ai?” Pantalaimon hỏi. “Cậu có nghĩ ông ấy có thể là ai đó chúng ta đã từng gặp không?”
“Có thể lắm. Nhưng ông ấy chắc chắn là một người quan trọng, quan trọng gần như Ngài Asriel vậy. Chắc chắn thế. Xét cho cùng thì ta cũng biết rằng những việc mình đang làm là quan trọng.”
“Bọn mình đâu biết,” Pantalaimon chỉ ra. “Mình nghĩ nó quan trọng, nhưng không biết chắc, chúng ta quyết định tìm kiếm Bụi vì Roger chết thôi mà.”
“Bọn mình biết là nó quan trọng!” Lyra nóng nảy nói, cô thậm chí còn giậm chân. “Cả các phù thủy cũng vậy. Họ bỏ công sức tới tận đây tìm chúng ta chỉ để bảo vệ và giúp đỡ tớ! Và chúng ta phải giúp Will tìm bố cậu ấy. Việc đó rất quan trọng. Cậu cũng biết điều đó, nếu không cậu đã không liếm khi cậu ấy bị thương. Mà sao cậu lại làm thế chứ? Cậu không hề hỏi ý kiến tớ xem thế có được không. Lúc cậu làm vậy tớ đã không dám tin.”
“Tớ làm vậy vì cậu ấy không có linh thú, và cậu ấy cần một con. Nếu cậu mà giỏi việc nhìn nhận sự việc bằng nửa mức mà cậu nghĩ mình đang đạt được thì cậu hẳn đã biết điều đó rồi.”
“Thật ra là tớ biết rồi,” cô bé nói.
Đến đó chúng ngừng lại, vì hai đứa đã bắt kịp Will, cậu bé đang ngồi trên một tảng đá bên lề đường. Pantalaimon biến thành một con chim rẻ quạt, trong khi nó bay đan giữa các cành cây, Lyra nói: “Will, cậu nghĩ bây giờ những đứa kia sẽ làm gì?”
“Chúng sẽ không bám theo chúng ta đâu. Chúng quá sợ các phù thủy. Có lẽ chúng sẽ lại quay về với việc lang thang khắp nơi.”
“Ừ, có lẽ vậy… Nhưng chắc chúng vẫn muốn dùng con dao. Có khi chúng lại đuổi theo chúng ta để giành lấy nó.”
“Cứ kệ chúng. Chúng không có được nó đâu, không phải bây giờ. Ban đầu tớ không hề muốn có nó. Nhưng nếu nó có thể giết được Quỷ hút hồn…”
“Tớ chưa từng tin tưởng Angelica, ngay từ đầu đã vậy,” Lyra nói vẻ tự đắc.
“Đúng là vậy,” cậu bé nói.
“Phải. Tớ thật sự thấy như vậy… Rốt cuộc thì tớ cũng ghét cái thành phố đó.”
“Khi mới tìm thấy nó, tớ cứ nghĩ nơi đấy là thiên đường cơ. Tớ đã không tưởng tượng nổi bất cứ thứ gì tốt đẹp hơn thế. Nhưng cùng lúc đó nó lại đầy ắp Quỷ hút hồn, và chúng ta không hề biết…”
“Chà, tớ sẽ không bao giờ tin tưởng trẻ con nữa,” Lyra nói. “Hồi ở Bolvangar tớ đã nghĩ là dù cho người lớn có làm gì, dù mọi việc có tồi tệ đến đâu đi nữa, thì trẻ con vẫn khác biệt. Chúng sẽ không làm những việc tàn nhẫn như thế. Nhưng giờ thì tớ không chắc nữa rồi. Tớ chưa từng thấy bọn trẻ nào như thế, đó là sự thật.”
“Tớ thì có,” Will nói.
“Khi nào? Ở thế giới của cậu à?”
“Ừ,” cậu bé ngượng ngùng đáp. Lyra ngồi im chờ đợi, và chẳng bao lâu sau cậu nói: “Đó là khi mẹ tớ đang trải qua một trong những thời điểm tồi tệ của mình. Mẹ và tớ, chúng tớ sống một mình, cậu thấy đấy, vì rõ ràng là bố tớ không có ở đó. Cứ thỉnh thoảng bà lại bắt đầu nghĩ đến những thứ không có thật, và làm những việc vô nghĩa, dù sao cũng không phải là với tớ. Ý tớ là bà ấy phải làm những việc đó nếu không sẽ bị ức chế đến mức bà ấy thường sợ hãi tất cả mọi thứ và vì vậy tớ thường giúp đỡ mẹ. Như chạm vào tất cả các tay vịn ở công viên, hay đếm lá trên một bụi cây, mấy việc kiểu như thế. Thường thì một thời gian sau, bà ấy sẽ khá lên. Nhưng tớ sợ sẽ có ai đó phát hiện ra tình trạng của mẹ, tớ nghĩ họ sẽ đưa bà ấy đi mất, vì vậy tớ vẫn cứ chăm sóc bà và giấu giếm điều đó. Tớ chưa từng kể với ai cả.
“Rồi một lần bà ấy hoảng sợ khi tớ không có ở đó để giúp đỡ. Tớ đang ở trường. Vậy là bà ấy ra ngoài mà không mặc gì nhiều lắm, chỉ có điều là bản thân bà không nhận ra. Rồi mấy thằng nhóc ở trường tớ, chúng nó thấy mẹ tớ, và bắt đầu…”
Mặt Will nóng bừng lên. Không thể kiềm chế nổi, cậu thấy mình đi tới đi lui và nhìn tránh khỏi Lyra vì giọng cậu đang run rẩy còn đôi mắt thì đầy ậc nước. Cậu nói tiếp:
“Chúng giày vò mẹ tớ giống như lũ trẻ kia làm với con mèo ở chân Tháp… Chúng nghĩ bà ấy bị điên và muốn làm bà đau, có khi là giết bà nữa, tớ không lấy gì làm ngạc nhiên cả. Bà ấy khác biệt nên chúng ghét bà ấy. Dù sao thì tớ cũng tìm được mẹ và đưa bà về nhà. Ngày hôm sau ở trường tớ đã đánh nhau với thằng cầm đầu bọn đó. Tớ đánh nhau, đập gãy tay nó, tớ nghĩ tớ còn làm gãy vài cái răng của nó nữa, chắc thế. Sau đó tớ đang định xử lũ còn lại thì gặp phải rắc rối, và tớ nhận ra rằng mình nên dừng lại nếu không họ sẽ phát hiện ra, ý tớ là giáo viên và các nhà chức trách ấy, họ sẽ tới tìm mẹ tớ để phàn nàn về tớ và phát hiện ra tình trạng của bà rồi đưa bà đi mất. Nên tớ chỉ giả vờ hối lỗi rồi nói với các giáo viên là tớ sẽ không tái phạm nữa, họ phạt tớ vì tội đánh nhau, tớ cũng không kêu ca gì. Nhưng tớ đã bảo vệ an toàn được cho mẹ, thấy không. Không ai biết ngoại trừ những thằng bé kia, mà chúng thì biết tớ sẽ làm gì nếu chúng dám hé răng; chúng biết tớ sẽ giết chúng vào một lúc nào đó. Không chỉ là làm bị thương. Rồi một thời gian ngắn sau đó mẹ tớ lại khỏe lại. Chưa có ai từng biết.
“Nhưng sau đó tớ không tin tưởng trẻ con hơn người lớn chút nào. Chúng cũng ham muốn làm điều xấu chẳng khác gì họ. Nên tớ không ngạc nhiên khi những đứa trẻ ở Ci’gazze làm thế.
“Nhưng tớ rất mừng khi các phù thủy đến.”
Cậu ngồi xuống trở lại, quay lưng về phía Lyra. Vẫn tránh nhìn vào cô bé, cậu quệt tay lên ngang mắt. Cô giả vờ như không nhìn thấy.
“Will,” cô bé nói, “những gì cậu nói về mẹ mình… Cả Tullio nữa, khi đám Quỷ hút hồn tóm được hắn ta… Rồi hôm qua cậu nói cậu nghĩ rằng Quỷ hút hồn tới từ thế giới của cậu…”
“Phải. Vì việc đó thật vô lí, chuyện xảy ra với mẹ tớ ấy. Bà ấy không bị điên. Đám trẻ đó có thể cho rằng bà ấy bị điên nên mới cười nhạo và muốn làm bà ấy đau nhưng chúng đã nhầm; bà ấy không điên. Chỉ trừ việc bà ấy sợ hãi những thứ mà tớ không thấy được. Bà buộc phải làm những việc trông có vẻ điên rồ mà chẳng ai hiểu vì sao, nhưng rõ ràng là bà ấy thấy được ý nghĩa của những việc đó. Như việc bà ấy đếm toàn bộ số lá cây, hay Tullio hôm qua lần rờ những tảng đá trên tường. Có lẽ đó là một cách để cố gắng xua lũ Quỷ hút hồn đi. Nếu họ quay lưng lại thứ đáng sợ ở phía sau, cố gắng thực sự hứng thú với những hòn đá và cách mà chúng xếp khít lại với nhau, hay những cái lá trên bụi cây, kiểu như chỉ cần khiến cho bản thân nghĩ rằng việc đó thật sự quan trọng, thì họ sẽ được an toàn. Tớ không biết nữa. Trông có vẻ như thế. Có những việc có thật khiến bà ấy sợ hãi, như những gã đàn ông đã đến ăn trộm ở nhà tớ, nhưng ngoài chúng ra còn có thứ gì đó khác nữa. Vậy nên có thể ở thế giới của tớ có Quỷ hút hồn thật, chỉ là chúng tớ không thể thấy và không có tên cho chúng, nhưng chúng ở đó, và chúng liên tục muốn tấn công mẹ tớ. Thế nên hôm qua tớ đã rất mừng khi Chân Kế nói rằng bà ấy vẫn ổn.”
Cậu đang thở gấp, bàn tay phải tóm chặt lấy chuôi con dao trong bao đựng. Lyra không nói gì, Pantalaimon cũng rất yên lặng.
“Cậu biết mình phải đi tìm bố từ khi nào?” Một lúc sau cô bé hỏi.
“Lâu rồi,” cậu nói với cô. “Tớ từng giả vờ ông ấy là tù binh còn tớ sẽ giúp ông ấy trốn thoát. Tớ đã tự mình chơi trò đó trong một thời gian dài, nó thường kéo dài nhiều ngày trời. Hoặc không thì ông ấy bị kẹt trên đảo hoang, còn tớ sẽ giong thuyền đến đó và đưa bố về nhà. Rồi ông ấy sẽ biết chính xác phải làm gì với mọi thứ, đặc biệt là với mẹ tớ, mẹ sẽ khỏe lại, bố sẽ chăm sóc mẹ và tớ, còn tớ có thể chỉ cần đến trường, kết bạn, tớ sẽ có cả mẹ và bố nữa. Vậy nên tớ luôn tự nhủ rằng khi nào lớn lên tớ sẽ đi tìm bố mình… Mẹ từng nói rằng tớ sẽ theo chân bố mình. Bà ấy hay nói vậy để làm tớ vui. Tớ không hiểu điều đó nghĩa là gì, nhưng nghe có vẻ quan trọng lắm.”
“Cậu không có bạn bè gì à?”
“Làm sao tớ có bạn được?” Cậu bé đáp, thực sự bối rối. “Bạn bè… Họ đến nhà mình và quen biết bố mẹ mình… Thỉnh thoảng một thằng nhóc có thể sẽ mời tớ đến nhà chơi, tớ có thể sẽ đi hoặc không đi, nhưng tớ không bao giờ có thể mời người khác đến được. Nên tớ chẳng bao giờ có bạn cả, thật đấy. Tớ sẽ rất muốn có… Tớ có con mèo của mình rồi,” cậu nói tiếp. “Hi vọng hiện giờ nó vẫn ổn. Hi vọng có ai đó đang chăm sóc nó…”
“Còn về người đàn ông cậu đã giết thì sao?” Lyra hỏi, tim đập thình thịch. “Ông ta là ai?”
“Tớ không biết. Nếu đã giết hắn thì tớ chẳng quan tâm nữa. Hắn xứng đáng bị thế. Bọn chúng có hai tên. Chúng liên tục đến nhà quấy rầy mẹ tớ cho tới khi bà lại hoảng sợ, tình trạng của bà chưa bao giờ tồi tệ đến thế. Chúng muốn biết mọi thứ về bố tớ, và không chịu để cho mẹ tớ yên. Tớ không rõ liệu chúng có phải là cảnh sát hay gì đó không. Ban đầu tớ cứ nghĩ chúng thuộc băng đảng hay gì đó, có thể chúng cho rằng bố tớ đã cướp ngân hàng và giấu tiền đi. Nhưng chúng không cần tiền, chúng muốn những tờ giấy. Chúng muốn mấy bức thư mà bố đã gửi. Một ngày nọ chúng còn đột nhập vào nhà, lúc đó tớ thấy rằng sẽ an toàn hơn nếu mẹ tớ ở chỗ khác. Cậu thấy đấy, tớ không thể đến cảnh sát yêu cầu họ giúp đỡ, vì họ sẽ cướp mẹ đi mất. Tớ không biết phải làm gì cả.
“Vậy là rốt cuộc tớ đã nhờ một người phụ nữ lớn tuổi từng dạy mình piano. Đó là người duy nhất tớ có thể nghĩ đến. Tớ hỏi bà ấy xem liệu mẹ mình có thể ở với bà hay không rồi đưa mẹ tới đó. Tớ nghĩ bà ấy sẽ lo cho mẹ tớ ổn cả thôi. Nói chung sau đó tớ quay về nhà để tìm những bức thư này, vì tớ biết mẹ cất chúng ở đâu, tớ lấy được chúng thì mấy gã đàn ông lại đến tìm và đột nhập vào nhà. Lúc đó đang là buổi đêm, hoặc là sáng sớm. Tớ đang trốn trên đỉnh cầu thang thì Moxie, con mèo Moxie của tớ, đi ra từ phòng ngủ, cả tớ lẫn gã đàn ông đều không thấy nó, rồi khi tớ đâm sầm vào hắn, con mèo làm hắn trượt ngã và lao thẳng xuống dưới đáy cầu thang…
“Sau đó tớ bỏ chạy. Đó là toàn bộ câu chuyện. Nên là tớ không cố ý giết hắn, nhưng kể cả có làm vậy thì tớ cũng chẳng quan tâm. Tớ bỏ chạy tới Oxford rồi tìm thấy ô cửa đó. Việc đó xảy ra chỉ vì tớ thấy một con mèo khác nên đã dừng lại nhìn, nó tìm thấy cái cửa sổ trước tiên. Nếu tớ không thấy nó… Hoặc nếu lúc đó Moxie không bước ra từ phòng ngủ…”
“Ừ,” Lyra nói, “may thật đấy. Còn tớ và Pan thì vừa mới nghĩ xong, rằng nếu tớ không chui vào tủ quần áo trong phòng nghỉ ở Jordan và thấy ông Hiệu trưởng bỏ thuốc độc vào rượu thì sao? Toàn bộ chuyện này cũng đã chẳng xảy ra…”
Cả hai đứa ngồi lặng thinh trên tảng đá phủ rêu, trong ánh nắng chiếu xiên qua những cây thông già cỗi, ngẫm nghĩ về cái cách mà rất nhiều cơ hội nhỏ nhoi hợp lại đã đẩy chúng tới nơi này. Mỗi cơ hội đó lại có thể đã đi theo một hướng khác. Có lẽ tại một thế giới khác, một Will khác đã không thấy ô cửa tại Đại lộ Sunderland mà lang thang trong mệt mỏi và vô định về vùng Midlands cho tới khi bị bắt. Còn ở một thế giới nọ, Pantalaimon lại thuyết phục được một Lyra khác không ở lại phòng nghỉ, một Ngài Asriel khác đã bị bỏ độc, và một Roger khác đã sống sót để mãi mãi chơi với cô bé Lyra đó trên các mái nhà, những con hẻm của một Oxford khác không hề biến đổi.
Will của hiện tại thì đã cảm thấy đủ mạnh mẽ để tiếp tục tiến bước, và hai đứa lại cùng nhau sóng bước trên con đường, với khu rừng vĩ đại lặng lẽ vây quanh. Chúng mải miết đi suốt cả ngày, đôi lúc dừng lại nghỉ rồi đi tiếp, rồi lại nghỉ, trong lúc cây cối trở nên thưa thớt hơn còn mặt đất thì gồ ghề thêm sỏi đá. Lyra kiểm tra Chân Kế: cứ đi tiếp, nó nói; đây là hướng đi đúng. Đến trưa, chúng tới một ngôi làng không bị Quỷ hút hồn quấy nhiễu: dê gặm cỏ trên sườn đồi, một lùm chanh nhỏ hắt bóng lên mặt đất lởm chởm đá, trẻ con nô đùa trong dòng suối gọi lớn rồi chạy về với mẹ khi nhìn thấy đứa con gái quần áo tả tơi và thằng bé mặt trắng bệch có đôi mắt dữ tợn trong chiếc áo lấm tấm máu, cùng với con chó săn nhỏ duyên dáng bước đi bên cạnh chúng.
Những người lớn dù cảnh giác nhưng vẫn sẵn lòng bán chút bánh mì, pho mát và hoa quả đổi lấy một trong những đồng vàng của Lyra. Các phù thủy đã tránh đi, mặc dù cả hai đứa đều biết rằng họ sẽ ở đó chỉ trong nháy mắt nếu có bất cứ hiểm họa nào đe dọa. Sau một lượt trả giá nữa của Lyra, một bà già đã bán cho chúng hai bình nước bằng da dê và một cái áo bằng vải lanh cao cấp. Will nhẹ nhõm cởi bỏ cái áo phông bẩn thỉu của mình, tắm rửa trong dòng nước lạnh cóng rồi sau đó nằm phơi nắng dưới ánh mặt trời nóng rực.
Sau khi đã khỏe lại, chúng tiếp tục lên đường. Lúc này mặt đất đã trở nên xù xì hơn; để tránh nắng hai đứa phải nghỉ trong bóng râm của những hòn đá, không phải dưới những tán cây lan rộng, còn mặt đất dưới chân thì nóng xuyên qua cả đế giày của chúng. Mặt trời chiếu thẳng vào mắt chúng. Càng lên cao cả hai di chuyển ngày càng chậm, khi mặt trời chạm tới những viền núi và chúng thấy một thung lũng nhỏ mở ra phía dưới, hai đứa trẻ quyết định không tiến thêm nữa.
Chúng lần mò xuống dưới dốc, hơn một lần suýt trượt chân, rồi phải len lỏi qua những bụi cây đỗ quyên lùn, các đám lá sẫm màu bóng bẩy và những khóm hoa đỏ thắm dày đặc tiếng ong vo ve, trước khi bước vào bóng chiều trên đồng cỏ hoang dã bên rìa một con suối, cỏ cao đến đầu gối và dày đặc hoa thanh cúc, long đởm và ỷ lăng.
Will uống nước thỏa thuê trong lòng suối rồi nằm xuống. Cậu không thể thức nổi, nhưng cũng chẳng thể ngủ được; đầu óc cậu đang quay cuồng, một sự kì lạ đến sững sờ lơ lửng trên mọi thứ, còn bàn tay cậu thì đau nhức không yên.
Nhưng tồi tệ hơn nữa là nó bắt đầu chảy máu trở lại.
Serafina kiểm tra vết thương, đắp thêm lá thuốc lên rồi thắt lớp lụa chặt hơn bao giờ hết, nhưng lần này gương mặt cô mang đầy lo âu. Cậu bé không muốn gặng hỏi, vì có ích gì chứ? Cậu nhận thấy rõ ràng rằng câu thần chú đã không có hiệu quả, cậu cũng hiểu rằng cô cũng biết điều đó.
Khi màn đêm buông xuống, cậu nghe thấy tiếng Lyra tới nằm xuống sát cạnh mình, chẳng bao lâu cậu đã nghe thấy một tiếng rên rừ rừ khe khẽ. Linh thú của cô bé, trong dạng mèo, đang lơ mơ ngủ với đôi chân gập lại chỉ cách cậu vài thước. Will liền thì thầm:
“Pantalaimon?”
Đôi mắt con linh thú mở ra. Lyra không động đậy. Pantalaimon thì thầm: “Ừ?”
“Pan, tớ sắp chết à?”
“Các phù thủy sẽ không để cho cậu chết đâu. Cả Lyra cũng không.”
“Nhưng phép thuật không hiệu nghiệm. Tớ vẫn liên tục chảy máu. Chắc tớ cũng không còn nhiều để mất nữa. Nó lại đang rỉ máu này, nó sẽ không ngừng đâu. Tớ sợ lắm…”
“Lyra không nghĩ là cậu sợ.”
“Thật à?”
“Cậu ấy cho rằng cậu là chiến binh quả cảm nhất mình từng được gặp, không kém gì Iorek Byrnison.”
“Vậy chắc là tớ nên cố gắng không tỏ ra sợ hãi,” Will nói. Cậu bé im lìm trong một chốc rồi lên tiếng: “Tớ nghĩ Lyra còn gan dạ hơn cả tớ. Tớ nghĩ cậu ấy là người bạn tốt nhất mình từng có.”
“Cậu ấy cũng nghĩ như vậy về cậu,” con linh thú thì thầm.
Chẳng mấy chốc Will đã nhắm mắt lại.
Lyra nằm bất động, nhưng đôi mắt cô đang mở to trong bóng tối, tim cô đập liên hồi.
Lần tiếp theo khi Will nhận thức được sự việc thì trời đã tối hẳn, bàn tay cậu đang đau đớn hơn bao giờ hết. Cậu cẩn thận ngồi dậy và thấy một ngọn lửa bập bùng cháy cách đó không xa, nơi Lyra đang cố gắng nướng chút bánh mì trên một cái chạc cùng vài con chim trên một que xiên. Khi Will tới ngồi cạnh đó, Serafina Pekkala liền bay xuống.
“Will,” cô phù thủy nói, “ăn mấy cái lá này trước khi dùng bất cứ thức ăn nào khác.”
Cô đưa cho cậu bé một nắm lá mềm có vị đắng, có vẻ gì đó giống với lá xô thơm, cậu lặng lẽ nhai chúng rồi cố nuốt. Chúng làm se da lại, nhưng cậu cảm thấy tỉnh táo hơn, bớt lạnh, và khỏe hơn.
Họ ăn thịt chim nướng, tẩm thêm nước chanh, một phù thủy khác đem mấy quả việt quất mà cô tìm được bên dưới hòn đá nhỏ, rồi các phù thủy tụ tập lại quanh đống lửa. Họ trao đổi rất khẽ; một vài trong số họ đã bay lên cao để do thám, có người đã nhìn thấy một chiếc khí cầu bay trên biển. Lyra lập tức ngồi bật dậy.
“Khí cầu của ông Scoresby?” Cô bé hỏi.
“Có hai người đàn ông trong đó, nhưng nó ở quá xa để có thể thấy được đó là ai. Một cơn bão đang hình thành sau lưng họ.”
Lyra vỗ tay. “Nếu ông Scoresby đang tới,” cô bé nói, “chúng ta sẽ được bay, Will ạ! Ôi, hi vọng là ông ấy! Tớ chưa có dịp nói lời tạm biệt, mà ông ấy lại rất tử tế… Ước gì tớ có thể gặp lại ông ấy, tớ thật sự mong như thế…”
Phù thủy Juta Kamainen đang lắng nghe, với con linh thú chim cổ đỏ mắt sáng rực đậu trên vai, bởi vì nhắc đến Lee Scoresby gợi cô nhớ lại cuộc tìm kiếm mà ông đã dấn thân vào. Cô chính là phù thủy đã phải lòng Stanislaus Grumman nhưng lại bị ông khước từ, là phù thủy mà Serafina Pekkala đã đưa đến thế giới này để ngăn cô giết ông khi họ gặp nhau.
Serafina có thể đã nhận ra, nhưng một chuyện khác lại xảy đến: cô giơ tay và ngẩng đầu lên, các phù thủy khác cũng làm như vậy. Will và Lyra có thể lờ mờ nghe thấy từ phía bắc tiếng thét của một loài chim ăn đêm. Nhưng đó không phải là một con chim: các phù thủy ngay lập tức nhận ra rằng đó là một linh thú. Serafina Pekkala đứng dậy, chăm chú nhìn về phía bầu trời.
“Tôi nghĩ đó là Ruta Skadi,” cô nói.
Họ ngồi yên, nghiêng đầu về phía khoảng không tĩnh mịch bao la, căng tai lên nghe ngóng.
Rồi một tiếng thét nữa lại vọng tới, lần này đã gần hơn, rồi một tiếng thứ ba; tất cả các phù thủy liền tóm lấy cành cây của mình và lao lên không trung. Tất cả trừ hai người, họ đứng gần lại, tên đặt sẵn trên cung, bảo vệ cho Will và Lyra.
Đâu đó tại màn đêm phía trên cao, một trận chiến đang diễn ra. Dường như chỉ vài giây sau, họ có thể nghe thấy tiếng bay vun vút, tiếng những mũi tên rít lên, tiếng những giọng nói càu nhàu và gào thét vì đau đớn, phẫn nộ hay ra lệnh.
Rồi với một tiếng phịch đột ngột đến mức họ không có thời gian giật mình, một sinh vật rơi từ bầu trời xuống bên chân họ - một con vật da nhẽo lông bết mà Lyra nhận ra là một con quỷ vực, hoặc thứ gì đó tương tự.
Người nó gãy gập lại do cú rơi, một mũi tên thòi ra từ mạn sườn, nhưng nó vẫn lảo đảo đứng dậy rồi nhảy bổ về phía Lyra với toàn bộ sự hiểm độc. Các phù thủy không thể bắn, vì cô bé đang đứng trong đường tên bay của họ, nhưng Will đã tới đó trước, với con dao trong tay, cậu chém bằng tay trái, khiến đầu sinh vật kia lìa khỏi cổ rồi lộn vòng một vài lần. Một tiếng ùng ục phát ra khi không khí thoát khỏi phổi nó, và nó lăn kềnh ra chết.
Họ lại hướng mắt nhìn lên trời, vì cuộc chiến đang hạ xuống thấp, ánh lửa bùng lên soi sáng một vòng xoáy chảy siết của lụa đen, các đôi chân và cánh tay trắng ngần, những chiếc lá thông xanh nhọn hoắt, lớp da đóng vảy nâu xám. Làm thế nào các phù thủy có thể giữ thăng bằng khi đột ngột đổi hướng, dừng lại rồi phóng về phía trước, chưa kể đến việc ngắm bắn, nằm ngoài tầm hiểu biết của Will.
Một con quỷ vực khác, rồi lại một con thứ ba rơi tủm vào dòng suối hay lên đám đá tảng gần đó, nằm chết cứng đờ; rồi số còn lại vừa líu ríu kêu te te vừa tháo chạy vào màn đêm về phương bắc.
Một lúc sau Serafina Pekkala đáp xuống cùng với các phù thủy của mình, cộng thêm một người nữa: một phù thủy xinh đẹp, có đôi mắt dữ dội và mái tóc đen tuyền, đôi gò má ửng hồng vì giận dữ và kích động.
Cô phù thủy mới đến nhìn con quỷ vực mất đầu rồi làu bàu.
“Không phải từ thế giới của chúng ta,” cô nói, “cũng chẳng phải thế giới này. Lũ bẩn thỉu đáng kinh tởm. Có hàng ngàn con đang sinh sôi như ruồi… Ai thế này? Đứa bé này có phải Lyra không? Còn cậu nhóc này là ai?”
Lyra thản nhiên đáp trả lại cái nhìn của cô phù thủy, dù cô bé cảm thấy tim mình đang đập nhanh hơn, vì khí phách của Ruta Skadi chói sáng đến mức cô khiến cho bất cứ ai ở gần cũng phải run lên vì kích động.
Rồi cô phù thủy quay sang Will, khiến cậu cảm nhận sự náo nức mãnh liệt không kém, nhưng cũng giống như Lyra, cậu đã kiềm chế biểu cảm của mình. Cậu vẫn nắm con dao trong tay, cô mỉm cười vì đã chứng kiến việc cậu làm với nó. Cậu thọc nó xuống đất để gột sạch máu của cái thứ kinh tởm kia rồi rửa lại bằng nước suối.
Ruta Skadi đang nói: “Serafina Pekkala, tôi đang được học hỏi rất nhiều; tất cả những điều xưa cũ đều đang biến đổi, tàn lụi, hoặc trống rỗng. Tôi đói quá…”
Cô lao vào ăn như một con thú hoang, xé phần còn lại của mấy con chim nướng rồi nhồi vài nắm bánh mì vào miệng, nuốt trôi chúng bằng những ngụm nước suối lớn. Trong khi cô dùng bữa, vài phù thủy mang đám quỷ vực chết đi chỗ khác, dựng lại đống lửa rồi sắp xếp người canh gác.
Những người còn lại đến ngồi cạnh Ruta Skadi, để lắng nghe những gì cô có thể kể với họ. Cô thuật lại chuyện đã xảy ra khi bay lên gặp các thiên thần, rồi đến hành trình tới pháo đài của Ngài Asriel.
“Các chị em ạ, đó là tòa lâu đài hùng vĩ nhất mà các vị có thể tưởng tượng ra - các thành luỹ bằng đá bazan, chĩa thẳng lên trời, những con đường rộng thênh thang đổ tới từ muôn ngả, trên đó là đủ loại hàng hóa từ thuốc súng, thực phẩm, đến giáp tấm; ông ấy đã làm thế nào vậy? Tôi nghĩ ông ấy hẳn đã chuẩn bị cho việc này trong một thời gian dài, hàng niên kỉ. Ông ấy đã chuẩn bị việc này trước cả khi chúng ta sinh ra, các chị em ạ, dù cho bản thân ông lại trẻ hơn rất nhiều… Nhưng làm sao có thể như thế được? Tôi không biết. Tôi không hiểu nổi. Tôi nghĩ ông ấy điều khiển được thời gian, làm cho nó chạy nhanh hay chậm tuỳ ý.
“Đang tiến đến pháo đài này là đủ loại binh lính, từ đủ mọi thế giới. Cả đàn ông lẫn phụ nữ, phải, và các linh hồn chiến binh nữa, rồi còn những sinh vật được vũ trang mà tôi chưa từng bao giờ nhìn thấy - thằn lằn và khỉ, chim khổng lồ có cựa tẩm độc, những sinh vật kì dị đến nỗi tôi không thể đoán nổi tên chúng là gì. Với lại, ở các thế giới khác cũng có phù thủy, các chị em ạ: các vị có biết điều đó không? Tôi đã nói chuyện với các phù thủy từ một thế giới giống như của chúng ta, nhưng lại cực kì khác biệt, vì những phù thủy đó sống không lâu hơn những sinh vật có vòng đời ngắn ngủi của chúng ta, và họ có cả đàn ông nữa, những phù thủy nam bay lượn hệt như chúng ta…”
Câu chuyện của cô khiến các phù thủy thuộc tộc của Serafina Pekkala phải lắng nghe trong kinh ngạc, lo sợ và không tin. Nhưng Serafina tin tưởng cô, và giục cô nói tiếp.
“Cô đã gặp Ngài Asriel chưa, Ruta Skadi? Cô tìm được cách đến chỗ ông ấy rồi chứ?”
“Vâng, tôi đã tìm được, việc đó chẳng dễ dàng gì, vì ông ấy sống tại trung tâm của rất nhiều nhóm hoạt động, và là người chỉ đạo tất cả bọn họ. Nhưng tôi đã khiến bản thân tàng hình rồi tìm đường vào căn phòng tận sâu trong cùng của ông ấy, khi ông đang chuẩn bị đi ngủ.”
Tất cả các phù thủy ở đó đều biết chuyện gì xảy ra tiếp theo, còn Will và Lyra thì không nghĩ nổi tới chuyện đó. Vậy nên Ruta Skadi không cần phải kể thêm, cô nói tiếp:
“Rồi tôi hỏi tại sao ông ấy lại tập hợp tất cả những lực lượng này lại với nhau, và liệu điều mà chúng ta nghe được về việc ông ấy thách thức chính Đấng Quyền Năng có đúng không, ông ấy liền phá lên cười.
“‘Vậy ở Siberia người ta cũng nói đến nó à?’ Ông ấy nói, tôi trả lời là phải, ở cả Svalbard và mọi vùng đất phương bắc - phương bắc của chúng ta; tôi cũng kể cho ông ấy về hiệp ước của chúng ta, về việc tôi đã rời khỏi thế giới của chúng ta để tìm kiếm và tìm thấy ông ấy như thế nào.
“Và ông ấy mời chúng ta tham gia cùng, các chị em ạ. Tham gia vào đội quân chống lại Đấng Quyền Năng. Tôi đã ao ước bằng cả trái tim mình là có thể cam kết ngay tại đó, vào lúc đó; tôi sẵn sàng đẩy cả bộ tộc của mình vào chiến tranh với trái tim tràn ngập hạnh phúc. Ông ấy cho tôi thấy rằng nổi dậy là đúng đắn và thích đáng, khi nghĩ tới những việc mà đám tay sai của Đấng Quyền Năng làm dưới danh nghĩa của ngài ấy… Rồi tôi nghĩ đến những đứa trẻ ở Bolvangar, và những vụ cắt xẻ kinh hoàng mà tôi đã chứng kiến tại các miền đất phía nam ở thế giới của chính chúng ta; ông ấy còn kể cho tôi về nhiều sự tàn độc khủng khiếp khác được thực hiện dưới danh nghĩa Đấng Quyền Năng - về việc ở một vài thế giới, người ta bắt bớ phù thủy, rồi thiêu sống họ, các chị em ạ, phải, những phù thủy giống như chúng ta…
“Ông ấy khiến tôi mở mắt, chỉ cho tôi những điều tôi chưa từng thấy, tất cả những tàn bạo và ghê tởm đều có dính dáng đến cái tên Đấng Quyền Năng, tất cả đều được thiết kế để hủy hoại niềm vui và tính đúng đắn của cuộc sống.
“Ôi, các chị em, tôi khao khát được đẩy bản thân và cả bộ tộc vào sự nghiệp cao cả này!
“Nhưng tôi biết mình phải hỏi ý kiến các vị trước, sau đó sẽ bay về thế giới của chúng ta để nói chuyện với Ieva Kasku, Reina Miti và các nữ hoàng phù thủy khác.
“Vậy là tôi tàng hình và rời khỏi phòng của ông ấy, tìm cành thông mây của mình rồi bay đi. Nhưng trước khi bay được xa, một cơn gió lớn đã thổi tới và hất tôi lên cao tít trên những rặng núi, tôi phải lánh nạn trên một đỉnh vực. Vì biết những loại sinh vật sống trên các vách đá nên tôi lại tàng hình, và trong bóng đêm tôi đã nghe thấy những tiếng nói.
“Có vẻ như tôi đã sảy chân vào hang ổ của con quỷ vực già nhất hiện giờ. Nó bị mù, những con khác đang mang thức ăn đến cho nó: một thứ xác thối bốc mùi nồng nặc từ sâu dưới vực. Chúng đang nhờ nó chỉ dẫn.
“‘Ông à,’ chúng nói, ‘kí ức của ông có từ bao giờ vậy?’
“‘Từ xưa, xưa lắm rồi. Rất lâu trước khi xuất hiện con người,’ nó nói, giọng con quỷ già rất khẽ, vỡ vụn và yếu ớt.
“‘Có thật là cuộc chiến vĩ đại nhất từng được biết tới sắp nổ ra không hả ông?’
“‘Phải, các con của ta ạ,’ nó đáp. ‘Một trận chiến thậm chí còn vĩ đại hơn trận lần trước. Một bữa tiệc linh đình cho tất cả chúng ta. Đó sẽ là chuỗi ngày hoan lạc và ê hề cho mọi yêu quỷ trong mọi thế giới.’
“‘Vậy ai sẽ thắng hả ông? Liệu Ngài Asriel có đánh bại được Đấng Quyền Năng không?’
‘“Quân số của Ngài Asriel lên tới hàng triệu,” con quỷ vực già nói với chúng, ‘tập hợp lại từ tất cả các thế giới. Đội quân này hùng mạnh hơn so với đội quân đã chiến đấu với Đấng Quyền Năng trước đây, và cũng được lãnh đạo tốt hơn. Còn về lực lượng của Đấng Quyền Năng, than ôi, họ nhiều gấp cả trăm lần. Nhưng Đấng Quyền Năng già cỗi lắm rồi, thậm chí già hơn cả ta rất nhiều, các con ạ, các đạo quân của ông ta thì luôn hoảng sợ, chỗ nào không hoảng sợ thì lại tự mãn. Đó sẽ là một trận chiến cân sức, nhưng Ngài Asriel sẽ chiến thắng thôi, vì ông ta đầy nhiệt huyết, táo bạo và tin tưởng rằng đại nghiệp mình đang theo đuổi là chính nghĩa. Chỉ trừ một việc, các con ạ. Ông ta không có Sát Thánh. Thiếu Sát Thánh, ông ta và toàn bộ lực lượng của mình sẽ bị đẩy tới chỗ thất bại. Và rồi chúng ta sẽ được tiệc tùng hàng năm trời, các con của ta ạ!’
“Rồi con quỷ già cười lớn và gặm khúc xương cũ hôi thối mà bọn chúng mang đến, còn những con khác thì rít lên đầy sung sướng.
“Giờ thì các vị có thể tưởng tượng tôi đã căng tai ra để nghe thêm về tay Sát Thánh này, nhưng tất cả những gì tôi có thể nghe được trong tiếng gió hú là tiếng một con quỷ nhỏ hỏi: ‘Nếu Ngài Asriel cần Sát Thánh, tại sao ông ta không gọi hắn?’
“Và con quỷ già đáp: ‘Ngài Asriel không biết về Sát Thánh nhiều hơn con đâu, nhóc ạ! Đó là một câu đùa thôi! Cười dài và lớn lên nào…’
“Nhưng khi cố gắng tiến lại gần hơn với những sinh vật ghê tởm đó để tìm hiểu thêm thì năng lực của tôi lại biến mất, các chị em ạ, tôi không thể giữ cho bản thân tàng hình được nữa. Lũ quỷ nhỏ nhìn thấy tôi và rít lên, nên tôi phải tháo chạy, trở lại thế giới này thông qua cánh cổng vô hình trong không trung. Một đám đã bám theo tôi, và những con chết ở đằng kia là những con cuối cùng trong số chúng.
“Nhưng rõ ràng là Ngài Asriel cần chúng ta, các chị em ạ. Cho dù cái tên Sát Thánh này có là ai đi nữa thì Ngài Asriel cũng cần chúng ta! Giá mà ngay lúc này tôi có thể quay lại bên Ngài Asriel và nói rằng: Đừng lo - chúng tôi đang tới đây - các phù thủy của phương bắc, chúng tôi sẽ giúp anh giành chiến thắng… Hãy đồng ý nào, Serafina Pekkala, rồi triệu tập một hội đồng lớn của toàn bộ các phù thủy từng bộ tộc một, và tham chiến!”
Serafina Pekkala nhìn sang Will, cậu thấy dường như cô đang xin phép mình điều gì đó. Nhưng cậu chẳng thể đưa ra được chỉ dẫn gì nên cô lại quay sang Ruta Skadi.
“Không phải chúng tôi,” cô đáp. “Hiện giờ nhiệm vụ của chúng tôi là giúp đỡ Lyra, còn nhiệm vụ của cô bé là dẫn Will đến với bố mình. Cô nên bay về, tôi đồng ý với điều này, nhưng chúng tôi phải ở đây với Lyra.”
Ruta Skadi hất đầu vẻ sốt ruột.
“Vâng, nếu các vị muốn,” cô đáp.
Will nằm xuống, vì vết thương đang hành hạ cậu - thậm chí còn kinh khủng hơn nhiều so với lúc nó còn mới. Cả bàn tay cậu sưng phồng lên. Lyra cũng nằm xuống, Pantalaimon cuộn tròn lại bên cổ cô, ngắm nhìn ngọn lửa qua mí mắt nhắm hờ và ngái ngủ lắng nghe tiếng rì rầm của các phù thủy.
Ruta Skadi đi ngược lên phía thượng nguồn một đoạn, Serafina Pekkala đi cùng với cô.
“À, Serafina Pekkala, cô nên gặp Ngài Asriel,” nữ hoàng Latvia lặng lẽ nói. “Ông ấy là vị chỉ huy lỗi lạc nhất từng xuất hiện. Mọi chi tiết về các lực lượng của mình ông ấy đều nắm rất rõ. Gây chiến với đấng sáng tạo, thử tưởng tượng xem việc đó mới táo bạo làm sao! Nhưng cô nghĩ cái tên Sát Thánh này có thể là ai? Tại sao chúng ta chưa từng nghe nói tới ông ta nhỉ? Làm thế nào chúng ta có thể thuyết phục ông ta gia nhập quân đội của Ngài Asriel đây?”
“Có lẽ đó cũng chẳng phải là một ông ta, người chị em ạ. Chúng ta chẳng biết gì nhiều hơn con quỷ nhỏ đó. Có lẽ gã quỷ già cỗi kia đang cười cợt sự ngu dốt của nó. Từ đó nghe có vẻ như có nghĩa là kẻ hủy diệt Chúa vậy. Cô có biết điều đó không?”
“Nếu vậy nó cũng có thể ám chỉ chính chúng ta, Serafina Pekkala ạ! Và nếu là như vậy thì lực lượng của ông ấy sẽ hùng mạnh lên đến nhường nào nếu có chúng ta gia nhập. Ôi, tôi khao khát được dùng những mũi tên của mình để giết lũ tàn ác kia ở Bolvangar, ở tất cả mọi Bolvangar trên mọi thế giới! Người chị em, tại sao họ lại làm thế? Ở mọi thế giới, bè lũ của Đấng Quyền Năng đang hiến tế trẻ con cho vị thần tàn bạo của họ! Tại sao? Tại sao chứ?”
“Họ e sợ Bụi,” Serafina Pekkala đáp, “mặc dù nó là cái gì thì tôi không biết.”
“Còn thằng bé mà các vị tìm thấy. Nó là ai vậy? Nó đến từ thế giới nào?”
Serafina Pekkala kể với cô toàn bộ những gì mình biết về Will. “Tôi không biết tại sao cậu bé lại quan trọng,” cô kết luận, “nhưng chúng tôi phục vụ Lyra. Mà chiếc máy của cô bé lại nói rằng đó là nhiệm vụ của Lyra. Người chị em ạ, chúng tôi đã cố gắng trị thương cho cậu bé nhưng thất bại. Chúng tôi thử câu thần chú cầm máu nhưng cũng không tác dụng. Có lẽ thảo dược ở thế giới này không hiệu nghiệm bằng ở chỗ chúng ta. Ở đây quá nóng để rêu cầm máu có thể sinh trưởng…”
“Thằng nhóc lạ lắm,” Ruta Skadi nhận xét. “Cậu ta là kiểu người giống như Ngài Asriel vậy. Cô đã nhìn vào mắt cậu ta chưa?”
“Nói thật,” Serafina Pekkala đáp, “tôi vẫn chưa dám.”
Hai nữ hoàng lặng lẽ ngồi bên dòng suối. Thời gian trôi qua; những ngôi sao lặn xuống và những ngôi sao khác lại mọc lên; có tiếng hét khe khẽ từ những người đang ngủ, nhưng đó chỉ là tiếng nói mơ của Lyra. Các phù thủy nghe thấy tiếng ầm ầm của một cơn bão, rồi họ thấy chớp nhảy nhót trên mặt biển và những ngọn đồi thấp dưới chân núi, nhưng nó ở cách đó rất xa.
Một lúc sau Ruta Skadi nói: “Đứa con gái, Lyra ấy. Cô bé đóng vai trò gì? Là việc này à? Nó quan trọng vì có thể đưa cậu bé đến với bố mình? Không chỉ có thế đúng không?”
“Đó là việc cô bé phải làm hiện giờ. Nhưng còn về sau này thì đúng, sẽ hơn thế rất nhiều. Điều mà các phù thủy chúng ta vẫn nói về đứa bé đó là nó sẽ đặt dấu chấm hết cho số mệnh. Chúng tôi biết cái tên sẽ khiến cô bé trở nên có ý nghĩa với Phu nhân Coulter, và chúng tôi biết rằng người phụ nữ đó không biết điều này. Phù thủy mà bà ta đã tra tấn trên con tàu gần Svalbard suýt nữa đã khai ra, nhưng Yambe-Akka đã tới đón cô ấy kịp thời.
“Nhưng giờ thì tôi lại nghĩ rằng Lyra có thể là kẻ mà cô đã nghe thấy đám lâu nhâu kia nhắc tới, cái tên Sát Thánh đó. Không phải phù thủy cũng chẳng phải những thực thể thiên thần kia, mà chính là đứa bé đang say ngủ đó: vũ khí quyết định trong cuộc chiến chống lại Đấng Quyền Năng. Còn có lí do gì khác khiến Phu nhân Coulter phải lo lắng để tìm được cô bé đến thế chứ?”
“Phu nhân Coulter từng là người tình của Ngài Asriel,” Ruta Skadi nói. “Hẳn rồi, còn Lyra là con của họ… Serafina Pekkala, nếu mà là tôi sinh ra đứa trẻ này thì nó sẽ trở thành một phù thủy hùng mạnh đến nhường nào! Một nữ hoàng của các nữ hoàng!”
“Suỵt, người chị em,” Serafina nói. “Nghe kìa… mà ánh sáng đó là cái gì vậy?”
Họ đứng dậy, hoảng hốt vì có thứ gì đó đã lọt qua sự cảnh giác của họ, và thấy một tia sáng lập lòe phát ra từ nơi đóng trại: nhưng không phải là ánh lửa, không giống ánh lửa một chút nào.
Họ chạy về mà không phát ra tiếng động nào, tên đặt sẵn trên dây cung, rồi dừng khựng lại.
Toàn bộ các phù thủy đều đang ngủ rạp trên cỏ, Will và Lyra cũng vậy. Nhưng bao quanh hai đứa trẻ là khoảng một chục hoặc hơn các thiên thần, đang nhìn xuống chúng.
Và rồi Serafina hiểu ra một thứ mà các phù thủy không có từ để miêu tả nó: đó là ý niệm về hành hương. Cô hiểu vì sao những sinh vật này lại chờ đợi hàng nghìn năm rồi vượt qua những khoảng cách bất tận để được đến gần một điều quan trọng, và việc họ sẽ cảm thấy khác biệt thế nào trong suốt phần đời còn lại sau khi đã được ở bên nó trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Đó chính là dáng vẻ của những sinh vật này bây giờ, những kẻ hành hương lộng lẫy tạo từ ánh sáng mỏng, đứng vây quanh đứa con gái có gương mặt bẩn thỉu và bộ váy len kẻ ô vuông cùng với thằng bé bị thương ở tay đang chau mày trong giấc ngủ.
Có thứ gì đó chuyển động ở cổ của Lyra. Pantalaimon, trong dạng chồn ermine trắng muốt, ngái ngủ hé đôi mắt màu đen ra nhìn quanh mà không hề sợ hãi. Về sau, Lyra sẽ nhớ đến việc này như một giấc mơ. Pantalaimon dường như chấp nhận sự chú ý như thể Lyra xứng đáng được như vậy, và chẳng mấy chốc nó đã cuộn tròn người rồi nhắm mắt lại.
Cuối cùng một trong các sinh vật này dang rộng đôi cánh. Những tên khác, dù đứng rất sát nhau, cũng làm vậy, và cánh của chúng đan xuyên vào nhau mà không hề bị cản trở, lướt qua nhau như ánh sáng qua ánh sáng, cho tới khi một vòng tròn ánh hào quanh rực rỡ hiện lên quanh những người đang ngủ trên nền cỏ.
Rồi những kẻ đứng nhìn cất cánh lên không trung, tên này nối tiếp tên kia, bay lên như những đốm lửa vào trong bầu trời, càng lên cao càng phình ra cho tới khi trở nên khổng lồ; nhưng họ đã ở rất xa, lao đi như những ngôi sao băng về phía bắc.
Serafina và Ruta Skadi nhảy lên cành thông của mình rồi bay lên theo các thiên thần, nhưng họ đã bị bỏ xa lại phía sau.
“Họ có giống những sinh vật mà cô đã thấy không, Ruta Skadi?” Serafina hỏi khi họ bay chậm lại giữa không trung trong lúc nhìn theo những đốm lửa sáng chói nhỏ dần về phía chân trời.
“Lớn hơn, tôi nghĩ vậy, nhưng là cùng một loại. Họ không có da thịt, cô có thấy không? Cơ thể của họ hoàn toàn là ánh sáng. Các giác quan của họ hẳn là phải rất khác biệt với chúng ta… Serafina Pekkala, giờ thì tôi phải từ biệt các vị rồi, tôi phải triệu tập toàn bộ phù thủy ở vùng phương bắc của chúng ta. Đến khi ta gặp lại nhau, đó sẽ là lúc chiến tranh. Đi mạnh giỏi nhé, người bạn yêu mến…”
Họ ôm nhau ngay giữa không trung, rồi Ruta Skadi quay đầu và bay về hướng nam.
Serafina dõi theo cô rồi quay lại nhìn những thiên thần cuối cùng đang lấp lánh, biến mất dần về phía xa. Cô không cảm thấy gì ngoài lòng trắc ẩn đối với những người quan sát vĩ đại đó. Họ đã bỏ qua biết bao nhiêu điều khi chẳng bao giờ có thể cảm nhận mặt đất dưới chân, ngọn gió vờn trên mái tóc, hay ánh sao râm ran trên làn da trần! Cô bẻ một nhánh nhỏ khỏi cành thông dùng để bay rồi khoan khoái hít hà mùi nhựa hắc sộc lên, sau đó chậm rãi bay xuống để nhập hội với những người đang ngủ trên bãi cỏ.