← Quay lại trang sách

- 7 - Mary, đơn độc

Bông hồng

Cuối cùng như đang nhảy múa, hàng cây oai vệ vươn

Những cành dài trĩu trịt trái thơm

John Milton

Gần như cùng một lúc, chính kẻ cám dỗ mà Cha Gomez đã lên đường lần theo lại đang bị cám dỗ.

“Cảm ơn, không, không, tôi chỉ cần vậy thôi, không hơn, thật đấy, cảm ơn các vị,” Tiến sĩ Mary Malone nói với cặp đôi lớn tuổi trong khu rừng olive khi họ cố nhét cho bà nhiều đồ ăn hơn số lượng bà có thể mang theo.

Họ sống ở đây, biệt lập và không có con cái, họ đã rất sợ hãi đám Quỷ hút hồn mình nhìn thấy giữa đám cây màu xám bạc; nhưng khi Mary Malone tiến vào con đường cùng với chiếc balô của mình, lũ Quỷ đã sợ hãi mà trôi biến đi mất. Cặp đôi già đã chào đón Mary vào căn nhà trang trại nhỏ phủ kín cây nho leo của mình, liên tiếp thiết đãi bà bằng rượu, pho mát, bánh mì và olive, còn giờ thì lại không muốn để cho bà đi.

“Tôi phải đi tiếp,” Mary nhắc lại, “cảm ơn, các vị thật tốt bụng - tôi không mang nổi đâu - ồ, được rồi, một miếng pho mát nhỏ nữa thôi - cảm ơn…”

Rõ ràng là họ coi bà như tấm bùa hộ mệnh chống lại Quỷ hút hồn vậy. Bà ước gì mình thật sự như thế. Trong tuần lễ ở thế giới của Cittàgazze, bà đã chứng kiến đủ cảnh hoang tàn, đủ những người lớn bị Quỷ hút hồn ăn và những đứa trẻ điên cuồng bới tìm thực phẩm, để thấy kinh hãi những con ma cà rồng nhẹ như không khí này. Tất cả những gì bà biết là chúng trôi giạt đi khi bà tới gần; nhưng bà không thể ở lại với tất cả mọi người theo mong muốn của họ được, vì bà cần phải đi tiếp.

Bà tìm chỗ cho miếng pho mát sữa dê nhỏ cuối cùng được bọc trong lá nho, mỉm cười và lại cúi chào, rồi uống lấy ngụm cuối cùng từ con suối đang sủi bọt giữa những tảng đá xám màu. Sau đó bà bắt chước hai cụ già, khẽ đập hai bàn tay lại với nhau, và quả quyết quay người bước đi.

Bề ngoài trông bà quyết tâm hơn là trong lòng cảm thấy. Lần giao tiếp cuối cùng với những thực thể mà bà gọi là hạt Bóng còn Lyra gọi với cái tên Bụi là trên màn hình máy vi tính của bà, sau đó bà đã nghe theo lời chỉ dẫn của chúng mà phá hủy nó đi. Giờ thì bà đang bối rối không biết phải làm gì. Chúng đã bảo bà đi qua lối thông tại Oxford mà bà sống, Oxford thuộc thế giới của Will, bà làm theo và thấy mình choáng váng, run rẩy vì kinh ngạc trong cái thế giới khác kì lạ này. Trên hết, nhiệm vụ duy nhất của bà là tìm đứa con trai và đứa con gái, rồi đóng vai con rắn, dù điều đó có nghĩa gì đi nữa.

Vậy là bà dấn bước, thăm dò và kiểm tra, chẳng tìm thấy gì. Nhưng giờ, bà nghĩ, khi rẽ vào lối đi nhỏ dẫn ra khỏi vườn olive, bà sẽ phải đi tìm sự chỉ dẫn.

Khi đã đi đủ xa khỏi khu trang trại nhỏ để chắc chắn rằng mình sẽ không bị làm phiền, bà ngồi xuống dưới bóng những cây thông rồi mở balô ra. Phía dưới đáy, bọc trong khăn lụa, là cuốn sách bà đã giữ trong suốt hai mươi năm: Đó là một cuốn chú giải về thuật bói toán của người Trung Quốc - Kinh Dịch.

Bà mang nó theo mình vì hai lí do. Một là do tình cảm: Ông của bà đã cho bà cuốn sách, và bà đã sử dụng nó nhiều lần thời còn là học sinh. Lí do còn lại là khi Lyra lần đầu tiên tìm tới phòng thí nghiệm của Mary, cô bé đã hỏi: “Đó là cái gì vậy?” rồi chỉ vào tấm áp phích trên cánh cửa in biểu tượng của Kinh Dịch; không lâu sau đó, khi giải mã được chiếc máy vi tính một cách ngoạn mục, Lyra đã hiểu được (cô bé tự nhận) rằng Bụi có nhiều cách khác để nói chuyện với con người, mà một trong số đó là cách dùng các biểu tượng này của người Trung Quốc.

Vì vậy trong lúc mau chóng sắp đồ để rời khỏi thế giới của mình, Mary Malone đã mang theo mình cuốn Sách của Thay đổi, như tên nó được gọi, cùng với những thân cỏ thi nhỏ mà bà dùng để đọc. Giờ đã tới lúc sử dụng chúng.

Bà trải tấm lụa lên nền đất rồi bắt đầu quá trình chia và đếm, chia và đếm rồi đặt sang một bên, việc mà bà thường xuyên làm khi còn là một thiếu nữ ham học hỏi và đầy nhiệt huyết, nhưng kể từ đó trở đi thì gần như chẳng bao giờ. Bà suýt nữa đã quên cách làm, nhưng chẳng mấy chốc đã tìm lại được nghi thức, cùng với nó là cảm giác về sự chú ý đầy tập trung và điềm tĩnh đóng vai trò cực kì quan trọng trong việc giao tiếp với Bóng.

Cuối cùng bà có được những con số ám chỉ hình lục giác mà bà đã nhận được, một nhóm sáu đường đứt quãng hoặc không, rồi tra tìm ý nghĩa. Đây là phần khó khăn, vì cuốn sách viết theo một phong cách rất bí ẩn.

Bà đọc:

Quay về phía đỉnh

Để dự trữ lương thực

Mang tới vận may.

Thăm dò xung quanh bằng đôi mắt tinh tường

Như con hổ với lòng tham vô độ.

Nghe có vẻ đầy khuyến khích. Bà đọc tiếp, bám theo lời chú giải qua những mê lộ nó đang dẫn bà đi, cho tới khi đến: Giữ yên là ngọn núi; đó là một lối đi hẻo lánh; có nghĩa là những viên đá nhỏ, những cánh cửa và lối thông.

Bà phải đoán. Việc nhắc đến những “lối thông” gợi nhớ tới ô cửa sổ kì bí trong không trung mà bà đã dùng để vào thế giới này; còn những từ đầu tiên dường như bảo bà nên đi lên cao.

Vừa bối rối vừa được khích lệ, bà cất cuốn sách và những cành cỏ thi rồi tiến bước đi lên.

Bốn tiếng sau, bà cảm thấy người nóng rực và mệt mỏi. Mặt trời đã xuống thấp trên đường chân trời. Lối đi gập ghềnh mà bà bám theo đang mất dần, càng ngày bà càng phải leo trong khó nhọc giữa đám đá tảng và đá cuội lổn nhổn. Phía bên trái, con dốc đổ nhào xuống quang cảnh của vườn olive và chanh, của những ruộng nho chẳng được chăm sóc và các cối xay gió bỏ hoang, mờ ảo hiện lên trong ánh chiều tà. Phía bên phải, một sườn núi rải rác đá nhỏ và sỏi nghiêng lên một vách núi đá vôi vỡ vụn.

Bà uể oải kéo balô lên rồi đặt chân xuống phiến đá phẳng tiếp theo - nhưng trước cả khi chuyển trọng lực lên đó, bà dừng khựng lại. Ánh sáng đang bắt được một thứ gì đó rất lạ lùng, bà lấy tay che mắt khỏi luồng sáng chói lòa phản chiếu từ sườn núi và cố gắng tìm lại nó.

Kia rồi: Giống như một tấm kính treo lơ lửng trong không khí, nhưng lại là loại kính không có hình ảnh phản chiếu bắt mắt nào trong đó: chỉ là một mảng vuông khác biệt. Nó khiến bà nhớ lại những gì Kinh Dịch đã nói: một lối đi hẻo lánh, những viên đá nhỏ, những cánh cửa và lối thông.

Đó là một ô cửa sổ giống như cái ở Đại lộ Sunderland. Bà chỉ thấy được nó nhờ ánh sáng: Nếu mặt trời lên cao hơn chút nữa, có lẽ ô cửa sẽ không lộ diện.

Bà tiến lại gần mảng không khí nhỏ với sự hiếu kì rực cháy, vì bà đã không có thời gian quan sát cái đầu tiên do phải cao chạy xa bay càng nhanh càng tốt. Nhưng giờ thì bà có thể kiểm tra kĩ càng cái này, chạm vào viền, đi vòng quanh để thấy nó trở nên vô hình từ phía bên kia như thế nào, ghi nhớ sự khác biệt hoàn toàn giữa cái này và cái đó, và thấy tâm trí mình gần như bùng nổ vì bị kích thích bởi khả năng xảy ra những việc như thế này.

Người nắm giữ con dao tạo ra ô cửa này, vào khoảng thời kì của Cách mạng Hoa Kỳ, đã quá bất cẩn khi không đóng nó lại, nhưng ít nhất thì ông ta cũng đã cắt qua một điểm rất tương đồng với thế giới ở phía bên này: Bên cạnh một bề mặt đá. Nhưng đá ở phía bên kia không giống ở đây, không phải là đá vôi mà là granite, và khi bước vào thế giới mới này, Mary thấy mình không phải ở dưới chân một vách núi sừng sững mà gần như đang trên đỉnh một gò đất thấp nhìn xuống một vùng đồng bằng rộng lớn.

Ở đây cũng đang là chiều tối, bà ngồi xuống hít thở không khí, cho đôi chân nghỉ ngơi và tận hưởng kì quan đó mà không phải vội vàng.

Ánh nắng vàng ruộm trải rộng khắp, một vùng đồng cỏ hay trảng thảo nguyên chạy dài đến vô tận, không giống bất cứ thứ gì mà bà đã thấy tại thế giới của mình. Thứ nhất, mặc dù phần lớn vùng đất được bao phủ bởi cỏ thấp mang vô vàn sắc độ từ vàng sẫm, nâu, xanh lá, đất son, vàng, vàng mật, rập rờn rất nhẹ theo cái cách mà ánh nắng chiều trải dài làm bật lên rất rõ, đồng cỏ dường như lại được xâu chuỗi bằng thứ gì đó giống như những dòng sông đá có bề mặt xám sáng.

Thứ hai, đây đó trên vùng đồng bằng là các khóm cây cao nhất mà Mary từng nhìn thấy. Một lần khi tham dự hội thảo vật lí năng lượng cao tại California, bà đã dành thời gian nhìn ngắm những cây tùng bách gỗ đỏ khổng lồ và cảm thấy choáng ngợp: Nhưng dù có là giống gì thì những cái cây này hẳn sẽ vượt đám tùng bách ít nhất một nửa chiều cao. Chúng có tán lá dày đặc mang màu xanh thẫm, những thân cây đồ sộ hắt ánh đỏ vàng ươm trong nắng chiều rực rỡ.

Và cuối cùng, những bầy động vật, quá xa để có thể nhìn rõ, đang nhẩn nha gặm cỏ trên thảo nguyên. Cử động của chúng có thứ gì đó rất kì lạ mà bà không thể hiểu nổi.

Bà đang thực sự kiệt sức, lại khát và đói. Tuy vậy, đâu đó quanh đây, bà nghe thấy tiếng róc rách đầy mời gọi của một dòng suối, và ngay phút sau bà đã tìm ra nó: chỉ là dòng nước trong rỉ ra từ một khe nứt bám đầy rêu, và một dòng suối nhỏ chảy xuống con dốc. Bà làm một hơi thật dài đầy khoan khoái, rồi đổ đầy các chai mang theo. Sau đó bà bắt đầu tìm chỗ nghỉ ngơi thoải mái, vì màn đêm đang vội vàng ập xuống.

Tựa vào vách đá, quấn mình trong túi ngủ, bà ăn một ít bánh mì khô và pho mát dê, rồi chìm sâu vào giấc nồng.

Mary tỉnh dậy với nắng sớm chiếu rọi cả khuôn mặt. Không khí tươi mát, sương sớm đọng thành những hạt bé li ti trên mái tóc và túi ngủ của bà. Bà nằm thêm vài phút, chìm ngập trong sự tươi mới, cảm giác như mình là con người đầu tiên từng tồn tại.

Bà ngồi dậy, ngáp, vươn người, rùng mình, rồi tắm rửa trong làn nước suối lạnh toát trước khi ăn vài quả sung sấy khô rồi đánh giá xung quanh.

Đằng sau gò đất của bà, mặt đất dốc thoải dần xuống rồi lại dâng lên; khung cảnh bốn bề hiện lên trước mắt, trải khắp vùng đồng cỏ bát ngát. Những cái bóng đổ dài của cây cối giờ đang ngả về phía bà, bà có thể thấy từng đàn chim đang lượn vòng phía trước, quá nhỏ trên vòm cây xanh sừng sững đến mức trông chúng chỉ như những hạt bụi li ti.

Bà lại chất đồ vào balô rồi tiến bước xuống thảo nguyên đầy ngập cỏ thô, hướng tới khóm cây gần nhất cách đó khoảng bốn hay năm dặm.

Cỏ mọc ngập tới đầu gối, len lỏi giữa chúng là những bụi cây thấp, không cao quá mắt cá chân của bà, thuộc giống gì đó như cây bách xù; ngoài ra còn có các loại hoa như hoa anh túc, hoa mao lương, hoa thanh cúc, khiến cho quang cảnh mang những sắc độ nhẹ nhàng mờ ảo; rồi bà nhìn thấy một con ong cỡ lớn, phải to bằng đốt trên cùng của ngón tay cái, đang ghé thăm một đầu hoa màu xanh, khiến nó oằn xuống và đung đưa. Nhưng khi con ong lùi ra khỏi những cánh hoa và trở lại không trung, bà thấy rằng nó hoàn toàn không phải là côn trùng, vì một lúc sau nó bay tới tay bà rồi đậu xuống một ngón tay, thọc cái mỏ dài như cây kim vào da bà với vẻ duyên dáng không gì sánh bằng, rồi sau đó lại cất cánh bay đi khi không tìm thấy chút mật nào. Đó là một con chim ruồi nhỏ xíu, đôi cánh màu đồng của nó vẫy nhanh quá mức để có thể thấy được.

Mọi nhà sinh vật học trên trái đất này sẽ phải ghen tị với bà đến mức nào nếu họ thấy được điều mà bà đang chứng kiến!

Bà tiếp tục lên đường và thấy mình đang tiến lại gần một đàn sinh vật gặm cỏ đã nhìn thấy tối hôm trước, những con vật có cử động khiến bà kinh ngạc mà chẳng hiểu vì sao. Chúng có kích cỡ khoảng bằng loài hươu hoặc linh dương, với màu sắc tương tự, nhưng điều khiến bà dừng khựng lại mà dụi mắt là cách sắp xếp chân của chúng. Những cái chân mọc theo kết cấu kim cương: hai ở trung tâm, một ở phía trước, và một ở dưới đuôi, khiến những con vật này di chuyển theo một cử động lắc lư kì quặc. Mary thèm muốn được kiểm tra bộ xương và xem cấu trúc của chúng hoạt động thế nào.

Về phần mình, những sinh vật gặm cỏ này nhìn bà với cặp mắt hờ hững và ôn hòa, không hề tỏ ra hoảng sợ. Bà hẳn sẽ rất thích thú được lại gần và từ tốn quan sát chúng, nhưng nhiệt độ ngày càng nóng lên, khiến cho bóng râm của những thân cây khổng lồ trông thật mời gọi; mà đằng nào thì cũng còn cả đống thời gian.

Chẳng bao lâu sau bà đã thấy mình bước chân ra khỏi thảm cỏ, lên một trong những con sông đá mà bà đã nhìn thấy từ trên ngọn đồi: Lại một thứ khác để lấy làm ngạc nhiên.

Có thể nó đã có thời là một kiểu dòng chảy dung nham gì đó. Lớp màu bên dưới thẫm lại gần như đen, nhưng bề mặt thì nhạt hơn, như thể đã bị ép nghiền hoặc bào mòn vậy. Nó mịn chẳng kém gì một con đường được xây cẩn thận tại thế giới của Mary, rõ ràng là dễ đi hơn trên cỏ.

Bà đi theo con sông, nó chảy theo một vòng cung rộng về phía đám cây. Càng lại gần, kích cỡ đồ sộ của những thân cây càng khiến bà sửng sốt, bà nhẩm tính rằng chúng phải to bằng căn nhà bà đã sống, và cao - cao như… Bà thậm chí chẳng thể đoán nổi nữa.

Khi tới được thân cây đầu tiên, bà đặt cả hai tay lên lớp vỏ hằn sâu màu đỏ vàng. Những lớp gân lá màu nâu dài bằng cả bàn chân bà phủ đầy mặt đất cao đến mắt cá, mềm mại và thơm nức khi đặt chân lên. Không lâu sau bà đã bị một đám mây những vật thể bay giống ruồi nhuế bao vây, cùng đó là một đàn chim ruồi nhỏ xíu, một con bướm vàng với sải cánh rộng bằng bàn tay, và quá nhiều thứ bò lổm ngổm đến phát khiếp. Không khí tràn ngập những tiếng vo ve, ù ù và lạo xạo.

Bà bước đi dưới thềm của lùm cây, cảm giác thật giống với đi trong một nhà thờ lớn: cũng vẫn là sự tĩnh lặng đó, vẫn là cảm giác kết cấu kiến trúc hướng lên cao, và cảm xúc thán phục của chính bà.

Chuyến tản bộ ở đó tốn nhiều thời gian hơn bà nghĩ. Ngày đang chuyển về giữa trưa, vì những tia sáng chiếu qua vòm cây đã gần như thẳng đứng. Đờ đẫn vì ngái ngủ, Mary ngạc nhiên tự hỏi tại sao lũ động vật gặm cỏ kia không trú xuống dưới bóng cây vào lúc nóng nực nhất trong ngày này.

Nhưng không bao lâu sau bà đã hiểu ra.

Cảm thấy quá nóng để có thể đi xa hơn, bà nằm xuống nghỉ giữa đám rễ của một trong những thân cây khổng lồ, đầu tựa lên balô, và chìm vào giấc ngủ miên man.

Bà vừa chợp mắt được tầm hai mươi phút, còn chưa thực sự ngủ, thì đột nhiên ở ngay sát đó nổ ra một tiếng động vang dội làm rung chuyển mặt đất.

Rồi lại một tiếng nữa. Hoảng hốt, Mary ngồi bật dậy rồi cố gắng định thần. Bà thấy cách đó tầm một mét một chuyển động biến thành một vật thể hình tròn, lăn trên mặt đất, ngừng lại rồi đổ vật ra.

Rồi ở cách đó xa hơn, một vật khác rơi xuống; bà thấy cái thứ vĩ đại đó lao xuống, nhìn nó đâm sầm vào nhánh rễ to như cột đình của thân cây gần nhất rồi lăn đi mất.

Ý nghĩ một trong những thứ đó sẽ rơi vào người mình đủ khiến bà vớ lấy cái balô và chạy hoàn toàn ra khỏi lùm cây. Cái thứ gì vậy? Vỏ hạt à?

Vừa cẩn thận quan sát phía trên, bà vừa liều mình trở lại dưới vòm cây để xem xét vật thể bị rơi gần nhất. Bà dựng nó dậy rồi lăn nó ra khỏi lùm cây, sau đó đặt nằm nó lên thảm cỏ để kiểm tra kĩ lưỡng hơn.

Vật thể này tròn một cách hoàn hảo, dày bằng chiều rộng bàn tay của bà. Ở trung tâm có một chỗ hõm, nơi nó hẳn là đã gắn với thân cây. Nó không nặng nhưng cực kì cứng, được phủ lông tơ dọc theo chu vi, bà có thể dễ dàng miết tay quanh nó theo một hướng nhưng lại không thể theo hướng còn lại. Bà thử ấn dao lên bề mặt, nhưng chẳng có lấy một vết xước nào hiện ra.

Những ngón tay bà dường như mịn màng hơn. Bà ngửi thấy một mùi hương rất nhẹ ở đó, ẩn dưới mùi của bụi đất. Bà lại nhìn cái vỏ hạt. Ở chính giữa có một thứ gì đó ánh lên lấp lánh, khi chạm vào bà cảm thấy nó trượt đi dễ dàng dưới những ngón tay của mình. Cái vỏ hạt đang rỉ ra một loại dầu nào đó.

Mary đặt vật đó xuống rồi nghĩ về cái cách mà thế giới này tiến hóa.

Nếu phỏng đoán của bà về các vũ trụ này là đúng, và chúng là hiện tượng đa thế giới mà lí thuyết lượng tử đã dự đoán, thì một vài trong số chúng sẽ tách rời khỏi thế giới của bà sớm hơn nhiều so với các thế giới khác. Và rõ ràng là ở thế giới này, tiến hóa đã ưu đãi những loài cây khổng lồ và sinh vật cỡ lớn với khung xương dạng kim cương.

Bà đang bắt đầu thấy chân trời khoa học của mình hạn hẹp đến thế nào. Không thực vật học, không địa lí học, không sinh vật học theo bất cứ dạng nào - thật là ngu dốt chẳng khác nào một đứa trẻ sơ sinh.

Đúng lúc đó bà nghe thấy một tiếng ầm ầm rền như sấm, rất khó để định vị cho đến khi bà thấy một đám mây bụi chạy dọc theo một trong các con đường - về phía rừng cây, về phía bà. Nó đang ở cách đó một dặm, nhưng di chuyển không hề chậm chạp chút nào, đột nhiên bà cảm thấy sợ hãi.

Bà chạy vội trở lại lùm cây. Khi thấy một khoảng trống hẹp giữa hai nhánh rễ đồ sộ, bà ép mình vào đó, nhòm qua cái cột đình lừng lững bên cạnh mình về phía đám mây bụi đang kéo tới.

Điều đang chứng kiến khiến đầu óc bà quay cuồng. Ban đầu trông nó như một băng đua xe máy. Rồi bà lại nghĩ đó là một đàn động vật gắn bánh xe. Nhưng việc đó không thể xảy ra được. Chẳng có động vật nào lại gắn bánh xe hết. Bà chưa từng thấy điều đó. Nhưng bà lại đang nhìn thấy đây.

Chúng có số lượng khoảng một tá, kích cỡ gần tương đương với những sinh vật gặm cỏ, nhưng gầy hơn và có màu xám, đầu mọc sừng, vòi ngắn như vòi voi. Chúng cũng có kết cấu dạng kim cương như lũ ăn cỏ, nhưng bằng cách nào đó chúng đã tiến hóa, trên hai chân đơn phía trước và sau, một bánh xe.

Nhưng trong tự nhiên thì làm gì có bánh xe, trí não của bà vẫn khăng khăng; không thể nào; cần một trục có đệm tách rời hoàn toàn bởi bộ phận quay, chuyện này không thể xảy ra, vô lí…

Rồi, khi chúng dừng lại ở cách đó chưa đầy năm mươi mét, bụi cũng đã lắng xuống. Bà đột nhiên xâu chuỗi được mọi thứ, và điều đó khiến bà không thể ngăn nổi mình cười phá lên và khẽ ho vì vui sướng.

Những cái bánh xe chính là vỏ hạt. Tròn vành vạnh, cực kì cứng, lại nhẹ - chúng chẳng thể được thiết kế tốt hơn. Những sinh vật này móc một cái móng của chân trước và chân sau vào chính giữa cái vỏ, rồi dùng hai chân bên hông đạp xuống mặt đất để đẩy đi. Trong lúc đang kinh ngạc trước điều này, bà cũng cảm thấy đôi phần lo lắng, vì sừng của chúng trông có vẻ sắc kinh khủng. Thậm chí ở khoảng cách này bà cũng có thể thấy trí thông minh và sự hiếu kì trong ánh nhìn của chúng.

Chúng đang tìm kiếm bà.

Một trong số chúng đã phát hiện thấy cái vỏ hạt mà bà đem ra khỏi lùm cây, nó liền lăn bánh ra khỏi đường về phía cái vỏ. Khi tới nơi, con vật dùng vòi tựa vào viền và nâng cái vỏ lên rồi lăn về phía đám bạn đồng hành của mình.

Chúng túm tụm lại quanh cái vỏ rồi nhẹ nhàng chạm vào nó bằng những cái vòi khỏe mạnh, dẻo dai. Bà thấy mình đang dịch những âm thanh líu rít, lách cách và huýt sáo mà chúng đang tạo ra thành biểu hiện của sự không tán thành. Có kẻ nào đó đã làm xáo trộn nơi này: Không thể chấp nhận được.

Rồi bà nghĩ: Mình tới đây là có mục đích, dù hiện giờ vẫn chưa hiểu rõ về nó. Dũng cảm lên nào. Chủ động đi.

Nghĩ vậy bà liền đứng dậy gọi, đầy lúng túng:

“Ở đằng này. Tôi đang ở đây này. Tôi đã kiểm tra vỏ hạt của các bạn. Tôi xin lỗi. Đừng làm hại tôi.”

Ngay lập tức, những cái đầu quay ngoắt lại nhìn bà, vòi giơ ra, những đôi mắt lấp lánh hướng về phía trước. Tai của bọn chúng đều đã dựng cả lên.

Bà bước ra khỏi chỗ trốn giữa đám rễ rồi đối mặt trực tiếp với chúng. Bà giơ tay ra, nhận thấy rằng một cử chỉ như vậy có thể sẽ là vô nghĩa với những sinh vật không có tay. Tuy nhiên, đó là tất cả những gì bà có thể làm. Sau khi nhặt balô lên, bà đi qua bãi cỏ rồi bước lên con đường.

Khi ở gần - cách chưa đầy năm bước - bà có thể thấy rõ hơn nhiều về vẻ ngoài của những con vật, nhưng sự chú ý của bà lại dồn vào một thứ gì đó sống động và hiểu biết trong ánh nhìn của chúng, một loại trí thông minh. Những sinh vật này khác biệt với đám thú gặm cỏ gần đó giống như con người khác biệt với con bò vậy.

Mary chỉ vào bản thân rồi nói: “Mary.”

Con gần nhất vươn vòi tới trước. Bà tiến gần lại, để nó chạm vào ngực mình, nơi bà đã chỉ vào, rồi bà nghe thấy giọng mình vọng ngược lại từ cổ họng của con vật: “Merry.”

“Các bạn là gì vậy?” Bà hỏi, và con vật trả lời: “Capalazivay?”

Điều duy nhất bà có thể làm là đáp lại. “Tôi là con người,” bà nói.

“Tula konngoi,” con vật nói, rồi một điều còn kì quặc hơn xảy ra: Chúng đồng loạt cười ầm lên.

Mắt chúng nheo lại, vòi vung vẩy, đầu hất lên - từ họng chúng phát ra âm thanh không thể nhầm lẫn của sự vui vẻ. Bà không ngăn được mình mà cũng phá lên cười theo.

Rồi một con khác bước tới và dùng vòi chạm vào bàn tay bà. Mary đưa luôn bàn tay còn lại ra cho cái chạm dò dẫm, mềm mại, phủ lông cứng của con vật.

“À,” bà nói, “bạn ngửi thấy mùi dầu từ cái vỏ hạt…”

“Bohat,” con vật kêu lên.

“Nếu các bạn có thể phát ra những âm thanh trong tiếng nói của tôi, một ngày nào đó chúng ta có thể giao tiếp. Dù có chúa mới biết là bằng cách nào. Mary,” bà nói, lại chỉ vào bản thân.

Chẳng có gì xảy ra. Chúng vẫn đứng đó nhìn. Bà lặp lại: “Mary.”

Con gần nhất lấy vòi chạm vào ngực của chính mình rồi lên tiếng. Từ đó có ba âm tiết hay là hai vậy? Con vật lại nói, lần này thì Mary phải cố hết sức để bắt chước tiếng đó cho giống: “Mulefa,” bà ngập ngừng nói.

Những con khác lặp lại “Mulefa” bằng giọng của bà, cười đùa, thậm chí còn tỏ ra đang trêu chọc sinh vật vừa phát ngôn. “Mulefa!” Chúng lại kêu lên, như thể đó là một trò đùa hay ho lắm vậy.

“Chà, nếu có thể cười thì chắc là các bạn sẽ không ăn thịt tôi đâu nhỉ,” Mary nói. Từ thời khắc đó trở đi, giữa bà và chúng hình thành một sự thoải mái và thân thiện, bà không còn cảm thấy lo ngại nữa.

Bản thân đám động vật cũng thả lỏng hơn: Chúng có việc phải làm, chúng không phải đang lang thang không mục đích. Mary thấy rằng một trong số chúng có thắng yên hoặc buộc hàng trên lưng, hai con khác nâng cái vỏ hạt lên đó, buộc dây để cố định lại bằng những cử động khéo léo và phức tạp của vòi. Khi đứng yên, chúng giữ thăng bằng nhờ hai chân bên, còn khi di chuyển, chúng xoay cả chân trước và sau để lái. Cử động của chúng đầy duyên dáng và mạnh mẽ.

Một trong số chúng lăn bánh về phía lề đường rồi vươn vòi lên rống thật lớn. Đàn thú gặm cỏ lập tức ngẩng lên nhìn rồi bắt đầu phi nước kiệu về phía chúng. Khi tới nơi, lũ thú ăn cỏ kiên nhẫn đứng bên rìa, để cho những sinh vật gắn bánh từ từ đi qua, kiểm tra, sờ mó, đếm đạc.

Rồi Mary thấy một con vươn vòi xuống dưới một con thú gặm cỏ rồi vắt sữa của nó; sau đó con vật gắn bánh lăn về phía bà, khéo léo vươn vòi lên miệng của Mary.

Ban đầu bà tỏ ra lưỡng lự, nhưng khi thấy vẻ trông chờ trong mắt của con vật, bà lại tiến tới và hé môi ra. Con vật ép một chút sữa loãng ngọt lịm vào miệng bà, nhìn bà nuốt, rồi lại cho bà uống thêm, thêm nữa. Cử chỉ đó thông minh và dịu dàng đến mức Mary mạnh dạn vòng tay ôm lấy đầu con vật và hôn lên đó, ngửi thấy mùi lớp da bụi bặm nóng bừng, cảm nhận những khúc xương cứng nằm bên dưới và sức mạnh cơ bắp của cái vòi.

Ngay sau đó, con đầu đàn khẽ rống lên, đám thú gặm cỏ liền bỏ đi. Bầy mulefa cũng đang chuẩn bị khởi hành. Bà cảm thấy vui mừng vì chúng đã chào đón mình, nhưng lại thấy buồn vì chúng sắp đi. Thế nhưng những sinh vật này lại khiến bà ngạc nhiên.

Một trong số chúng đang hạ thấp người, quỳ xuống mặt đường, rồi dùng vòi ra hiệu cho bà, những con khác cũng ra dấu mời gọi… Không nghi ngờ gì nữa: Chúng đang đề nghị được chở bà, được đưa bà đi cùng.

Một con khác nhặt lấy balô của bà rồi buộc nó lên yên của con thứ ba. Mary lúng túng leo lên lưng của con đang quỳ, tự hỏi không biết nên đặt chân chỗ nào - ở phía trước con vật hay phía sau? Mà bà có thể tóm vào cái gì nhỉ?

Nhưng trước khi bà kịp hiểu ra, con vật đã đứng dậy, và cả đàn bắt đầu di chuyển dọc theo đường cao tốc, với Mary ở giữa chúng.

*

“bởi vì cậu ấy là Will.”