- 8 - Vodka
Ta là kẻ lạ mặt lạc vào xứ người.
Exodus
Balthamos cảm nhận được cái chết của Baruch ngay vào thời khắc nó xảy ra. Ông ta khóc rồi lao vút lên bầu không khí buổi đêm trên vùng lãnh nguyên, đập cánh phần phật và xả nỗi đau đớn thống khổ vào những đám mây; phải mất một lúc ông mới bình tâm lại để quay về với Will, người đã hoàn toàn tỉnh giấc, tay cầm sẵn dao, mắt nhòm vào bóng đêm ẩm ướt và lạnh lẽo. Họ đã trở lại thế giới của Lyra.
“Gì vậy?” Will hỏi khi vị thiên thần run rẩy hiện ra bên cạnh. “Có nguy hiểm à? Ra phía sau tôi…”
“Baruch chết rồi,” Balthamos gào lên, “Baruch yêu dấu của ta đã chết…”
“Khi nào? Ở đâu?”
Nhưng Balthamos không biết; ông chỉ biết được rằng một nửa con tim mình đã chết. Ông không thể đứng yên: Ông lại bay lên, sục sạo khắp bầu trời như để tìm kiếm Baruch trong đám mây này hay kia, kêu gọi, gào khóc, lại kêu gọi; rồi khi bị cảm giác tội lỗi khuất phục, ông bay xuống giục Will đi trốn và giữ yên lặng, hứa sẽ canh chừng cho cậu không ngừng nghỉ; nhưng rồi áp lực từ nỗi thương tiếc đè bẹp ông, ông nhớ lại mọi khoảnh khắc ân cần và dũng cảm mà Baruch thể hiện, có đến hàng nghìn lần như thế, mà ông thì chẳng hề quên một lần nào; ông hét lên rằng một tấm lòng từ bi đến vậy sẽ không bao giờ bị dập tắt, rồi ông lại phóng lên trời, lùng sục bốn phương tám hướng, liều lĩnh, hoang dại và đau đớn, nguyền rủa cả không khí, cả mây trời, cả trăng sao.
Cuối cùng Will nói: “Balthamos, lại đây.”
Thiên thần tới theo lệnh của cậu, cảm thấy bất lực. Trong sự u ám của cái lạnh cắt da cắt thịt trên vùng lãnh nguyên, cậu bé đang run lẩy bẩy dưới tấm áo choàng nói với ông: “Ông phải cố gắng giữ yên lặng đi. Ông biết rằng ngoài kia có những thứ sẽ tấn công nếu chúng nghe thấy tiếng động. Tôi có thể bảo vệ ông bằng con dao nếu ông ở gần, nhưng nếu chúng tấn công ông ở trên đó, tôi sẽ không thể giúp được. Mà nếu cả ông cũng chết thì tôi cũng toi mất. Balthamos, tôi cần ông dẫn đường tới chỗ Lyra. Làm ơn đừng quên điều đó. Baruch rất mạnh mẽ - ông cũng phải mạnh mẽ lên. Hãy giống như ông ấy vì tôi.”
Đầu tiên Balthamos không nói gì, nhưng sau đó ông lên tiếng: “Phải. Phải, đương nhiên là ta phải như vậy rồi. Giờ thì cậu đi ngủ đi, Will, ta sẽ đứng canh, ta sẽ không phụ lòng cậu đâu.”
Will tin tưởng thiên thần; cậu buộc phải vậy. Chẳng bao lâu sau cậu đã lại chìm vào giấc ngủ.
Khi cậu tỉnh dậy, ướt nhẹp vì sương đêm và lạnh tới tận xương tuỷ, thiên thần vẫn đang đứng cạnh đó. Vầng dương chỉ vừa mới ló, nhuộm lên ngọn những cây sậy và đám thực vật đầm lầy một màu vàng óng ả.
Trước khi Will kịp cử động, Balthamos đã lên tiếng: “Ta đã quyết định việc mình cần phải làm. Ta sẽ ở bên cậu suốt ngày suốt đêm, ta sẽ làm điều đó một cách vui vẻ và sẵn lòng, vì Baruch. Ta sẽ dẫn cậu tới chỗ Lyra, nếu có thể, rồi dẫn cả hai đến với Ngài Asriel. Ta đã sống nhiều ngàn năm, trừ khi bị giết nếu không ta sẽ còn sống thêm nhiều ngàn năm nữa; nhưng ta chưa từng gặp một ai lại khiến mình hăng hái muốn làm điều thiện, hay muốn trở nên tốt bụng, như Baruch đã làm. Ta đã thất bại rất nhiều, nhưng lần nào lòng hào hiệp của anh ấy cũng cứu vớt ta. Giờ điều đó không còn nữa, ta sẽ phải cố gắng tiếp tục mà không có nó. Có lẽ thỉnh thoảng sẽ thất bại, nhưng dù gì ta vẫn sẽ cố gắng.”
“Vậy thì Baruch sẽ tự hào về ông lắm,” Will run rẩy nói.
“Giờ ta sẽ bay tới trước để xem chúng ta đang ở đâu, được chứ?”
“Vâng,” Will đáp, “hãy bay cao lên, rồi cho tôi biết mặt đất phía xa trước mặt trông như thế nào. Cứ đi bộ ở cái vùng đất lầy này thì sẽ tốn cả đời mất.”
Balthamos lao lên không trung. Ông vẫn chưa nói với Will mọi điều khiến mình bất an, vì ông đang cố gắng hết sức và không làm cậu lo lắng; nhưng ông biết rằng thiên thần Metatron, viên Nhiếp chính, kẻ mà họ đã thoát khỏi trong gang tấc, hẳn đã hằn sầu gương mặt của Will trong tâm trí mình. Không chỉ riêng khuôn mặt, mà tất cả mọi thứ về cậu mà thiên thần có thể thấy, bao gồm những phần mà bản thân Will không ý thức được, ví dụ như khía cạnh bản tính mà Lyra gọi là linh thú của cậu. Lúc này Will đang gặp nguy hiểm cực kì lớn từ Metatron. Một lúc nào đó Balthamos sẽ phải nói cho cậu biết, nhưng chưa phải bây giờ. Việc này quá khó.
Suy nghĩ rằng đi bộ sẽ nhanh ấm người hơn là thu lượm chất đốt rồi đợi lửa bén, Will quẳng balô lên vai, quấn áo choàng quanh mọi thứ, rồi khởi hành về phía nam. Có một lối đi, bùn lầy, lồi lõm, đầy ổ gà ổ voi, có nghĩa là thỉnh thoảng cũng có người đi qua đường này; nhưng đường chân trời thẳng tắp ở mọi hướng đều còn quá xa, khiến cậu cảm thấy mình gần như chẳng tiến thêm được chút nào.
Một lúc sau, khi trời đã sáng hơn, giọng nói của Balthamos vang lên bên cạnh cậu.
“Còn khoảng nửa ngày đường phía trước nữa, có một dòng sông rộng và một thị trấn, nơi đấy có một bến tàu để neo thuyền bè. Ta đã bay lên đủ cao để thấy rằng con sông chạy dài thẳng hướng bắc nam. Nếu lên được một chuyến tàu, cậu có thể di chuyển nhanh hơn rất nhiều.”
“Được đấy,” Will nói vẻ sôi sục. “Vậy con đường này có dẫn đến thị trấn không?”
“Nó đi xuyên qua một ngôi làng, với một nhà thờ, các trang trại và vườn cây ăn quả, rồi dẫn tới thị trấn.”
“Không biết họ nói ngôn ngữ gì nhỉ. Hi vọng họ sẽ không nhốt tôi lại nếu tôi không nói được tiếng của họ.”
“Là linh thú của cậu,” Balthamos nói, “ta sẽ dịch cho cậu. Ta đã học đủ loại ngôn ngữ loài người; chắc chắn ta sẽ hiểu được thứ mà họ nói ở đất nước này.”
Will đi tiếp. Hành trình khó nhọc này mới nhàm chán và uể oải làm sao, nhưng ít nhất thì cậu cũng đang tiến lên, ít nhất thì mỗi bước cũng đều đưa cậu lại gần hơn với Lyra.
Ngôi làng là một nơi tồi tàn: một đống hổ lốn những tòa nhà bằng gỗ, với những bãi cỏ thả tuần lộc, và lũ chó sủa inh ỏi khi cậu đến gần. Khói luồn ra từ các ống khói bằng thiếc rồi lờ lững sà xuống những mái nhà lợp ván. Mặt đất lầy lội khiến chân cậu lết đi chậm chạp, rõ ràng là mới xảy ra lụt lội gần đây: tường vẫn còn in dấu bùn cao đến nửa cánh cửa, các thanh xà gỗ gãy rời và những tấm tôn cán sóng treo lơ lửng cho thấy những nơi chuồng gia súc, hiên nhà và nhà phụ đã bị cuốn trôi.
Nhưng đó không phải là đặc điểm kì lạ nhất của nơi này. Ban đầu cậu cứ tưởng mình đang bị mất thăng bằng; thậm chí cậu còn vấp chân vài lần; vì các tòa nhà đều lệch khỏi trục thẳng đứng khoảng hai hay ba độ, tất cả đều ngả về một phía. Mái vòm của nhà thờ nhỏ có vết rạn nứt rất tồi tệ. Đã xảy ra động đất sao?
Lũ chó đang sủa một cách cuồng loạn, nhưng lại chẳng dám tới gần. Trong vai trò linh thú, Balthamos đang ở dạng một con chó lớn trắng như tuyết với đôi mắt đen láy, bộ lông dày, cái đuôi xoắn tít, ông gầm gừ dữ tợn tới mức lũ chó thật phải giữ khoảng cách. Con nào con nấy đều gầy gộc và dơ dáy, vài con tuần lộc mà cậu có thể thấy được đều có vết ghẻ và tỏ ra thờ ơ.
Will dừng lại ở trung tâm của ngôi làng nhỏ và nhìn xung quanh, không biết nên đi đâu. Trong lúc cậu đứng đó, vài ba người đàn ông hiện ra phía trước rồi đứng nhìn cậu chằm chằm. Họ là những người đầu tiên cậu thấy trong thế giới của Lyra. Họ mặc những chiếc áo khoác trông có vẻ nặng nề, những đôi ủng bám đầy bùn, mũ lông, trông họ không có vẻ gì thân thiện cả.
Con chó trắng biến thành một con chim sẻ rồi bay lên vai Will. Chẳng ai buồn chớp mắt trước sự kiện đó: Mỗi người đều có một con linh thú, Will thấy như vậy, phần lớn là chó, và đó là cách mọi thứ diễn ra ở thế giới này. Trên vai cậu, Balthamos thì thầm: “Đi tiếp đi. Đừng nhìn vào mắt họ. Cúi đầu xuống. Việc đó thể hiện thái độ tôn trọng.”
Will tiếp tục đi. Cậu có thể khiến mình trở nên kín đáo; đó là tài năng lớn nhất của cậu. Vào lúc cậu tới được chỗ họ, những người đàn ông đã không còn hứng thú với cậu nữa rồi. Nhưng đúng lúc đó cánh cửa của dinh thự đồ sộ nhất con phố mở ra cùng với một tiếng gọi gì đó rất lớn.
Balthamos nói khẽ: “Linh mục đấy. Cậu sẽ phải lễ phép với ông ta. Quay lại chào đi.”
Will làm theo. Vị linh mục là một người đàn ông to lớn, râu bạc xám, mặc chiếc áo thầy tu màu đen, với một con linh thú quạ đậu trên vai. Đôi mắt láo liên của ông ta nhìn khắp mặt và người Will, ghi nhận mọi đặc điểm. Ông ta ra hiệu.
Will bước tới ngưỡng cửa rồi lại cúi chào.
Vị linh mục nói gì đó, Balthamos liền thì thào: “Ông ta hỏi cậu từ đâu tới. Cứ nói gì cậu thích.”
“Con nói tiếng Anh,” Will nói chậm rãi và rõ ràng. “Con không biết ngôn ngữ nào khác cả.”
“À, tiếng Anh!” Vị linh mục thốt lên đầy hân hoan cũng bằng thứ tiếng đó. “Anh bạn trẻ thân mến! Chào mừng con đến làng của chúng ta, ngôi làng Kholodnoye nhỏ bé không-còn-đứng- thẳng của chúng ta! Tên con là gì, và con đang đi đâu vậy?”
“Tên con là Will, con đang đi về phía nam. Con bị lạc mất gia đình nên đang cố gắng tìm lại họ.”
“Vậy thì con phải vào trong nghỉ ngơi một chút đi,” linh mục nói rồi quàng một cánh tay nặng trịch quanh vai Will, kéo cậu đi qua ngưỡng cửa vào.
Con linh thú quạ của người đàn ông thể hiện hứng thú sâu sắc với Balthamos. Nhưng thiên thần cũng chẳng phải dạng vừa: Ông biến thành một con chuột rồi tuồn vào áo của Will như thể đang ngượng ngùng vậy.
Vị linh mục dẫn cậu vào một phòng khách sực mùi thuốc lá, nơi có ấm trà samovar bằng gang lặng lẽ bốc hơi trên một chiếc bàn phụ.
“Tên con là gì?” Linh mục hỏi. “Nói lại cho ta nghe nào.”
“Will Parry ạ. Nhưng con không biết phải gọi Cha là gì.”
“Otyets Semyon,” linh mục đáp, xoa xoa cánh tay của Will trong lúc dẫn cậu tới ghế ngồi. “Otyets có nghĩa là Cha. Ta là linh mục của Nhà thờ Thánh. Tên của ta là Semyon, còn tên cha ta là Boris, nên ta là Semyon Borisovitch. Tên cha con là gì?”
“John Parry ạ.”
“John là Ivan. Vậy con là Will Ivanovitch, còn ta là Cha xứ Semyon Borisovitch. Con từ đâu tới, Will Ivanovitch, và con sẽ đi đâu?”
“Con đang bị lạc,” Will đáp. “Con đang đi cùng cả gia đình về phía nam. Bố con là một người lính, nhưng ông ấy đang thám hiểm vùng Cực Bắc. Thế rồi có chuyện xảy ra và chúng con bị lạc nhau. Vậy nên con đi về phía nam vì biết rằng đó là nơi cả nhà sẽ đến.”
Linh mục dang rộng tay rồi nói: “Một người lính à? Một nhà thám hiểm tới từ Anh Quốc? Đã hàng thế kỉ rồi chẳng có ai thú vị đến vậy đặt chân lên những con đường bẩn thỉu của Kholodnoye cả. Nhưng vào thời kì biến động này thì biết đâu ông ấy lại chẳng xuất hiện vào ngày mai chứ? Bản thân con là một vị khách được hoan nghênh, Will Ivanovitch ạ. Con phải ở lại nhà của ta qua đêm, chúng ta sẽ nói chuyện và dùng bữa cùng nhau. Lydia Alexandrovna!” Ông gọi.
Một người phụ nữ lớn tuổi lặng lẽ bước vào. Ông ta nói với bà bằng tiếng Nga, bà gật đầu, cầm lấy một cái tách rồi đổ đầy trà nóng từ chiếc ấm samovar vào. Bà đem tách trà đến cho Will, cùng với một đĩa nhỏ đựng mứt và một chiếc thìa bạc.
“Cảm ơn bà,” Will nói.
“Món mứt là để làm ngọt trà,” vị linh mục nói. “Lydia Alexandrovna chế biến từ việt quất đó.”
Kết quả là nước trà uống vừa đắng vừa ghê, nhưng dù sao thì Will vẫn uống. Vị linh mục không ngừng rướn về trước để nhìn cậu kĩ hơn, sờ tay cậu để xem cậu có bị lạnh không, rồi xoa đầu gối cậu. Để làm ông phân tâm, Will hỏi tại sao các tòa nhà trong thành phố lại bị nghiêng.
“Đã có biến động trong lòng đất,” linh mục đáp. “Điều đó đã được tiên đoán đầy đủ trong Sách Khải Huyền của Thánh John. Các dòng sông chảy ngược… Con sông lớn cách đây không xa đã từng chảy về phía bắc vào Bắc Băng Dương. Từ tận những rặng núi ở vùng Trung Á, nó chảy về phía bắc đã hàng nghìn, hàng nghìn năm rồi, kể từ khi Đấng Quyền Năng của Chúa, Đức Cha Tối Cao kiến tạo nên trái đất. Nhưng khi mặt đất rung chuyển, sương mù và lụt lội kéo tới, mọi thứ đều đã thay đổi, rồi con sông lớn chảy về phía nam trong khoảng một tuần hoặc hơn trước khi lại chuyển hướng về phía bắc. Thế giới đang bị đảo lộn. Con đã ở đâu khi cuộc biến động lớn xảy ra?”
“Ở cách đây rất xa ạ,” Will nói. “Con không hề biết chuyện xảy ra. Khi sương mù tan, con đã lạc mất gia đình và giờ con cũng không biết mình đang ở đâu. Cha đã nói cho con biết tên của nơi này nhưng nó ở đâu vậy? Chúng ta đang ở đâu?”
“Đem cho ta cuốn sách to ở giá bên dưới cùng kia,” Semyon Borisovitch nói. “Ta sẽ cho con xem.”
Vị linh mục kéo ghế lại gần bàn rồi liếm ngón tay trước khi lật những trang sách trong cuốn tuyển tập bản đồ khổng lồ.
“Đây,” ông nói rồi chỉ một ngón tay cáu bẩn vào một điểm nằm giữa vùng Siberia, cách rất xa dãy núi Ural về phía đông. Con sông gần đó chảy như vị linh mục đã nói, từ phần phía bắc của những dãy núi ở Tây Tạng lên đến tận Cực Bắc. Cậu nhìn thật kĩ dãy Himalaya nhưng chẳng thể thấy gì tương tự như bản đồ mà Baruch đã vẽ.
Semyon Borisovitch cứ thế nói liên hồi, dồn dập hỏi Will những chi tiết về cuộc sống của cậu, về gia đình cậu, quê hương cậu, và là một kẻ giả vờ lão luyện, Will trả lời không thiếu một câu nào. Ngay sau đó bà quản gia bưng vào súp Borscht và bánh mì đen. Sau khi linh mục đọc xong lời cầu nguyện dài dằng dặc, cuối cùng họ cũng dùng bữa.
“Vậy, chúng ta sẽ giết thời gian thế nào đây nhỉ, Will Ivanovitch?” Semyon Borisovitch hỏi. “Chúng ta sẽ chơi bài, hay con muốn nói chuyện hơn?”
Ông rót thêm một li trà từ ấm samovar, Will nhận lấy nó một cách nghi ngại.
“Con không biết chơi bài,” cậu nói, “con rất bất an về việc lên đường đi tiếp. Ví dụ như nếu con đi đến sông, Cha có nghĩ con có thể kiếm được chỗ trên một chiếc tàu chạy hơi nước để tiến về phía nam không?”
Gương mặt to bè của vị linh mục tối sầm lại, ông xoay cổ tay làm dấu thánh giá một cách đầy tao nhã.
“Có một vấn đề trong thị trấn,” ông giải thích. “Lydia Alexandrovna có một người chị đã đến đây nói với bà rằng có một con thuyền chở gấu lội ngược dòng sông. Lũ gấu mặc giáp. Chúng tới từ Cực Bắc. Con không thấy gấu mặc giáp lúc còn ở phương bắc sao?”
Vị linh mục đang nghi ngờ. Balthamos thì thầm thật khẽ để chỉ có Will nghe được: “Cẩn thận đấy.” Will lập tức hiểu ra vì sao ông lại nói vậy: Trái tim cậu bắt đầu đập thình thịch khi Semyon Borisovitch nhắc đến lũ gấu, vì những gì mà Lyra đã nói với cậu về chúng. Cậu phải cố gắng kìm nén cảm xúc lại.
Cậu đáp: “Chúng con ở cách Svalbard rất xa, còn lũ gấu thì quá bận rộn với việc riêng của mình.”
“Phải, ta cũng nghe nói như vậy,” linh mục nói khiến Will nhẹ nhõm hẳn. “Nhưng giờ chúng đang rời khỏi quê hương của mình để tiến về phía nam. Chúng có một con thuyền, nhưng người dân thị trấn sẽ không cho chúng nạp nhiên liệu. Họ e sợ lũ gấu. Mà cũng nên như thế - chúng là những đứa con của quỷ dữ. Tất cả mọi thứ xuất phát từ phương bắc đều là ác quỷ. Giống như đám phù thủy - con gái của tội lỗi! Giáo hội đáng ra phải diệt sạch chúng từ nhiều năm trước rồi. Lũ phù thủy - đừng có dính dáng gì đến chúng, Will Ivanovitch ạ, con nghe ta nói chứ? Con biết chúng sẽ làm gì khi con đến tuổi không? Chúng sẽ tìm cách quyến rũ con. Chúng sẽ dùng mọi thủ đoạn lừa dối, xảo quyệt, mềm mỏng mà mình có, cơ thể chúng, làn da mềm mại của chúng, giọng nói ngọt ngào của chúng, chúng sẽ lấy đi mầm giống của con - con biết ý ta là gì rồi đấy - chúng sẽ vắt kiệt con và khiến con trống rỗng! Chúng sẽ lấy đi tương lai của con, những đứa con sắp sinh của con, làm cho con trắng tay. Chúng cần phải bị giết hết, tất cả.”
Vị linh mục với sang cái giá bên cạnh ghế của mình để lấy xuống một cái chai và hai chiếc li nhỏ.
“Giờ ta sẽ mời con uống một chút, Will Ivanovitch ạ,” ông nói. “Con còn bé nên chưa uống nhiều. Nhưng con đang lớn, và cần phải biết vài thứ, như vị của rượu vodka chẳng hạn. Lydia Alexandrovna thu hoạch số quả mọng này vào năm ngoái, sau đó ta đã chưng cất rượu, và cái chai này chính là thành phẩm, nơi duy nhất mà Otyets Semyon Borisovitch và Lydia Alexandrovna nằm bên nhau!”
Ông ta cười phá lên rồi mở nút chai, đổ đầy từng li đến tận mép. Cái kiểu hội thoại này khiến Will thấy ghê tởm. Cậu phải làm gì bây giờ? Làm sao cậu có thể từ chối uống mà không bị bất lịch sự nhỉ?
“Otyets Semyon,” cậu nói trong lúc đứng dậy, “Cha thật tử tế, ước gì con có thể lưu lại lâu hơn để thưởng thức rượu của Cha và nghe Cha nói chuyện, vì những điều cha đang nói đều rất hấp dẫn. Có điều xin Cha hiểu rằng con đang rất buồn vì việc gia đình mình, và cực kì mong muốn được tìm lại họ, vì vậy con nghĩ mình nên đi tiếp, mặc dù con cũng muốn ở lại không kém.”
Vị linh mục bĩu môi dưới lớp râu dày cộp và cau mày; nhưng rồi ông nhún vai nói: “Chà, nếu con phải đi thì cứ đi. Nhưng trước đó, con phải uống phần vodka của mình đã. Đứng lên cùng ta nào! Cấm lấy cốc rồi uống một hơi như thế này này!”
Ông hất ngược cốc rượu, nuốt hết ngay trong một hớp, rồi lôi cơ thể đồ sộ của mình đứng dậy thật sát với Will. Giữa những ngón tay mập mạp bẩn thỉu của ông ta, chiếc li trông thật bé nhỏ; nhưng nó đang đầy ắp thứ rượu mạnh trong suốt. Will có thể ngửi thấy mùi rất nồng của thứ đồ uống, mùi mồ hôi chua lòm và mùi đồ ăn dính trên lớp áo thầy tu. Chưa uống mà cậu đã thấy muốn nôn rồi.
“Uống đi nào, Will Ivanovitch!” Linh mục kêu lên với sự vui vẻ đầy đe doạ.
Will nâng li lên rồi không ngần ngừ nuốt gọn thứ chất lỏng nóng như lửa, trơn như dầu chỉ trong một hụm. Giờ cậu sẽ phải ra sức chống chọi để không buồn nôn.
Nhưng vẫn còn một thử thách nữa. Semyon Borisovitch ngả về trước từ chiều cao đáng nể của mình rồi tóm lấy cả hai vai Will.
“Con trai của ta,” ông ta nói rồi nhắm mắt lại và bắt đầu ngâm nga một lời cầu nguyện hay một đoạn Thánh thi. Hơi thuốc lá, rượu và mồ hôi bốc lên sực nức từ người ông ta, và ông ta ở gần đến mức bộ râu rậm rạp đang đung đưa lên xuống cọ cả vào mặt Will. Will phải nín thở.
Đôi tay của linh mục vòng qua đằng sau vai Will, và rồi Semyon Borisovitch ôm chặt lấy cậu, hôn lên má cậu, phải, trái, rồi lại phải. Will cảm thấy Balthamos đang cắm những cái vuốt nhỏ xíu vào vai mình, nhưng cậu vẫn đứng yên. Đầu cậu đang quay cuồng, bụng dạ cồn cào, nhưng cậu không hề nhúc nhích.
Cuối cùng thì việc đó cũng kết thúc, vị linh mục lùi lại rồi đẩy cậu đi.
“Đi đi,” ông ta nói, “đi về phía nam, Will Ivanovitch ạ. Đi đi.”
Will thu lượm áo khoác và balô rồi cố gắng đi thật thẳng khi rời khỏi dinh thự của linh mục và bước trên con đường dẫn ra khỏi ngôi làng.
Cậu bước đi trong hai tiếng đồng hồ, cảm thấy cơn nôn nao dần dần dịu lại, nhường chỗ cho cảm giác đau đầu âm ỉ, nhức nhối. Đến một lúc, Balthamos bắt cậu dừng lại, ông đặt hai bàn tay mát lạnh của mình lên cổ và trán Will, giúp cơn đau dịu đi đôi phần; nhưng Will đã tự hứa với bản thân rằng mình sẽ không bao giờ uống vodka nữa.
Đến chiều muộn hôm đó, con đường mở rộng ra rồi thoát khỏi đám lau sậy, nhờ vậy Will thấy được thị trấn trước mặt, và đằng sau nó một miền nước rộng mênh mông chẳng khác nào biển cả.
Dù vẫn còn ở xa, Will có thể thấy rằng ở đó đang có rắc rối. Những cụm khói bốc lên từ đằng sau các mái nhà, nối tiếp bởi một tiếng súng nổ đoàng đoàng sau đó vài giây.
“Balthamos,” cậu nói, “ông sẽ phải trở lại làm linh thú thôi. Cứ ở gần tôi và đề phòng nguy hiểm đó.”
Cậu tiến vào vùng ngoại vi của thị trấn nhỏ tồi tàn, nơi những tòa nhà còn nghiêng ngả một cách đáng sợ hơn ngôi làng trước đó, và là nơi lụt lội để lại vết bùn trên tường cao hơn cả đầu Will. Rìa ngoài thị trấn đã bị bỏ hoang, nhưng khi cậu tiến về phía con sông, những âm thanh hò hét, gào thét, tiếng đùng đoàng của súng trường trở nên ầm ĩ hơn.
Và cuối cùng thì cũng đến chỗ có người: người đang nhìn từ những ô cửa sổ trên tầng, người lo lắng rướn cổ quanh những góc tòa nhà để nhìn về phía cầu tàu, nơi những ngón tay sắt thép của cần cẩu, cần trục và cột buồm của những chiếc tàu thủy lớn dựng lên qua cả các mái nhà.
Một vụ nổ làm rung chuyển các bức tường, khiến kính từ một ô cửa sổ gần đó rơi ra lả tả. Người dân lùi lại rồi lại nhìn quanh, sau đó những tiếng gào thét lại bùng lên trong không khí mù mịt khói.
Will tới được góc phố rồi nhìn dọc theo cầu tàu. Khi khói bụi đã tan đi chút ít, cậu thấy một con tàu rỉ sét đang ở cách xa bờ, giữ nguyên vị trí giữa dòng nước chảy, và trên bến tàu một đám người được trang bị súng trường hoặc súng lục đang vây quanh một khẩu đại bác mà khi cậu nhìn lại nổ thêm một phát nữa. Tia lửa lóe lên, khẩu đại bác giật lùi lại, và ngay sát con tàu là tiếng nước bắn tóe dữ dội.
Will lấy tay che mắt. Trên tàu có bóng người, nhưng - cậu dụi mắt, dù bản thân đã đoán trước được: Chúng lại chẳng phải con người. Đó là những sinh vật khổng lồ làm bằng kim loại, hoặc những sinh vật mặc áo giáp hạng nặng. Trên boong trước của con tàu, một bông hoa lửa sáng rực đột ngột nở bùng lên, khiến dân chúng gào thét hoảng hốt. Ngọn lửa bốc vụt lên không trung, dâng cao và tiến lại gần, tóe ra những tia sáng và khói, rồi sụp xuống cùng tiếng lửa bắn tóe ra ngay cạnh khẩu súng. Đám đàn ông hét lên rồi tản ra, có kẻ bị thiêu phải chạy về phía mép nước rồi nhảy tùm xuống, để rồi bị dòng chảy cuốn đi khuất khỏi tầm mắt.
Will thấy một người đàn ông đứng gần đó trông có vẻ giống một giáo viên, cậu liền hỏi:
“Ông có nói tiếng Anh không?”
“Có, có, có chứ…”
“Chuyện gì đang xảy ra vậy?”
“Lũ gấu, chúng đang tấn công, chúng tôi đang cố gắng chiến đấu chống lại chúng, nhưng chẳng dễ dàng chút nào, chúng tôi chỉ có duy nhất một khẩu súng, mà…”
Vật ném lửa trên tàu lại ném một cục hắc ín đang rực cháy khác, lần này thì nó đáp xuống còn sát với khẩu súng hơn. Ba vụ nổ lớn xảy ra gần như ngay sau đó chứng tỏ nó đã rơi trúng chỗ để đạn dược. Các pháo thủ vội nhảy tránh ra xa, để mặc nòng súng chúi xuống thấp.
“A,” người đàn ông rên lên, “không ổn rồi, họ không thể bắn…”
Viên chỉ huy quay đầu tàu rồi lái về phía bờ. Nhiều người hét lên vì sợ hãi và tuyệt vọng, đặc biệt là khi một quả cầu lửa khổng lồ nữa bùng lên trên boong trước, vài người có súng bắn một hai phát rồi quay lưng bỏ chạy; nhưng lần này lũ gấu không ném lửa nữa, không lâu sau con tàu chạy nghiêng về phía bến, máy nổ bình bịch cố gắng chống lại dòng chảy.
Hai thủy thủ (con người, không phải gấu) nhảy xuống để quấn dây quanh cọc. Thấy vậy dân thị trấn liền rít lên và gào thét đầy phẫn nộ trước lũ phản bội loài người này. Hai thủy thủ chẳng buồn đếm xỉa mà cứ thế chạy tới hạ ván cầu xuống.
Rồi sau đó khi họ quay lại để trở về tàu, một phát súng nổ ra ở đâu đó cạnh Will, làm một trong hai người ngã xuống. Linh thú của anh ta - một con mòng biển - tan biến như thể sự tồn tại của nó không khác gì một ngọn nến vừa bị thổi tắt.
Phản ứng từ lũ gấu là một cơn cuồng nộ thuần tuý. Ngay lập tức máy ném lửa được châm trở lại rồi xoay vòng để hướng về phía bờ, khối lửa được bắn lên trời rồi đổ ào xuống thành hàng trăm giọt bắn tung tóe trên các mái nhà. Sau đó tại đỉnh cao nhất của thang nối lên tàu xuất hiện một con gấu lớn hơn tất cả những con khác, một sự hiện diện của sức mạnh sắt thép, làn đạn vừa xối xuống người nó kêu lên lạch tạch, bồm bộp đầy vô dụng, chẳng làm lõm nổi một milimét trên bộ giáp đồ sộ của nó.
Will nói với người đàn ông đứng bên cạnh mình: “Sao họ lại tấn công thị trấn vậy?”
“Chúng muốn có nhiên liệu. Nhưng chúng tôi không giao dịch với lũ gấu. Giờ chúng đang rời khỏi vương quốc của mình và dong thuyền ngược dòng sông, ai mà biết chúng sẽ làm gì chứ? Vậy nên chúng tôi phải chống lại chúng. Lũ cướp biển - quân trộm cắp…”
Con gấu khổng lồ đã xuống khỏi thang nối, túm tụm phía sau nó là vài con khác, chúng nặng đến nỗi khiến con tàu nghiêng cả đi; Will thấy những người đàn ông trên bến tàu đã quay trở lại bên khẩu đại bác và đang nạp đạn vào khóa nòng.
Một ý tưởng nảy ra, cậu liền chạy lên bãi đất bên rìa bến cảng, thẳng vào khoảng trống giữa các pháo thủ và con gấu.
“Dừng lại!” Cậu hét lên. “Dừng việc đánh nhau lại. Hãy để tôi nói chuyện với con gấu!”
Không khí đột ngột trầm xuống, tất cả mọi người đứng im, kinh ngạc trước hành động điên rồ này. Bản thân con gấu, dù đang dồn sức chuẩn bị lao vào đám pháo thủ cũng không rời khỏi vị trí, nhưng từng đường nét trên cơ thể nó đều run lên đầy cuồng bạo. Những cái móng vĩ đại của nó cắm sâu vào nền đất, đôi mắt đen lóe lên giận dữ dưới chiếc mũ giáp sắt.
“Ngươi là ai? Ngươi muốn gì?” Nó rống lên bằng tiếng Anh, vì nghe thấy Will dùng ngôn ngữ đó.
Người dân nhìn nhau đầy hoang mang, những người biết tiếng dịch lại cho những kẻ khác.
“Ta sẽ đấu với ngươi, một chọi một,” Will hét lên, “nếu ngươi chịu thua thì cuộc chiến sẽ phải chấm dứt.”
Con gấu không nhúc nhích. Về phần người dân thì ngay khi hiểu ra Will đang nói gì, họ liền hò hét, giễu cợt, huýt sáo và phá lên cười nhạo báng. Nhưng điều đó không kéo dài lâu, vì Will đã quay lại đối mặt với đám đông, đôi mắt lạnh băng, cố gắng nén giận, cậu đứng im tuyệt đối cho đến khi tiếng cười ngừng lại. Cậu có thể cảm thấy con chim hoét Balthamos đang run rẩy trên vai mình.
Khi đám người đã im lặng, cậu gọi lớn: “Nếu tôi khiến cho con gấu phải chịu thua, các người phải đồng ý bán nhiên liệu cho họ. Như vậy họ sẽ tiếp tục hành trình và để các người yên. Các người phải đồng ý. Nếu không họ sẽ hủy diệt tất cả các người.”
Cậu biết rằng con gấu vĩ đại đang ở phía sau chỉ cách mình vài mét, nhưng cậu không bỏ chạy; cậu quan sát dân thị trấn trao đổi, khoa tay múa chân, tranh cãi, rồi một phút sau có tiếng nói vang lên: “Cậu bé! Bắt con gấu đồng ý đi!”
Will quay lại. Cậu nuốt nước miếng, lấy một hơi thật sâu rồi gọi:
“Gấu! Ngươi phải đồng ý. Nếu ngươi chịu thua, cuộc chiến phải kết thúc, ngươi có thể mua nhiên liệu và bình an đi lên sông.”
“Không được,” con gấu rống lên. “Thật xấu hổ khi phải đấu với ngươi. Ngươi yếu ớt chẳng khác gì một con hàu bị mất vỏ cả. Ta không thể đấu với ngươi được.”
“Ta đồng ý,” Will nói, toàn bộ sự chú ý của cậu lúc này đang dồn vào sinh vật đồ sộ đầy hung bạo trước mặt mình. “Một cuộc chiến hoàn toàn không cân sức. Ngươi thì giáp sắt kín người còn ta lại chẳng có gì. Chỉ một cái lướt tay của ngươi là đầu ta có thể rụng rồi. Vậy thì làm cho công bằng hơn đi. Đưa ta một mảnh giáp của ngươi, mảnh nào tuỳ ngươi chọn. Mũ giáp chẳng hạn. Như thế chúng ta sẽ cân xứng hơn, và có đánh với ta cũng không phải điều gì đáng xấu hổ.”
Với một tiếng gầm gừ thể hiện sự căm ghét, giận dữ, khinh miệt, con gấu vươn một cái móng vĩ đại lên rồi gỡ sợi xích cố định mũ giáp của mình.
Giờ thì cả bến cảng đều đã nín bặt. Không ai nói năng - không ai cử động. Họ hiểu được rằng một việc chưa từng thấy trước đây đang diễn ra, nhưng họ lại không thể đoán được việc đó là gì. Âm thanh duy nhất hiện giờ là tiếng nước sông vỗ vào đống cọc gỗ, tiếng nổ bình bịch của động cơ tàu, và tiếng kêu không ngớt của lũ mòng biển phía trên đầu; rồi sau đó là tiếng xoảng đinh tai khi con gấu lẳng cái mũ giáp về phía chân của Will.
Will đặt balô xuống rồi nâng cái mũ đứng thẳng dậy. Sức cậu chỉ vừa đủ để nhấc nó lên. Cái mũ chỉ là một tấm sắt duy nhất, đen đúa và lồi lõm, với lỗ mắt ở trên đỉnh và một sợi xích cực lớn ở phía dưới. Nó dài bằng cẳng tay của Will, và dày cỡ ngón cái của cậu.
“Vậy ra đây là giáp của ngươi à,” cậu nói. “Chà, với ta thì trông nó có vẻ không được chắc chắn lắm. Không biết ta có tin tưởng nó được không. Để xem nào.”
Nói rồi cậu liền lấy con dao ra từ trong balô, tì một cạnh vào phần trước của mũ rồi xẻ rời một góc ra như thể đang cắt bơ.
“Biết ngay mà,” cậu nói rồi lại cắt thêm một miếng, một miếng nữa, chia nhỏ vật thể khổng lồ thành một đống các mảnh vụn chỉ trong chưa đầy một phút. Cậu đứng dậy giơ ra một nắm.
“Giáp của ngươi đấy,” cậu nói rồi thả tay, các mảnh vụn rơi loảng xoảng xuống số còn lại đang nằm dưới chân cậu, “còn đây là dao của ta. Vì mũ giáp của ngươi vô dụng với ta nên ta phải chiến đấu mà không có nó thôi. Sẵn sàng chưa, gấu? Ta cho rằng chúng ta khá là cân bằng đấy. Đằng nào thì ta cũng có thể cắt rời đầu ngươi chỉ bằng một nhát dao mà.”
Tĩnh lặng tuyệt đối. Đôi mắt đen của con gấu lóe lên như dầu hắc in, Will cảm thấy một giọt mồ hôi chảy xuống trên cột sống của mình.
Rồi cái đầu của con gấu cử động. Nó lắc đầu rồi lùi lại một bước.
“Vũ khí đó quá mạnh,” nó nói. “Ta không đấu lại được. Nhóc, ngươi thắng rồi.”
Will biết rằng chỉ một giây sau là người dân sẽ hoan hô, hò hét và huýt sáo, nên trước khi con gấu kịp nói hết từ “thắng rồi”, Will đã quay lại và hô lên để giữ trật tự:
“Giờ các người phải làm theo giao kèo. Chăm sóc những người bị thương và bắt đầu sửa sang lại các tòa nhà đi. Sau đó để cho con tàu buộc neo và nạp thêm nhiên liệu.”
Cậu biết rằng sẽ cần vài phút để dịch lại những câu nói đó và để cho thông điệp lan ra đám dân thị trấn đang đứng xem, và cậu cũng biết sự chậm trễ đó sẽ ngăn chặn việc bùng nổ cảm xúc nhẹ nhõm và tức giận của họ, giống như một mạng lưới các bãi cát cản trở và ngắt đứt dòng chảy của một con sông. Con gấu quan sát và thấy việc cậu đang làm, vì sao cậu lại làm vậy, nó hiểu còn rõ hơn chính bản thân Will về điều cậu vừa đạt được.
Will đút con dao trở lại balô, sau đó cậu và con gấu một lần nữa trao đổi ánh nhìn, nhưng lần này là với cảm xúc khác. Họ tiến lại gần, phía sau họ, lũ gấu bắt đầu tháo dỡ máy ném lửa; hai con tàu còn lại cũng dần dần tấp vào bãi đất cảng.
Trên bờ, vài người bắt đầu tản ra, nhưng một số khác lại đang tụ tập lại để nhìn Will, tò mò về cậu bé và sức mạnh mà cậu ta có để ra lệnh cho con gấu. Đã đến lúc Will phải trở nên kín đáo, vì vậy cậu liền thi triển pháp thuật đã làm chệch hướng mọi sự hiếu kì khỏi mẹ mình và giữ cho cả hai an toàn trong nhiều năm. Đương nhiên đó chẳng phải là pháp thuật gì, chỉ đơn giản là do cách cư xử. Cậu khiến mình trầm lặng hơn, mắt lờ đờ và chậm chạp, vậy là chỉ trong chưa đầy một phút cậu đã trở nên ít thú vị, ít hấp dẫn hơn hẳn với mọi người. Mọi người nhanh chóng ngán ngẩm với đứa bé đần độn này, quên lãng nó và dần bỏ đi.
Nhưng sự chú ý của con gấu thì lại không giống như của con người, nó có thể thấy được chuyện gì đang diễn ra, và nó biết rằng đó lại là một năng lực phi thường khác mà Will sở hữu. Con gấu bước lại gần rồi khẽ nói bằng một giọng rền rĩ trầm như động cơ tàu thủy vậy.
“Tên cậu là gì?” Nó nói.
“Will Parry. Ông có thể chế tạo một cái mũ giáp khác không?”
“Được. Cậu đang tìm kiếm gì thế?”
“Các ông sẽ đi lên phía thượng nguồn. Tôi muốn đi cùng các ông. Tôi đang đi về phía núi và đây là cách nhanh nhất. Ông sẽ đưa tôi theo chứ?”
“Được. Ta muốn xem con dao đó.”
“Tôi sẽ chỉ cho con gấu mà tôi có thể tin tưởng xem. Tôi có nghe nói về một con gấu đáng tin cậy. Ông ta là vua của loài gấu, một người bạn tốt của cô bé mà tôi đang đi lên núi để tìm. Tên cậu ấy là Lyra Silvertongue. Và con gấu được gọi là Iorek Byrnison.”
“Ta là Iorek Byrnison,” con gấu nói.
“Tôi biết,” Will đáp.
Con tàu đang được nạp nhiên liệu; đám xe tải được kéo lên dọc theo mạn tàu và nghiêng sang một bên để than rơi ầm ầm xuống máng trượt dẫn xuống khoang, khiến bụi đen bốc lên cao quá đầu. Không bị phát hiện bởi những người dân thị trấn đang bận rộn quét kính và mặc cả giá nhiên liệu, Will đi theo vua gấu lên thang nối rồi leo lên tàu.