- 10 - Những chiếc bánh xe
Từ trên biển hiện ra đám mây nhỏ, tựa như bàn tay người.
Sách Các Vua, Quyển 1
“Vâng,” con bé tóc đỏ nói, trong khu vườn của sòng bạc bị bỏ hoang. “Chúng con có thấy bà ta, cả con và Paolo đều thấy. Bà ta đi qua đây nhiều ngày trước.”
Cha Gomez nói: “Các con có nhớ trông bà ta như thế nào không?”
“Nhìn bà ta nóng nực lắm,” thằng nhóc nói. “Mặt đầm đìa mồ hôi, thật đấy.”
“Trông bà ta khoảng bao nhiêu tuổi?”
“Khoảng…” Đứa con gái nói trong lúc ngẫm nghĩ, “con đoán chắc là bốn mươi hay năm mươi gì đấy. Chúng con không nhìn gần. Có thể là ba mươi, chắc thế. Nhưng nhìn bà ta nóng lắm, như Paolo nói, bà ta mang một cái balô to, to hơn của Cha nhiều, to như thế này này…”
Paolo vừa thì thầm gì đó với con bé vừa nheo mắt lại để nhìn vị linh mục. Mặt trời đang chiếu sáng rực trên mặt ông ta.
“Phải rồi,” con bé nôn nóng nói, “chị biết rồi. Lũ Quỷ hút hồn,” nó quay lại nói với Cha Gomez, “bà ta không hề sợ Quỷ hút hồn. Bà ta cứ thế đi qua thành phố mà chẳng buồn lo sợ gì cả. Con chưa từng thấy một người trưởng thành nào như vậy cả, thật đấy. Thậm chí trông bà ta còn như thể không biết gì về chúng. Giống như cha đó,” con bé nói thêm trong lúc nhìn ông ta với ánh mắt thách thức.
“Có rất nhiều điều mà ta không biết,” Cha Gomez hòa nhã đáp. Thằng nhóc lại kéo tay áo của con bé và thì thầm.
“Paolo nói là,” con bé nói với vị linh mục, “nó nghĩ Cha sẽ lấy lại được con dao.”
Cha Gomez cảm thấy da gà trên người mình đang nổi lên. Ông nhớ lại lời khai của Đan sĩ Pavel trong cuộc thẩm tra tại Tòa án Công giáo: Đây hẳn phải là con dao mà ông ta nhắc tới.
“Nếu có thể,” ông nói, “ta sẽ làm. Con dao đến từ đây đúng không?”
“Từ Torre degli Angeli,” đứa con gái nói rồi chỉ vào ngọn tháp bằng đá to bè vượt lên trên những mái nhà màu nâu đỏ. Tòa tháp lấp lánh dưới ánh nắng chói chang của buổi trưa. “Còn thằng bé cướp mất con dao, nó đã giết anh Tullio của chúng con. Lũ Quỷ hút hồn đã tóm được anh ấy, thật đấy. Cha muốn giết thằng bé đó, không sao hết. Còn đứa con gái - nó là đồ nói dối, nó cũng tồi tệ chẳng kém gì thằng kia.”
“Còn có một đứa con gái nữa sao?” Linh mục nói, cố gắng không tỏ ra quá hào hứng.
“Đồ cặn bã dối trá,” đứa bé tóc đỏ nhổ nước bọt. “Chúng con suýt nữa thì giết được cả hai đứa rồi, nhưng đúng lúc đó có một đám phụ nữ kéo đến, những kẻ biết bay…”
“Phù thủy,” Paolo nói.
“Phù thủy, nên chúng con không đấu lại được. Họ mang chúng đi, đứa con gái và thằng con trai. Chúng con không biết họ đi đâu. Nhưng người phụ nữ kia thì đến sau. Chúng con nghĩ bà ta có khi lại mang theo một loại dao gì đấy, để xua bọn Quỷ hút hồn đi, thật đấy. Có khi cả Cha cũng có nữa,” nó nói thêm, hất cằm lên nhìn ông ta không chút e dè.
“Ta không có con dao nào cả,” Cha Gomez nói. “Nhưng ta mang theo một nhiệm vụ linh thiêng. Có lẽ đó là thứ đang bảo vệ ta khỏi lũ Quỷ hút hồn này.”
“Vâng,” đứa con gái nói, “có lẽ vậy. Nói chung là, nếu Cha muốn tìm bà ta thì cứ đi về phía nam, về phía những ngọn núi. Chúng con không biết ở đâu cả. Nhưng cha cứ hỏi bất cứ ai, họ sẽ biết ngay nếu bà ta đi qua, vì chẳng có ai giống như bà ta ở Ci’gazze cả, trước giờ đều không có. Tìm bà ta dễ lắm.”
“Cảm ơn con, Angelica,” linh mục nói. “Cầu phúc cho các con của ta.”
Ông ta đeo balô lên vai, rời khỏi khu vườn, rồi tiến bước qua những con phố lặng lẽ nóng nực, lòng đầy thỏa mãn.
•••
Sau ba ngày đồng hành cùng những sinh vật gắn bánh xe, Mary Malone biết thêm được phần nào về chúng, còn chúng thì hiểu được rất nhiều về bà.
Vào buổi sáng đầu tiên ấy, chúng chở bà đi trong khoảng một giờ gì đó dọc theo xa lộ đá bazan tới một khu định cư bên sông, hành trình đó thật chẳng dễ chịu chút nào; bà không có gì để bám vào, mà lưng của con vật thì lại cứng, chúng lao đi với một tốc độ khiến bà hoảng hồn, nhưng tiếng bánh xe của chúng phi rầm rầm trên mặt đường cứng và tiếng gõ lộp cộp của hai chân chạy thẳng đủ khiến bà phấn khởi mà quên đi cảm giác khó chịu.
Trên chặng đường cưỡi những sinh vật này, bà đã ý thức được nhiều hơn về sinh lí của chúng. Giống như lũ gặm cỏ, khung xương của chúng có dạng kim cương, mỗi góc mọc ra một cái cẳng. Vào một lúc nào đó trong quá khứ xa xôi, một nhánh của các sinh vật tổ tiên hẳn đã phát triển cấu trúc này và nhận thấy rằng nó rất hiệu quả, giống như những thế hệ của đám sinh vật bò trườn cách đây rất lâu ở thế giới của Mary đã phát triển xương sống ở chính giữa cơ thể.
Xa lộ đá bazan chạy thoải dần xuống thấp, một lúc sau thì dốc hơn, nhờ vậy đám động vật có thể lăn bánh thoải mái. Chúng co hai chân bên lên rồi bẻ hướng bằng cách ngả về bên này hoặc bên kia, phóng đi với vận tốc khiến Mary chết khiếp; dù cho bà cũng phải thừa nhận rằng con vật mà mình đang cưỡi không hề khiến bà cảm thấy tí chút nguy hiểm nào. Giá mà có thứ gì đó để bám vào thì hẳn bà đã thích thú lắm.
Dưới chân con dốc dài cả dặm là một rừng cây khổng lồ, và gần đó là một con sông uốn khúc trên mặt đất bằng phẳng phủ đầy cỏ xanh. Xa xa, Mary thấy lấp loáng một thứ gì đó giống như một miền nước rộng lớn, nhưng bà không nhìn nó lâu, vì đám động vật đang tiến về khu đất định cư bên bờ sông, mà bà thì đang sôi sục vì tò mò muốn nhìn thấy nó.
Có khoảng hai hay ba chục căn chòi, nhóm đại khái thành một vòng tròn, làm bằng - bà phải lấy tay che ánh nắng để nhìn - những cái rầm gỗ được phủ một loại hỗn hợp như phên trát đất trên tường và rạ trên mái nhà. Những sinh vật gắn bánh khác đang làm việc: có con thì sửa mái nhà, con khác kéo lưới lên khỏi sông, con lại đem cây bụi đến nhóm lửa.
Hóa ra chúng cũng có ngôn ngữ, có lửa, và có cả xã hội nữa. Cùng lúc đó bà nhận ra một sự điều chỉnh trong trí óc mình, khi từ sinh vật trở thành từ dân tộc. Những bản thể này không phải cùng giống loài với bà, nhưng họ là một dân tộc, bà tự nhủ; không phải là họ, họ là chúng ta.
Giờ thì họ đang ở khá gần rồi. Khi nhận thấy có thứ gì đang tới, vài cư dân trong làng ngẩng lên nhìn rồi gọi nhau ra xem. Đoàn đi trên đường chậm dần rồi dừng hẳn lại, Mary vất vả trèo xuống, biết rằng sớm muộn gì mình cũng sẽ đau nhức cả người.
“Cảm ơn,” bà nói với… cái gì nhỉ? Con ngựa của mình? Cái xe của mình? Cả hai ý tưởng này đều sai một cách ngớ ngẩn trước vật thể hòa nhã đứng bên cạnh bà. Bà quyết định chọn từ “bạn”.
Nó giương vòi lên bắt chước từ ngữ của bà:
“Caon,” nó nói, rồi cả bọn lại phá lên cười vui vẻ.
Bà lấy balô từ một con khác (caon! caon!) rồi cùng với họ bước khỏi lớp bazan để lên nền đất được nèn chặt của ngôi làng.
Lúc đó sự mê mải của bà mới thật sự bắt đầu.
Trong ít ngày tiếp theo bà đã học được nhiều tới mức cảm thấy mình như trở lại làm một đứa trẻ, bị trường học khiến cho bối rối. Còn hơn thế nữa, dân tộc gắn bánh dường như cũng kinh ngạc về bà không kém. Như bàn tay bà chẳng hạn. Họ không thấy chán với nó: những cái vòi mềm mại của họ mân mê từng khớp nối, lần tìm ngón cái, các đốt ngón và móng tay, nhẹ nhàng gập chúng lại, họ sửng sốt nhìn khi bà cầm balô lên, đưa thức ăn lên miệng, gãi, chải tóc, tắm rửa.
Đổi lại, họ để cho bà chạm vào vòi của mình. Chúng vô cùng mềm dẻo linh hoạt, dài khoảng bằng cánh tay bà, dày hơn ở chỗ gắn với đầu, và đủ khỏe để bóp nát sọ của bà, bà đoán vậy. Những mấu lồi ra như hai ngón tay ở chót vòi có khả năng tạo lực khủng khiếp nhưng cũng có thể cực kì nhẹ nhàng; những người này dường như có khả năng biến đổi chất liệu da từ bên trong, trên những điểm tương đương với đầu ngón tay, từ một lớp nhung mềm mại sang sự vững chắc như gỗ. Nhờ vậy, họ có thể dùng chúng cả cho một nhiệm vụ tinh tế như vắt sữa động vật ăn cỏ hay cho công việc nặng nhọc như bẻ và gọt giũa cành cây.
Từng chút một, Mary nhận ra rằng vòi của họ còn góp phần vào việc giao tiếp nữa. Chuyển động của cái vòi sẽ làm thay đổi ý nghĩa của một âm thanh, nên từ nghe như tiếng “chu” có nghĩa là nước khi đi kèm với một cái hất vòi từ trái sang phải, “mưa” khi đỉnh vòi cuộn lên, “nỗi buồn” khi nó cuộn vòng xuống, và “cỏ non” khi nó búng nhanh sang trái. Ngay khi nhận ra điều này, Mary liền bắt chước theo, cố gắng hết sức để cử động tay theo cùng một cách đó, và khi đám sinh vật nhận ra rằng bà đang bắt đầu nói chuyện với mình, niềm vui khiến họ trở nên thật rạng rỡ.
Khi đã bắt đầu nói chuyện (hầu hết là bằng tiếng của họ, mặc dù bà cũng dạy được cho họ vài từ tiếng Anh: Họ có thể nói “caon”, “cỏ”, “cây”, “trời”, “sông”, và phát âm tên của bà nữa, dù hơi khó khăn một chút) họ tiến triển vô cùng nhanh chóng. Từ họ dùng để mô tả dân tộc mình là mulefa, nhưng một cá nhân thì lại là zalif. Mary cho rằng có sự khác biệt giữa hai âm zalif giống đực và zalif giống cái nhưng nó quá tinh vi để có thể nhận ra được. Bà bắt đầu ghi lại tất cả những điều đó và biên soạn thành một cuốn từ điển.
Nhưng trước khi để cho bản thân trở nên quá mê mải, bà lấy cuốn sách bìa mềm rách nát và những nhành cỏ thi ra, rồi hỏi Kinh Dịch: Tôi có nên ở đây làm việc này không, hay là nên đi đâu đó khác và tiếp tục tìm kiếm?
Câu trả lời là: Cứ ở yên, để cho cảm giác bồn chồn tan biến; vượt qua sự xáo động, ta có thể lĩnh hội những quy luật vĩ đại.
Nó nói tiếp: Giống như một ngọn núi giữ yên trong cốt lõi, vì vậy một người thông thái sẽ không cho phép ý chí của mình vẩn vơ khỏi hoàn cảnh hiện tại.
Lời khuyên không thể rõ ràng hơn. Bà cất những nhành cỏ đi rồi gập sách lại, chỉ khi đó bà mới nhận ra mình đã thu hút một vòng tròn những sinh vật đang đứng quan sát xung quanh.
Một trong số đó nói: Câu hỏi? Cho phép? Tò mò ghê.
Bà đáp: Nhìn này.
Rất khéo léo, họ cử động những cái vòi, sắp xếp các nhành cỏ theo cách mà bà đã đếm chúng, hay lật những trang của cuốn sách. Một điều khiến họ kinh ngạc là khả năng làm hai việc của bàn tay bà: Bởi sự thật là cùng một lúc bà có thể vừa cầm sách, vừa lật trang. Họ thích thú quan sát bà đan những ngón tay lại với nhau, chơi trò chơi thuở nhỏ “Đây là nhà thờ, còn đây là tháp chuông[3]”, hay thực hiện động tác liên tục chạm ngón cái vào ngón trỏ đối diện, chính là động tác mà Ama sử dụng, cũng đúng vào lúc đó tại thế giới của Lyra, như một thứ bùa xua đuổi những linh hồn ác độc.
Sau khi đã kiểm tra những nhành cỏ thi và cuốn sách, họ cẩn thận gập lớp vải lên trên rồi cho chúng cùng với cuốn sách vào balô của bà. Bà rất mừng và an tâm nhờ thông điệp đến từ Trung Hoa cổ đại, vì nó có nghĩa là việc mà bà đang muốn làm nhất vào thời điểm này lại chính xác là điều bà nên làm.
Vậy là bà quyết định sẽ tìm hiểu thêm về những người mulefa này, trong lòng mừng rỡ khôn tả.
Bà biết được rằng có hai giới tính, và rằng họ sống thành đôi một vợ một chồng. Con cháu của họ có một tuổi thơ dài: ít nhất là mười năm, lớn lên rất chậm, theo như những gì bà có thể dịch lại từ lời giải thích của họ. Ở khu định cư này có năm trẻ con, một đã gần trưởng thành còn số khác thì ở khoảng giữa. Do có kích thước nhỏ hơn khi chưa trưởng thành nên số ấy không thể mang theo những cái bánh xe từ vỏ hạt cây. Trẻ con sẽ phải di chuyển giống như lũ động vật ăn cỏ, với cả bốn chân trên mặt đất, nhưng với năng lượng và tính thích phiêu lưu của mình (nhảy cẫng lên người Mary rồi lại ngượng ngùng bỏ đi, cố gắng trèo lên thân cây, ì oạp lội trong vùng nước nông, vân vân) họ lại tỏ ra khá vụng về, như thể không ở trong đúng môi trường sống của mình vậy. Ngược lại, tốc độ, sức mạnh và vẻ duyên dáng của họ khi trưởng thành lại khiến người ta sững sờ, và Mary có thể thấy một đứa trẻ đang lớn khao khát nhường nào đến cái ngày mà những cái bánh xe có thể gắn vừa. Một ngày nọ, bà quan sát đứa trẻ lớn nhất lặng lẽ vào cái kho cất giữ vỏ hạt, và cố gắng nhét vuốt trước của nó vào lỗ hổng ở trung tâm; nhưng khi cố gắng đứng dậy nó lập tức ngã vật ra, móng bị mắc lại, tiếng động đó đã khiến một người lớn chú ý. Đứa trẻ vùng vẫy cố thoát ra, kêu rít lên vì hoảng sợ, khiến Mary không thể ngăn mình phá lên cười trước cảnh tượng đó, trước cảnh vị phụ huynh đang tức tối và đứa trẻ đang xấu hổ, kẻ đã thoát được ra vào phút cuối cùng rồi chạy vụt đi.
Những cái bánh xe vỏ hạt rõ ràng là thứ cực kì quan trọng, không lâu sau Mary đã bắt đầu thấy được chúng đáng quý đến chừng nào.
Đầu tiên là dân mulefa dành rất nhiều thời gian để bảo trì số bánh xe của mình. Bằng cách khéo léo nâng lên và xoay móng, họ có thể lấy nó ra khỏi lỗ cắm, rồi sau đó họ có thể dùng vòi kiểm tra toàn bộ cái bánh, lau rửa vành, kiểm tra các vết nứt. Móng của họ cực kì khoẻ: Đó là một cái cựa bằng sừng hay xương được cắm một góc chuẩn vào chân, hơi cong lên để phần cao nhất ở giữa chịu sức nặng khi nó tựa vào phần bên trong của cái lỗ. Một ngày nọ, Mary quan sát một zalif kiểm tra cái lỗ trong bánh xe trước của mình, chạm vào chỗ này chỗ kia, nâng mũi lên không trung rồi lại hạ xuống như đang thử mùi.
Mary nhớ đến thứ dầu bà đã thấy trên những ngón tay của mình khi kiểm tra cái vỏ hạt đầu tiên. Với sự cho phép của zalif đó, bà nhìn móng của cô ta và thấy bề mặt của cái bánh xe mịn và trơn hơn bất cứ thứ gì bà từng chạm vào ở thế giới của mình. Những ngón tay bà cứ tuột đi, không thể giữ nguyên trên bề mặt. Toàn bộ cái móng dường như thấm đẫm thứ dầu thoang thoảng hương thơm. Sau khi đã quan sát một số lượng dân làng lấy mẫu, thử, kiểm tra tình trạng bánh xe và móng của mình, bà bắt đầu tự hỏi không hiểu cái nào xảy ra trước: Bánh xe hay móng? Người lái hay cây?
Mặc dù đương nhiên là vẫn còn một yếu tố thứ ba nữa, và đó là địa chất học. Các sinh vật chỉ có thể dùng bánh xe tại một thế giới cung cấp cho họ những xa lộ tự nhiên. Hẳn phải có một đặc điểm nào đó trong thành phần khoáng chất của những dòng dung nham này khiến chúng chảy thành những đường như ruy băng trên vùng đồng cỏ xavan rộng lớn, lại bền trước mưa gió và nứt gãy đến vậy. Dần dần Mary bắt đầu hiểu được cách mà mọi thứ liên kết với nhau, và toàn bộ những thứ này xem ra đều được người mulefa quản lí. Họ biết vị trí của mọi bầy động vật ăn cỏ, mọi cánh rừng cây bánh xe, mọi bụi cỏ ngọt, và họ biết mọi cá nhân trong bầy, mọi cái cây riêng biệt, họ thảo luận về mức độ hạnh phúc và số phận của mình. Có dịp bà đã thấy người mulefa lọc một bầy động vật ăn cỏ, chọn ra vài cá thể rồi tách chúng ra khỏi số còn lại, để rồi giết chúng bằng cách bẻ gãy cổ chúng nhờ một cú vặn từ cái vòi đầy uy lực. Không có gì bị lãng phí cả. Vừa giữ những mảnh đá dẹt sắc như dao cạo bằng vòi, người mulefa vừa lột da và moi ruột của những con vật này chỉ trong vài phút. Sau đó quá trình mổ xẻ đầy điêu luyện bắt đầu, tách riêng những phần bỏ đi, thịt mềm và các khớp nối cứng, gợt bỏ mỡ, cắt sừng và móng guốc. Mọi việc diễn ra hiệu quả đến mức khi quan sát, Mary cảm thấy hài lòng như mỗi khi thấy một việc gì đó được làm tốt.
Chẳng bao lâu sau những dải thịt đã được phơi lên để làm khô dưới ánh nắng, số khác thì được bọc trong muối và quấn lá cây; lớp da được cạo sạch mỡ, để sử dụng sau, rồi ngâm trong những hồ nước chứa đầy vỏ cây sồi để thuộc. Đứa trẻ lớn nhất đang chơi đùa với bộ sừng, giả vờ làm thú ăn cỏ, khiến những đứa khác phá lên cười. Tối hôm đó thịt tươi được dọn ra, và Mary ăn uống thỏa thuê.
Cũng tương tự như vậy, người mulefa biết ở đâu có cá ngon nhất, và biết chính xác phải đặt lưới vào lúc nào, ở đâu. Vì muốn kiếm việc gì đó mình có thể làm, Mary tới chỗ những người đan lưới và đề nghị được giúp đỡ. Khi thấy cách họ làm việc, không phải một mình mà là theo từng đôi, cùng nhau dùng vòi để thắt một cái nút, bà nhận ra họ đã kinh ngạc đến thế nào trước đôi bàn tay của bà, vì hẳn nhiên là bà có thể tự mình thắt nút. Ban đầu bà nghĩ rằng điều này là một lợi thế đối với mình - bà không cần ai khác; nhưng rồi bà nhận ra điều ấy đã chia cắt mình khỏi những người khác như thế nào. Có lẽ con người ai cũng vậy. Vậy là kể từ đó, bà chỉ dùng một tay để thắt các sợi dây, chia sẻ công việc với một zalif nữ, người đã trở thành người bạn đặc biệt của bà, những ngón tay và vòi cùng nhau di chuyển vào và ra.
Nhưng trong tất cả các sinh vật sống mà những người gắn bánh quản lí, đám cây vỏ hạt là thứ mà họ quan tâm chăm sóc nhất.
Trong khu vực có sáu khu rừng được nhóm này quản lí. Ở xa hơn còn có những khu rừng khác, nhưng chúng thuộc trách nhiệm của các nhóm khác. Mỗi ngày một đội sẽ đi ra kiểm tra tình trạng sức khỏe của những thân cây khổng lồ này, và để thu lượm bất cứ vỏ hạt nào bị rơi xuống. Lợi ích về phía người mulefa thì đã rõ; nhưng những cái cây này thì được lợi gì từ việc trao đổi này? Đến một ngày bà đã biết được. Trong lúc bà đang đi cùng cả nhóm, đột nhiên có một tiếng rắc rất lớn vang lên, tất cả liền dừng lại và vây lấy một cá nhân đang bị vỡ bánh xe. Mỗi nhóm đều mang theo một hay hai bánh xe dự trữ, nhờ vậy zalif bị vỡ bánh đã sớm được thay thế; nhưng bản thân bánh xe bị vỡ lại được bọc rất cẩn thận bằng vải rồi mang trở về khu định cư.
Ở đó họ nạy mở nó và lấy toàn bộ số hạt bên trong ra - những cái hạt hình trái xoan dẹt và nhạt màu, to bằng móng tay út của Mary - sau đó cẩn thận kiểm tra từng cái một. Họ giải thích rằng những cái vỏ hạt cần được đập thường xuyên trên mặt đường cứng nếu muốn nứt ra được, ngoài ra hạt cũng rất khó nảy nầm. Nếu không có sự chăm sóc của người mulefa, loài cây này sẽ bị diệt vong. Mỗi loài lại phụ thuộc vào loài khác, hơn thế nữa, chính dầu là thứ khiến điều này trở nên khả thi. Khó có thể hiểu được, nhưng dường như họ đang nói rằng chất dầu đó là trung tâm của những suy nghĩ và cảm xúc của họ; rằng trẻ con không có sự thông thái của người lớn vì chúng không thể dùng bánh xe, và vì vậy không thể hấp thu chút dầu nào qua móng.
Và đó là khi Mary bắt đầu thấy được mối liên hệ giữa người mulefa và câu hỏi đã choán lấy tâm trí bà trong suốt vài năm qua.
Nhưng trước khi bà có thể kiểm tra sâu hơn (những cuộc đối thoại với người mulefa đều dài dòng và phức tạp, vì họ thích thẩm định, giải thích và minh họa lí lẽ của mình bằng hàng chục ví dụ, cứ như thể họ không bao giờ quên điều gì, và mọi thứ họ từng biết đến đều lập tức sẵn sàng để tham khảo vậy) khu định cư đã bị tấn công.
Mary là người đầu tiên nhìn thấy những kẻ tấn công tới, dù bà không biết chúng là gì.
Sự việc xảy ra vào giữa buổi chiều, khi bà đang giúp sửa mái một căn chòi. Người mulefa chỉ xây nhà một tầng, vì họ không có khả năng leo trèo; nhưng Mary thì rất vui được trèo lên cao khỏi mặt đất, bà lại có thể đặt rơm rạ và buộc chúng vào đúng chỗ bằng hai bàn tay, sau khi họ đã cho bà xem kĩ thuật của mình, nhanh hơn nhiều so với họ.
Vậy là khi đang được buộc vào rui của một mái nhà, bắt lấy những bó sậy được ném lên cho mình, và tận hưởng làn gió mát từ mặt nước đang làm dịu đi cái nóng của mặt trời, mắt bà bị thu hút bởi một luồng sáng màu trắng lóe lên.
Nó tới từ một thứ lấp lánh ở đằng xa mà bà nghĩ là mặt biển. Bà lấy tay che mắt, và thấy một - hai - nhiều hơn nữa - một hạm đội những con tàu cánh buồm cao lớn màu trắng, hiện ra từ bầu không khí loang loáng vì hơi nóng, vẫn còn ở xa nhưng đang tiến lại phía cửa sông bằng một vẻ thanh nhã trong câm lặng.
Mary! Zalif ở phía dưới gọi. Bà đang thấy gì vậy?
Bà không biết từ vựng của buồm, hay tàu, nên bà nói cao, trắng, nhiều.
Ngay lập tức zalif ấy kêu lên báo động, khiến tất cả mọi người trong tầm nghe dừng công việc lại và phóng thật nhanh đến trung tâm của khu định cư, gọi đám trẻ ra. Chỉ trong vòng một phút toàn bộ người mulefa đã sẵn sàng bỏ chạy.
Atal, bạn của bà, gọi: Mary! Mary! Đến đây! Tualapi! Tualapi!
Mọi chuyện diễn ra nhanh chóng tới mức Mary gần như không kịp cử động. Vào lúc này những con thuyền buồm đã vào tới sông, dễ dàng lao ngược dòng mà tiến tới. Sự rèn luyện của các thủy thủ gây ấn tượng với Mary: họ trở buồm trong thoáng chốc, những cánh buồm chuyển động cùng nhau như một đàn chim sáo đá, tất cả đồng loạt đổi hướng. Những cánh buồm mảnh mai, trắng như tuyết đang cong lên, trùng xuống rồi lại căng phồng trông thật lộng lẫy…
Ít nhất cũng phải có đến bốn mươi con tàu, chúng đang leo lên dòng sông nhanh hơn là bà nghĩ. Nhưng bà không thấy thủy thủ nào trên tàu, rồi bà nhận ra rằng chúng hoàn toàn không phải là tàu: Chúng là những con chim khổng lồ, còn các cánh buồm là cánh của chúng, một cái ở trên đầu và một cái phía cuối, được dựng thẳng lên, cong lại gọn gàng nhờ sức lực cơ bắp của chính chúng.
Nhưng bà chẳng có thời gian ngần ngừ để mà nghiên cứu, vì chúng đã tới bờ và đang leo lên. Chúng có cổ giống thiên nga và mỏ dài như cẳng tay của bà vậy. Cánh của chúng dài gấp đôi chiều cao của bà, và - giờ thì bà đang hoảng hốt, vừa ngoái lại nhìn qua vai vừa chạy - chúng có đôi chân cực kì khoẻ: Chẳng trách chúng bơi trên nước nhanh được đến thế.
Bà chạy thật lực theo sau những người mulefa đang gọi tên mình trong lúc túa ra khỏi khu định cư để lên đường cái. Bà tới được chỗ họ vừa kịp lúc: Người bạn Atal của bà đang đứng đợi, ngay khi Mary trèo lên lưng, cô liền lao ra đường, phóng thật nhanh lên dốc để đuổi theo các bạn mình.
Lũ chim không thể chạy nhanh trên mặt đất nên đã sớm từ bỏ cuộc rượt đuổi và quay trở lại khu định cư.
Chúng xé toang các kho thực phẩm, gầm gừ, rền rĩ, hất những cái mỏ khổng lồ đầy tàn bạo lên cao khi nuốt gọn số thịt sấy cùng toàn bộ hoa quả và thóc lúa dự trữ. Mọi thứ ăn được đều bay biến chỉ trong chưa đầy một phút.
Sau đó lũ tualapi tìm được kho chứa bánh xe và định đập vỡ những cái vỏ hạt khổng lồ, nhưng việc đó quá sức với chúng. Mary cảm thấy xung quanh mình, những người bạn đang căng thẳng và hoảng sợ khi họ đứng nhìn từ đỉnh một ngọn đồi thấp và thấy hết vỏ này đến vỏ kia bị lẳng xuống mặt đất, đá, nạo bởi móng của những cái chân đồ sộ, nhưng hẳn nhiên là chừng đó chẳng làm tổn hại gì đến chỗ vỏ hạt. Điều khiến người mulefa lo lắng là vài cái vỏ đã bị đẩy và huých về phía mặt nước, nơi chúng nặng nề trôi xuống về phía biển.
Rồi những con chim trắng tuyết vĩ đại bắt đầu phá hủy tất cả mọi thứ chúng thấy bằng những cú đạp chân tàn bạo và những động tác đâm, đập, lắc, xé. Đám mulefa đứng quanh bà đang rì rầm, gần như rên lên vì đau đớn.
Tôi giúp, Mary nói. Chúng ta làm lại.
Nhưng những con vật xấu xa vẫn chưa chịu thôi; giương đôi cánh xinh đẹp lên cao, chúng ngồi xổm giữa đống đổ nát và xả sạch ruột. Mùi hôi thối bốc theo gió lên trên con dốc; những đống và hồ phân xanh - đen - nâu - trắng nằm giữa những xà nhà gãy vụn, rơm rạ rải rác. Rồi, với dáng vẻ nghênh ngang khệnh khạng do cử động vụng về trên cạn, lũ chim quay trở về mặt nước và lái xuống hạ lưu về phía biển.
Chỉ khi cái cánh trắng cuối cùng biến mất trong ánh sáng lờ mờ của trời chiều, những người mulefa mới lại đổ xuống xa lộ. Đau buồn và tức giận bao trùm lấy họ, nhưng cái chính là họ cực kì lo lắng về kho chứa vỏ hạt.
Trong số mười lăm cái vỏ đã ở đó, giờ chỉ còn có hai. Số còn lại đã bị đẩy xuống nước và biến mất dạng. Nhưng ở khúc uốn tiếp theo của con sông có một bờ cát, Mary nghĩ mình có thể thấy được một cái bánh xe đang mắc lại ở đó; vậy là trước sự sửng sốt và lo lắng của đám người mulefa, bà cởi quần áo, quấn một đoạn dây thừng quanh eo rồi bơi về phía nó. Trên bờ cát, bà tìm thấy không chỉ một mà là năm cái bánh xe quý giá, bà luồn dây qua phần giữa đã được làm mềm của chúng rồi nặng nề bơi về, kéo theo chúng phía sau.
Những người mulefa tỏ ra biết ơn sâu sắc. Bản thân họ chưa từng bước xuống nước mà chỉ bắt cá từ trên bờ trong lúc cẩn thận không làm ướt chân và bánh xe. Mary cảm thấy rằng cuối cùng mình cũng đã làm được điều gì đó có ích cho họ.
Tối hôm đó, sau một bữa ăn đạm bạc chỉ có rễ cây ngọt, họ giải thích với bà lí do vì sao mình lại lo lắng cho đám bánh xe đến vậy. Đã từng có thời số lượng vỏ hạt rất phong phú, khi đó thế giới thật dồi dào và tràn ngập sự sống, người mulefa sống với niềm hạnh phúc bất diệt cùng những cái cây của họ. Nhưng cách đây nhiều năm đã có một việc tồi tệ xảy ra; một phần đức hạnh đã biến mất khỏi thế giới; vì bất chấp mọi nỗ lực, mọi tình yêu thương và quan tâm chú ý mà người mulefa dành cho chúng, những cái cây vỏ bánh xe vẫn cứ chết dần chết mòn.