- 9 - Lên thượng nguồn
Bóng tối phủ lên tâm trí đã tan
Như khi sang trưa
Một đám Mây mà Mặt Trời hùng vĩ bao trọn
Emily Dickinson
“Cho ta xem con dao,” Iorek Byrnison nói. “Ta hiểu về kim loại. Không có thứ gì làm từ sắt thép lại là bí ẩn với một con gấu. Nhưng ta chưa từng thấy con dao nào như của cậu, và sẽ rất vui nếu được nhìn nó kĩ hơn.”
Will và vua gấu đang đứng trên boong trước của con tàu hơi nước chạy trên sông, dưới những tia nắng ấm áp của mặt trời đang lặn. Con tàu đang tiến nhanh về phía thượng nguồn. Trên tàu có dư dả nhiên liệu, thực phẩm mà Will có thể ăn, cậu và Iorek Byrnison đang đánh giá nhau lần thứ hai. Lần đầu tiên đã được thực hiện xong.
Will đưa con dao về phía Iorek, chuôi đi trước, con gấu liền nhẹ nhàng cầm lấy nó. Móng vuốt ngón cái của nó đối diện với vuốt bốn ngón còn lại, giúp nó cầm nắm đồ vật khéo léo không kém gì con người. Nó đang xoay con dao theo đủ hướng, đưa con dao lại gần mắt, giơ ra để bắt lấy ánh sáng, thử cạnh - cái cạnh bằng thép - lên một miếng sắt vụn.
“Đây là cạnh cậu đã dùng để cắt giáp của ta ra,” nó nói. “Cạnh còn lại rất kì lạ. Ta không thể đoán được nó là gì, nó có thể làm gì, nó được chế tạo như thế nào. Nhưng ta muốn tìm hiểu nó. Làm sao cậu sở hữu được nó vậy?”
Will kể lại với con gấu phần lớn những chuyện đã xảy ra, chỉ chừa lại phần liên quan đến mình cậu: mẹ cậu, người đàn ông cậu đã giết, bố cậu.
“Cậu đã chiến đấu giành lấy cái này, và mất hai ngón tay à?” Con gấu hỏi. “Cho ta xem vết thương nào.”
Will chìa bàn tay ra. Nhờ có thuốc mỡ của bố mình, bề mặt sần sùi đang lành lại nhanh chóng, nhưng chúng vẫn còn rất mềm. Con gấu hít ngửi vết thương.
“Rêu cầm máu,” nó nói. “Và một thứ gì đó khác mà ta không nhận dạng được. Ai cho cậu thứ này vậy?”
“Một người đàn ông, người đã bảo cho tôi biết phải làm gì với con dao. Sau đó ông ấy chết mất rồi. Ông ấy có chút thuốc mỡ trong một cái hộp bằng sừng, nó chữa lành vết thương cho tôi. Các phù thủy đã thử nhưng phép thuật của họ không hiệu nghiệm.”
“Ông ta bảo cậu làm gì với con dao?” Iorek Byrnison hỏi trong lúc cẩn thận trả nó lại cho Will.
“Dùng nó trong cuộc chiến, ở phe Ngài Asriel,” Will đáp. “Nhưng trước tiên tôi phải giải cứu cho Lyra Silvertongue đã.”
“Vậy thì chúng ta sẽ giúp,” con gấu nói, khiến trái tim Will đập rộn ràng vì vui mừng.
Trong vài ngày tiếp theo Will đã tìm hiểu được tại sao đám gấu lại giong thuyền về phía Trung Á, một nơi quá xa với quê hương của chúng.
Kể từ trận thảm họa xé toạc các thế giới, toàn bộ băng ở vùng Cực Bắc đang bắt đầu tan, tạo ra những dòng chảy mới và kì quặc trong lòng nước. Vì gấu sống dựa vào băng và vào những sinh vật sống trong vùng biển lạnh, chúng có thể thấy rằng chẳng mấy chốc mình sẽ chết đói nếu cứ ở nguyên chỗ đó; là những kẻ lí trí, chúng đã quyết định mình phải phản ứng như thế nào. Chúng phải di cư đến nơi có băng tuyết dồi dào: Chúng sẽ tới những dãy núi cao nhất, tới rặng núi chạm tới trời, cách xa nửa vòng trái đất nhưng không thể bị lay chuyển, vĩnh cửu, ngập chìm trong tuyết. Từ những con gấu của biển cả, chúng sẽ trở thành gấu của núi cao, cho tới khi thế giới bình lặng trở lại, dù có tốn bao nhiêu thời gian đi nữa.
“Vậy không phải các ông gây chiến à?” Will hỏi.
“Kẻ thù cũ của chúng ta đã biến mất cùng với lũ hải cẩu và moóc. Nếu gặp những kẻ thù mới, chúng ta sẽ biết phải chiến đấu như thế nào.”
“Tôi cứ tưởng là sắp nổ ra một cuộc chiến sẽ gây ảnh hưởng đến tất cả mọi người. Nếu vậy thì ông sẽ chiến đấu cho phe nào?”
“Phe có lợi cho loài gấu. Chứ còn phe nào nữa? Nhưng ta có chút yêu mến dành cho vài người không phải là gấu. Một là người đàn ông lái khí cầu. Ông ấy chết rồi. Một người khác là phù thủy Serafina Pekkala. Thứ ba là đứa trẻ Lyra Silvertongue. Vậy nên trước tiên, ta sẽ làm bất cứ điều gì để phục vụ loài gấu, sau đó là bất cứ điều gì phục vụ đứa trẻ, hoặc cô phù thủy, hoặc trả thù được cho người đồng đội quá cố Lee Scoresby. Đó là lí do vì sao ta sẽ giúp cậu giải cứu Lyra Silvertongue khỏi tay mụ đàn bà ghê tởm Coulter.”
Con gấu kể với Will về việc nó và một vài thần dân đã bơi đến cửa sông, dùng vàng trả cho hợp đồng thuê con tàu này, rồi thuê thủy thủ đoàn, biến sự cạn khô của vùng Cực Bắc thành lợi thế của mình bằng cách để cho con sông đưa mình vào sâu trong đất liền nhất có thể như thế nào - và vì nó bắt nguồn từ những ngọn đồi thấp ở phía bắc ngay dưới chân dãy núi mà họ tìm kiếm, cũng vì Lyra đang bị giam cầm ở đó, mọi chuyện cho đến giờ lại hóa ra là khá thuận lợi.
Cứ như thế thời gian trôi qua.
Vào ban ngày Will gà gật trên boong, nghỉ ngơi, hồi sức, vì từng phần cơ thể của cậu đều đã kiệt quệ. Cậu ngắm nhìn cảnh vật bắt đầu thay đổi, thảo nguyên nhấp nhô nhường chỗ cho những quả đồi phủ cỏ thấp, rồi sau đó là vùng đất cao hơn, điểm xuyết bởi vài hẻm núi hay thác nước lớn; con tàu vẫn phả hơi, đều đều tiến về phía nam.
Cậu nói chuyện với thuyền trưởng và các thủy thủ, chỉ vì phép lịch sự, nhưng do không có sự thoải mái tức thì với người lạ của Lyra, cậu thấy thật khó mà nghĩ ra được thứ gì để nói; mà đằng nào thì người ta cũng không hứng thú với cậu lắm. Đây chỉ là một công việc, họ sẽ bỏ đi khi kết thúc mà không thèm nhìn lại, hơn nữa họ cũng không khoái lũ gấu lắm, dù cho chúng có nhiều vàng đi nữa. Will là một kẻ ngoại quốc, chừng nào cậu vẫn trả tiền cho đồ ăn của mình thì họ không quan tâm lắm đến việc cậu làm gì. Ngoài ra còn có con linh thú kì quặc của cậu, nó như thể là linh thú của phù thủy vậy: đôi lúc nó ở đó, nhưng đôi lúc dường như lại biến mất. Vốn sẵn tính mê tín dị đoan, giống như rất nhiều thủy thủ, họ sẵn lòng bỏ mặc cậu một mình.
Về phần mình, Balthamos cũng giữ im lặng. Đôi khi nỗi sầu khổ của ông lại trỗi dậy mạnh mẽ đến mức không thể chịu nổi, buộc ông phải rời khỏi tàu để bay lên thật cao giữa những đám mây, tìm kiếm dù chỉ một mảng sáng hay chút mùi vị của không khí, một vì sao sa hay một đỉnh băng nhọn có thể gợi lại những trải nghiệm bên Baruch. Khi ông nói chuyện, vào buổi đêm trong bóng tối của căn buồng nhỏ mà Will dùng để ngủ, đó chỉ là để thông báo về việc họ đã đi được bao xa, hang động và thung lũng còn ở phía trước chừng nào. Có lẽ ông cho rằng Will không mấy thông cảm với mình, mặc dù nếu tìm kiếm, ông sẽ nhận được rất nhiều. Càng ngày ông càng trở nên cộc cằn và lịch sự đến cứng nhắc, nhưng không bao giờ tỏ ra mỉa mai; ít nhất thì ông cũng giữ lời hứa đó.
Còn về Iorek, nó mê mẩn kiểm tra con dao. Con gấu nhìn ngắm con dao hàng giờ đồng hồ, thử cả hai cạnh, bẻ cong nó, giơ nó lên ánh sáng, dùng lưỡi chạm vào nó, hít ngửi nó, thậm chí còn lắng nghe âm thanh mà không khí tạo ra khi nó lướt trên bề mặt. Will không lo ngại gì về con dao, vì rõ ràng Iorek là người thợ tài năng nhất; mà cũng không lo cho chính bản thân Iorek, vì cử động của đôi bàn tay vĩ đại kia đầy khéo léo.
Cuối cùng Iorek tới chỗ Will và nói: “Cái cạnh còn lại này. Nó làm những điều mà cậu chưa kể cho ta nghe. Là gì vậy, nó hoạt động như thế nào?”
“Tôi không thể cho ông xem ở đây được,” Will đáp, “vì con tàu đang di chuyển. Ngay khi chúng ta dừng lại, tôi sẽ cho ông xem.”
“Ta có thể nghĩ ra nó,” con gấu nói, “nhưng lại chẳng hiểu được mình đang nghĩ gì. Đây là thứ kì lạ nhất mà ta từng được thấy.”
Rồi nó trả con dao lại cho Will, đôi mắt đen sâu thẳm của con gấu phóng một cái nhìn chằm chằm thật lâu, rất khó dò và khiến người ta bối rối.
Con sông lúc này đã đổi màu, vì nó đang giao với phần còn lại của đợt nước lũ đầu tiên quét xuống từ vùng Cực Bắc. Cơn chấn động đã gây ảnh hưởng khác nhau tới những vùng khác nhau trên trái đất, Will nhận thấy như vậy; hết làng này đến làng khác ngập chìm trong nước tới tận nóc, hàng trăm người bị tước đoạt tài sản cố gắng cứu lại những gì có thể bằng thuyền mái chèo và xuồng. Mặt đất ở đây hẳn đã sụt xuống một ít, vì con sông phình rộng ra và chảy chậm lại, thật khó để thuyền trưởng có thể bám theo được lộ trình thực sự của mình trong những dòng chảy rộng lớn và đục ngầu này. Không khí ở đây nóng nực hơn, mặt trời cũng dâng cao hơn, khiến lũ gấu thấy khó mà giữ mát được; vài con trong số chúng bơi bên cạnh khi con tàu hơi nước tiến lên, nhấm nháp vị nước của quê hương tại vùng đất xa lạ này.
Nhưng rốt cuộc con sông cũng thu hẹp lại và sâu hơn, không bao lâu sau, trước mặt họ bắt đầu dâng lên những ngọn núi của cao nguyên Trung Á hùng vĩ. Will thấy một đường viền màu trắng trên đường chân trời vào một ngày nọ, cậu nhìn nó dần dần lớn lên, tự chia tách thành những đỉnh nhọn riêng biệt và những hẻm núi nằm giữa chúng, cao lớn tới mức có cảm giác như chúng đang ở rất gần - chỉ vài dặm - nhưng chúng vẫn còn rất xa; chỉ đơn giản là dãy núi đó quá mênh mông, và cứ mỗi giờ lại tiến tới gần hơn, dường như chúng cao lên đến không thể tưởng tượng được.
Hầu hết lũ gấu đều chưa từng thấy núi bao giờ, ngoại trừ những vách vực tại hòn đảo Svalbard của mình. Tất cả nín lặng ngước nhìn thành luỹ khổng lồ vẫn còn đang ở rất xa.
“Chúng ta sẽ săn gì ở đó vậy, Iorek Byrnison?” Một con lên tiếng. “Trên núi có hải cẩu không? Chúng ta sẽ sống thế nào đây?”
“Ở đó có tuyết và băng,” là câu trả lời của quốc vương. “Chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái thôi. Động vật hoang dã ở đó cũng rất phong phú. Cuộc sống của chúng ta sẽ đổi khác trong một thời gian. Nhưng chúng ta sẽ sống sót, rồi khi mọi thứ trở lại với tình trạng vốn có, Cực Bắc lại đóng băng, chúng ta sẽ vẫn còn sống để trở về chiếm lại nó. Nếu cứ ở lại đó, chúng ta sẽ chết đói mất. Hãy sẵn sàng đối mặt với những kì lạ và các cách thức mới mẻ, bầy gấu của ta ạ.”
Cuối cùng con tàu hơi nước cũng không thể tiến thêm được nữa, vì đến điểm này lòng sông đã hẹp lại và nông hơn. Thuyền trưởng dừng tàu tại đáy một thung lũng, nơi thông thường đáng ra đã được phủ đầy cỏ và hoa vùng miền núi, nơi con sông uốn lượn trên nền sỏi; nhưng thung lũng giờ đây đã biến thành hồ, và thuyền trưởng nhất quyết nói rằng ông không dám vượt qua nó, vì nếu đi xa hơn điểm này độ sâu có thể sẽ không đủ cho sống tàu, kể cả với cơn lũ khổng lồ đổ xuống từ phía bắc.
Vậy là họ tấp vào mép của thung lũng, nơi đất đá trồi lên hình thành một thứ dạng như đê chắn sóng, và lên bờ.
“Chúng ta đang ở đâu đây?” Will hỏi vị thuyền trưởng có vốn tiếng Anh hạn hẹp.
Thuyền trưởng tìm thấy một tấm bản đồ cũ nát, ông chọc tẩu thuốc vào đó rồi nói: “Cái thung lũng này, chúng ta bây giờ. Cậu lấy, đi đi.”
“Cảm ơn ông rất nhiều,” Will nói rồi tự hỏi liệu mình có phải đề nghị trả tiền không; nhưng thuyền trưởng đã quay đi để giám sát việc dỡ hàng.
Không lâu sau, toàn bộ khoảng ba mươi con gấu và tất cả số giáp của chúng đã đáp xuống bờ sông chật hẹp. Thuyền trưởng hét lên một tiếng ra lệnh, con tàu bắt đầu quay đi đầy nặng nề trước áp lực của dòng chảy, nó tiến ra đến giữa dòng rồi hú một tiếng còi vang vọng rất lâu quanh thung lũng.
Will ngồi đọc bản đồ trên một tảng đá. Nếu cậu đoán đúng thì thung lũng nơi Lyra bị giam giữ, theo như thiên thần nói, nằm ở đâu đó về phía đông và nam, con đường thuận lợi nhất để tới đó dẫn qua một hẻm núi được gọi là Sungchen.
“Hỡi bầy gấu, hãy nhớ lấy nơi này,” Iorek Byrnison nói với thần dân của mình. “Khi nào đến thời điểm có thể quay về Cực Bắc, chúng ta sẽ tụ tập lại ở đây. Giờ thì hãy đi đường của các người đi, săn bắt, ăn uống, và sống. Đừng có gây chiến. Chúng ta không đến đây để đánh nhau. Nếu có nguy cơ chiến tranh, ta sẽ triệu tập mọi người.”
Loài gấu là những sinh vật đơn độc trong phần lớn thời gian, chúng chỉ tập trung lại vào thời khắc chiến tranh hay có việc khẩn cấp. Giờ đây khi đang ở rìa một vùng đất ngập tuyết, con nào cũng nôn nóng muốn chạy đi để tự mình khám phá.
“Đến đây nào, Will,” Iorek Byrnison nói, “chúng ta đi tìm Lyra thôi.”
Will nhấc balô lên và họ lên đường.
Chuyến đi bộ ở đoạn đầu cuộc hành trình khá dễ chịu. Mặt trời tỏa nắng ấm áp, nhưng đám thông và đỗ quyên đã gánh đỡ cho họ phần tồi tệ nhất của hơi nóng, còn không khí thì tươi mát và trong trẻo. Mặt đất dù lởm chởm sỏi đá nhưng những tảng đá đều phủ dày rêu và lá kim của thông, còn con dốc mà họ đang leo cũng chỉ thoai thoải. Will thấy mình khá hứng thú với việc rèn luyện này. Những ngày ở trên tàu, bị buộc phải nghỉ ngơi, đã bồi đắp lại sức lực cho cậu. Khi gặp Iorek, cậu đang đốt cháy nốt chút sức lực cuối cùng. Cậu không biết điều đó, nhưng con gấu thì có.
Ngay khi chỉ còn một mình, Will liền cho Iorek xem cạnh còn lại của con dao hoạt động như thế nào. Cậu mở ra một thế giới nơi một khu rừng mưa nhiệt đới đang bốc hơi và nhỏ giọt, và là nơi hơi nước trĩu nặng mùi hương lơ lửng trôi, hòa lẫn vào bầu không khí loãng của miền núi. Iorek chăm chú nhìn, dùng tay chạm vào viền ô cửa sổ, hít ngửi nó, rồi bước qua để vào bầu không khí nóng nực, ẩm ướt và lặng lẽ nhìn xung quanh. Những tiếng khỉ rú rít, chim chóc gọi bầy, côn trùng rả rích, ếch kêu oàng oạc và tiếng nhỏ tong tong liên miên của hơi ẩm cô đọng đối với Will thật quá ồn ào khi nghe từ phía bên ngoài.
Sau đó Iorek quay trở về rồi quan sát Will đóng cửa, nó lại đòi được xem con dao, nhòm sát vào bên lưỡi bạc đến mức Will lo mắt nó sẽ bị cứa phải mất. Nó xem xét con dao một lúc lâu rồi trả lại mà không nhận xét thêm gì ngoại trừ: “Ta đã đoán đúng: Ta không thể đấu lại thứ này được.”
Họ lại đi tiếp, trao đổi rất ít, nhưng điều đó khiến cả hai thấy dễ chịu. Iorek Byrnison bắt được một con linh dương gazelle và ăn gần hết, để lại phần thịt mềm cho Will nấu. Rồi họ tới một ngôi làng, trong lúc Iorek đợi trong rừng, Will đổi một trong những đồng vàng của mình để lấy vài miếng bánh mì thô bẹt, ít hoa quả khô, và một đôi ủng da bò Tây Tạng cùng chiếc áo gilê làm từ một loại da cừu, vì trời dần lạnh hơn vào ban đêm.
Cậu cũng hỏi được về thung lũng của cầu vồng. Balthamos giúp bằng cách mang dạng một con quạ, giống linh thú của người đàn ông mà Will đang nói chuyện; vị thiên thần giúp quá trình thấu hiểu giữa họ dễ dàng hơn, và Will nhận được lời chỉ dẫn rất hữu ích và rõ ràng.
Lại thêm một chuyến đi bộ ba ngày nữa. Dù sao thì họ cũng sắp tới rồi.
Và cả những kẻ khác cũng vậy.
Lực lượng của Ngài Asriel, hạm đội xa thăng và khí cầu zeppelin chở dầu nhiên liệu, đã tới được lối thông giữa các thế giới: Lỗ thủng giữa bầu trời phía trên Svalbard. Dù còn một chặng đường rất xa, họ vẫn bay không ngừng nghỉ trừ trường hợp thực sự cần bảo dưỡng, trong khi đó vị chỉ huy, Quốc vương Phi châu Ogunwe, giữ liên lạc hai lần một ngày với pháo đài đá bazan. Ông có một thợ điều khiển đá nam châm người Gallivespia trên chiếc xa thăng của mình, thông qua người thợ đó, ông có thể tìm hiểu nhanh chóng không kém gì Ngài Asriel về chuyện đang xảy ra ở những nơi khác.
Những tin tức vừa đến thật khiến người ta rối trí. Công nương Salmakia, người gián điệp bé nhỏ, đã quan sát từ trong bóng tối khi hai cánh tay quyền lực của Giáo hội, Tòa án Công giáo Kỉ luật và Đoàn Hoạt động của Chúa Thánh Linh đồng ý gạt bỏ những khác biệt để cùng góp chung kiến thức. Đoàn Hoạt động có Chân Kế gia nhanh nhẹn và tài giỏi hơn Đan sĩ Pavel, nhờ có ông ta, giờ Tòa án Công giáo Kỉ luật đã biết được chính xác nơi ở của Lyra, và hơn thế nữa: Họ cũng biết rằng Ngài Asriel đã cử một đội quân đến giải cứu cô bé. Không phí một giây, Tòa án trưng dụng ngay một phi đội khí cầu zeppelin, rồi cùng ngày đó một tiểu đoàn Vệ binh Thụy Sĩ bắt đầu đổ quân lên những chiếc zeppelin đang đứng đợi trong bầu không khí tĩnh lặng bên cạnh hồ Geneva.
Vậy là mỗi bên đều ý thức được rằng bên kia cũng đang hướng tới hang động trong núi. Cả hai cũng biết rằng ai tới đó trước sẽ có lợi thế, nhưng không nhiều lắm: Xa thăng của Ngài Asriel bay nhanh hơn zeppelin của Tòa án Công giáo, nhưng họ phải bay xa hơn, lại bị hạn chế bởi tốc độ của chính chiếc zeppelin chở dầu của mình.
Ngoài ra còn một việc khác cần phải suy xét: Kẻ nào chiếm được Lyra trước sẽ phải chiến đấu với lực lượng còn lại để tìm đường thoát ra. Sẽ dễ dàng hơn cho Tòa án Công giáo, vì họ không cần phải quan tâm đến việc đưa Lyra đi một cách an toàn. Họ đang bay tới đó để giết cô bé.
Chiếc zeppelin chở Chủ tịch Tòa án Công giáo cũng đang chở những hành khách khác mà ông ta không hề hay biết. Hiệp sĩ Tialys đã nhận được một tin nhắn trên máy cộng hưởng đá nam châm của mình, ra lệnh cho ông và Công nương Salmakia phải trốn lên tàu. Khi những chiếc zeppelin đến thung lũng, ông và công nương phải độc lập đi trước và tới hang động nơi Lyra bị giam giữ, bảo vệ cô bé hết sức có thể cho tới khi đội quân của Quốc vương Ogunwe đến giải cứu. Sự an toàn của cô bé phải được đặt trên mọi vấn đề khác.
Việc lẻn lên khí cầu zeppelin là rất mạo hiểm đối với những mật thám này, đặc biệt là do những thiết bị mà họ phải mang theo. Ngoài chiếc máy cộng hưởng đá nam châm, những vật dụng quan trọng nhất là một cặp ấu trùng và thức ăn của chúng. Khi lũ côn trùng trưởng thành phá kén chui ra, chúng trông sẽ giống chuồn chuồn hơn bất cứ thứ gì khác, nhưng chúng không hề giống bất cứ loại chuồn chuồn nào mà con người ở thế giới của Will, hay của Lyra, từng nhìn thấy. Một ví dụ là nó lớn hơn rất nhiều. Người Gallivespia gây giống những sinh vật này rất cẩn thận, mỗi bộ tộc lại có những loài côn trùng khác với các tộc khác. Tộc của Hiệp sĩ Tialys nhân giống những con chuồn chuồn sọc đỏ và vàng dũng mãnh với tính háu ăn dữ dội và tàn bạo, trong khi thứ mà Công nương Salmakia đang nuôi dưỡng lại là một sinh vật mảnh dẻ, bay nhanh với cơ thể màu xanh ánh điện và năng lực phát sáng trong bóng tối.
Mỗi mật thám đều được trang bị một lượng ấu trùng như thế này, bằng cách cho ăn cẩn thận một lượng dầu và mật ong được điều chỉnh, chúng có thể kiềm chế mức độ linh hoạt, hoặc được đẩy nhanh đến giai đoạn trưởng thành. Tialys và Salmakia có ba mươi sáu tiếng, phụ thuộc vào gió, để cho nở những ấu trùng này; vì đó là thời gian bay, mà họ lại cần lũ côn trùng xuất kén trước khi đám zeppelin đáp xuống.
Hiệp sĩ và đồng nghiệp của mình tìm thấy một khoảng không bị che khuất phía sau một vách ngăn, họ cố gắng giữ cho mình an toàn nhất có thể trong lúc con tàu được chất hàng và nạp nhiên liệu; và rồi động cơ bắt đầu gầm lên, làm rung chuyển toàn bộ cấu trúc nhẹ bẫng này trong lúc các nhân viên mặt đất tản ra và tám chiếc zeppelin bay vào bầu trời đêm.
Người của họ hẳn sẽ cho rằng sự so sánh này là một sự xúc phạm khủng khiếp, nhưng ít nhất thì họ cũng có thể giấu mình không kém gì lũ chuột. Từ chỗ trốn của mình, những người Gallivespia có thể nghe lỏm được khá nhiều, đều đặn hằng giờ họ liên lạc với Ngài Roke, người đang ở trên xa thăng của Quốc vương Ogunwe.
Nhưng có một điều mà họ không thể tìm hiểu thêm được chút nào trên chiếc zeppelin, vì Chủ tịch không hề nhắc đến nó: Đó là vấn đề về vụ ám sát, Cha Gomez, kẻ đã được tha thứ trước cho tội ác mà mình sắp phạm phải nếu Tòa án Công giáo không hoàn thành được nhiệm vụ của mình, Cha Gomez đang ở nơi khác, và không có ai theo dấu ông ta cả.