- 11 -
Sự thật được nói với dụng ý xấu
Đánh bại mọi lời dối trá có thể nghĩ ra.
William Blake
Ama trèo lên lối mòn dẫn tới hang động, bánh mì và sữa đựng trong chiếc túi đeo sau lưng, trái tim cô vẩn vơ một cảm giác khó xử. Làm cách nào có thể đến gần cô bé đang ngủ được đây?
Cô tới tảng đá nơi người phụ nữ đã dặn mình để lại đồ ăn ở đó rồi đặt đồ xuống. Nhưng cô không đi thẳng về nhà mà trèo vào sâu hơn một chút, đi quá hang động, qua rặng đỗ quyên dày đặc, rồi lên cao hơn nữa cho tới chỗ cây cối trở nên thưa thớt và cầu vồng bắt đầu xuất hiện.
Tại đó cô bé và linh thú của mình chơi một trò chơi: Chúng trèo lên trên bãi đá cạn, quanh những thác nước nhỏ màu trắng xanh, quá những xoáy nước và qua đám bọt tung nhuộm màu quang phổ, cho tới khi tóc cô, mí mắt của cô, và lông con linh thú sóc được hàng triệu hạt trân châu tí hon kết từ hơi ẩm đính khắp nơi. Mục tiêu của trò chơi là lên tới được đỉnh mà không chùi mắt, dù có bị cám dỗ đến thế nào đi nữa. Chẳng bao lâu sau, ánh nắng lấp lánh đã chia tách thành đỏ, vàng, lục, lam, và đủ mọi sắc độ nằm giữa, nhưng cô không được phép dụi mắt để nhìn rõ hơn cho đến khi lên được tới đỉnh, nếu không sẽ bị thua cuộc.
Con linh thú Kulang của cô nhảy lên tảng đá ở rìa thác nước nhỏ nằm trên cùng, và cô bé biết rằng nó sẽ quay lại ngay lập tức để đảm bảo rằng cô không gạt nước đọng ra khỏi lông mi - thế nhưng nó lại không làm.
Thay vì vậy nó lại bám chặt vào chỗ đó, mắt nhìn đăm đăm về phía trước.
Ama dụi mắt, vì cuộc chơi đã bị hủy bỏ do sự ngạc nhiên mà linh thú của cô đang cảm nhận thấy. Khi rướn người lên để nhìn qua gờ đá, cô bé há hốc mồm và đứng chết lặng, vì thứ đang nhìn xuống cô là gương mặt của một sinh vật cô chưa từng thấy bao giờ: một con gấu, nhưng to lớn khủng khiếp, kinh hãi, gấp bốn lần kích thước của loài gấu nâu sống trong rừng, lại có màu trắng ngà với cái mũi đen và đôi mắt đen, các móng vuốt dài như dao găm. Nó chỉ đứng cách đó có một sải tay. Cô bé có thể thấy rõ từng sợi lông trên đầu con gấu.
“Ai đó?” Tiếng con trai vang lên. Mặc dù Ama không thể hiểu được ngôn ngữ đó, cô vẫn dễ dàng đoán được ý nghĩa của nó.
Một lúc sau thằng bé xuất hiện bên cạnh con gấu: vẻ mặt dữ dằn, mắt cau có và cằm dô ra. Còn cái thứ dạng chim bên cạnh nó có phải là linh thú không? Nhưng đó quả là một con chim kì lạ: chẳng giống loài nào cô bé từng thấy trước đây. Nó bay đến chỗ Kulang rồi nói ngắn gọn: Bạn bè. Chúng tôi không làm hại các bạn đâu.
Con gấu trắng vĩ đại không hề nhúc nhích.
“Lên đi,” thằng bé nói, và lại một lần nữa con linh thú giải nghĩa câu đó cho cô.
Vừa nhìn con gấu với sự kinh ngạc có phần mê tín, Ama trèo lên bên cạnh dòng thác nhỏ rồi ngượng ngùng đứng trên lớp đá. Kulang biến thành bươm bướm rồi đậu trên má cô bé một lúc, nhưng rồi nó rời khỏi đó để rập rờn bay quanh con linh thú đang ngồi im trên bàn tay của thằng bé kia.
“Will,” thằng bé nói, chỉ vào bản thân, và cô đáp lại: “Ama.” Giờ thì cô có thể nhìn rõ cậu, cô cảm thấy sợ hãi trước cậu bé gần như còn hơn cả con gấu: Cậu có một vết thương tồi tệ: hai ngón tay đã bị đứt mất. Cô cảm thấy choáng váng khi nhìn thấy nó.
Con gấu quay đi về phía dòng suối trắng đục rồi đầm mình vào làn nước như thể để làm mát bản thân. Linh thú của cậu bé bay lên không trung rồi cùng Kulang bay lượn giữa những dải cầu vồng, dần dần chúng bắt đầu hiểu được nhau.
Mà hóa ra điều họ đang tìm kiếm lại không phải gì ngoài một hang động với một cô bé đang say ngủ!
Những từ ngữ lắp bắp tuôn ra trong câu trả lời của cô bé: “Em biết nó ở đâu! Chị ấy đang bị một người phụ nữ tự nhận là mẹ ép ngủ, nhưng làm gì có người mẹ nào tàn nhẫn như thế, đúng không? Bà ta bắt chị ấy uống thứ gì đó để tiếp tục ngủ, nhưng em có thảo dược giúp chị ấy tỉnh dậy, chỉ cần có thể đến được chỗ chị ấy!”
Will chỉ có thể lắc đầu chờ cho Balthamos dịch lại. Việc đó tốn mất hơn một phút.
“Iorek,” cậu gọi, con gấu liền ục ịch di chuyển dọc theo nền suối trong lúc liếm láp bộ răng, vì nó vừa mới nuốt gọn một con cá. “Iorek,” Will nói, “cô bé này nói rằng mình biết Lyra đang ở đâu. Tôi sẽ đi cùng xem sao, trong lúc đó ông hãy ở đây canh chừng nhé.”
Iorek Byrnison, vững chãi đứng trong dòng suối, lặng lẽ gật đầu. Will giấu balô đi rồi buộc chắc con dao trước khi trèo xuống qua những dải cầu vồng cùng với Ama. Cậu phải chùi mắt và nhòm qua ánh sáng chói lòa để xem chỗ nào đủ an toàn để đặt chân, sương mù lạnh giá ngập tràn trong không khí.
Khi xuống đến dưới chân những con thác, Ama nói rằng chúng phải đi cẩn thận và không phát ra tiếng động nào. Will theo sau cô bé xuống dưới con dốc, giữa các tảng đá phủ đầy rêu và những thân cây thông vĩ đại lỉa chỉa đầu mấu nơi những hạt nắng lấm tấm nhún nhảy theo một vũ điệu màu xanh rực rỡ, và hàng ngàn vạn con côn trùng nhỏ xíu ca hát râm ran. Cứ thế chúng đi xuống thấp, thấp hơn nữa, vậy mà mặt trời vẫn theo chân vào tới tận sâu cùng trong thung lũng, trong lúc phía trước mặt những cành cây không ngừng đung đưa trên bầu trời quang đãng.
Rồi Ama dừng lại. Will nép mình vào phía sau một thân tuyết tùng đồ sộ, quan sát vị trí mà cô bé đang chỉ. Qua một mảng chằng chịt cành lá, cậu nhìn thấy sườn một vách núi mọc lên ở bên phải, và trên cao nửa chừng…
“Phu nhân Coulter,” cậu thì thào, tim đập thình thịch.
Người phụ nữ hiện ra từ đằng sau tảng đá, đang giũ một cành cây dày lá trước khi thả rơi nó và phủi tay. Bà ta đang quét sàn à? Tay áo xắn lên, còn tóc được vấn cao bằng một chiếc khăn choàng. Will chẳng bao giờ có thể tưởng tượng được bà ta trông lại có thể đảm đang đến thế.
Nhưng rồi một vệt màu vàng lóe lên, và con khỉ xấu xa đó xuất hiện, nhảy lên vai bà. Như thể đang nghi ngờ một điều gì đó, họ nhìn khắp xung quanh, và đột nhiên Phu nhân Coulter trông không còn đảm đang nữa.
Ama đang thì thào vẻ khẩn cấp: Cô bé sợ con linh thú khỉ vàng; nó thích giật lìa cánh của lũ dơi trong lúc chúng vẫn còn sống.
“Có ai khác ở cùng với bà ta không?” Will hỏi. “Không có lính canh hay gì đó à?”
Ama không biết. Cô bé chưa từng thấy lính canh, nhưng mọi người có nhắc đến những gã đàn ông kì quặc và đáng sợ, có khi là ma cũng nên, được nhìn thấy trên sườn núi vào buổi đêm… Nhưng trên núi thì lúc nào chẳng có ma, mọi người đều biết vậy. Nên có khi chúng chẳng liên quan gì đến người phụ nữ cả.
Chà, Will nghĩ, nếu Lyra đang ở trong động mà Phu nhân Coulter không chịu rời đi thì mình sẽ phải đến chào hỏi thôi vậy.
Cậu hỏi: “Cái thứ thuốc mà em có này là gì vậy? Cần phải làm gì với nó để đánh thức cậu ấy dậy?”
Ama giải thích.
“Vậy bây giờ nó đang ở đâu?”
Ở nhà, cô bé đáp. Đã được giấu kĩ.
“Được rồi. Cứ đợi ở đây đừng lại gần. Khi gặp bà ta, em không được nói là biết anh. Em chưa từng thấy anh hay con gấu. Lần tiếp theo em mang thức ăn cho bà ta là bao giờ?”
Nửa tiếng trước khi mặt trời lặn, linh thú của Ama đáp.
“Lúc đó hãy mang theo thuốc đến,” Will nói. “Anh sẽ gặp lại em ở đây.”
Cô bé lo lắng nhìn cậu bước đi trên lối mòn. Chắc chắn cậu bé không tin điều cô vừa nói về con linh thú khỉ, nếu không cậu đã chẳng liều lĩnh bước đi như vậy lên hang động.
Thật ra Will cảm thấy rất bồn chồn. Mọi giác quan của cậu dường như đều được tăng cường, vì vậy cậu để ý thấy những con côn trùng nhỏ nhất lơ lửng trong những tia nắng, tiếng từng chiếc lá xào xạc và chuyển động của mây trời phía trên cao, dù cho mắt cậu chưa từng rời khỏi miệng hang.
“Balthamos,” cậu thì thầm, con linh thú thiên thần liền bay lên vai cậu trong dạng một con chim nhỏ có đôi mắt sáng và đôi cánh màu đỏ. “Đừng rời khỏi tôi nhé, và nhớ quan sát con khỉ kia.”
“Vậy thì nhìn sang bên phải đi,” Balthamos nói cụt lủn.
Will nhìn thấy một mảng sáng lấp lánh màu vàng ở cửa động có mặt mũi đầy đủ, nó đang nhìn họ. Họ chỉ còn cách đó không đầy hai mươi bước. Cậu đứng im, con khỉ vàng liền quay đầu nhìn vào trong động, nói gì đó, rồi quay lại.
Will lần tìm chuôi dao rồi bước tiếp.
Khi cậu lên tới động, người phụ nữ đã ở đó chờ sẵn.
Bà ta đang ngồi thư thả trong chiếc ghế nhỏ bằng vải bạt, một cuốn sách đặt trong lòng, điềm tĩnh nhìn cậu bé. Bà mặc đồ du hành bằng vải kaki, nhưng do được may đo vừa vặn, lại cộng với dáng người thanh nhã của bà, nên trông bộ đồ như thể một loại thời trang cao cấp nhất của cao cấp vậy. Còn cành hoa nhỏ màu đỏ tươi mà bà đính trên ngực áo trông chẳng khác nào thứ đá quý thanh nhã nhất. Mái tóc bà lấp lánh, đôi mắt đen long lanh, còn đôi chân trần rực lên ánh vàng dưới nắng sớm.
Bà mỉm cười. Suýt nữa thì Will cũng cười đáp lại, vì cậu không quen với sự ngọt ngào và dịu dàng mà một người phụ nữ có thể truyền vào một nụ cười, nó khiến cậu rối trí.
“Cháu là Will,” bà cất tiếng bằng một giọng trầm khiến người ta mê mẩn.
“Làm sao bà biết tên tôi?” Cậu dữ dằn nói.
“Lyra đã nhắc đến nó trong giấc ngủ.”
“Cậu ấy đâu?”
“Vẫn an toàn.”
“Tôi muốn gặp cậu ấy.”
“Vậy thì vào đây,” bà ta nói rồi đứng dậy, thả cuốn sách lên trên ghế.
Lần đầu tiên kể từ lúc có sự hiện diện của bà, Will quay sang nhìn con linh thú khỉ. Nó có bộ lông dài bóng mượt, mỗi sợi dường như đều được làm từ vàng nguyên chất, cao cấp hơn nhiều so với vàng của con người, còn khuôn mặt nhỏ nhắn và đôi tay của nó thì có màu đen. Lần trước Will đã thấy gương mặt đó, méo mó vì căm hờn, vào buổi tối khi cậu và Lyra trộm lại chiếc Chân Kế từ Ngài Charles Latrom trong dinh thự ở Oxford. Con khỉ đã định dùng răng giằng xé cậu cho tới khi Will chém tới lui bằng con dao của mình, buộc con linh thú phải lùi lại để cậu có thể đóng ô cửa sổ và tách biệt ở một thế giới khác. Will nghĩ rằng chẳng có gì trên trái đất có thể khiến cậu quay lưng lại với con khỉ vào lúc này.
Nhưng Balthamos trong dạng chim đang theo dõi rất chăm chú, Will bèn cẩn thận bước lên nền động rồi đi theo Phu nhân Coulter tới chỗ dáng người nhỏ bé đang nằm bất động trong bóng tối.
Cô bé đang ở đó, người bạn thân thiết nhất của cậu, say trong giấc nồng. Trông cô mới nhỏ bé làm sao! Cậu kinh ngạc khi nhận ra một Lyra khi thức đầy uy lực và nhiệt huyết lại có thể mang vẻ dịu dàng mềm mỏng đến vậy khi ngủ. Nơi cổ cô bé, Pantalaimon đang nằm trong dạng chồn nâu, bộ lông lóng lánh. Mái tóc ẩm của Lyra phủ xuống trên trán.
Cậu quỳ xuống bên cạnh cô rồi gạt tóc đi. Mặt cô bé nóng bừng. Từ khóe mắt Will thấy con khỉ vàng đang thu mình lấy đà, cậu liền đặt tay lên con dao; nhưng Phu nhân Coulter lắc đầu rất khẽ, và con khỉ thả lỏng người.
Dù không thể hiện ra nhưng Will đang ghi nhớ sơ đồ chính xác của hang động: hình dạng và kích cỡ của từng tảng đá, độ dốc của mặt sàn, độ cao chính xác của trần động phía bên trên cô gái đang ngủ. Cậu sẽ cần phải tìm đường đi qua trong bóng tối, và đây là cơ hội duy nhất cậu có thể thấy được nó trước.
“Vậy cháu thấy đấy, con bé vẫn an toàn,” Phu nhân Coulter nói.
“Tại sao bà lại giữ cậu ấy ở đây? Và tại sao bà không để cho cậu ấy tỉnh dậy?”
“Ngồi xuống đã nào.”
Bà ta không lấy ghế mà ngồi xuống cùng cậu trên những tảng đá phủ rêu ở cửa vào động. Nghe giọng bà thật tử tế, đôi mắt vương vấn sự thông thái đượm buồn, khiến Will lại càng thêm ngờ vực. Cậu cảm thấy như mỗi lời bà ta nói đều là dối trá, mỗi hành động đều che giấu một mối đe doạ, và mỗi nụ cười đều là một mặt nạ giả tạo. Mà bản thân cậu cũng phải đánh lừa bà ta: Cậu sẽ phải khiến bà ta nghĩ rằng mình vô hại. Nhưng cậu đã đánh lừa thành công mọi giáo viên, mọi sĩ quan cảnh sát, mọi nhân viên công tác xã hội và mọi người hàng xóm từng tỏ ra quan tâm đến cậu và ngôi nhà của cậu; cả cuộc đời cậu đã chuẩn bị sẵn cho điều này.
Được rồi, cậu nghĩ. Tôi có thể xử lí được bà.
“Cháu có muốn uống gì đó không?” Phu nhân Coulter nói. “Ta cũng sẽ uống một chút… Khá an toàn đấy. Xem này.”
Bà cắt một thứ quả nhăn nheo màu nâu rồi ép chất nước đùng đục vào hai cái cốc. Bà nhấp một cốc rồi đưa cái còn lại cho Will, cậu cũng uống và thấy nó thật tươi mát, ngọt lịm.
“Làm sao cháu tìm được đường đến đây?” Bà ta hỏi.
“Theo dấu bà cũng không khó lắm.”
“Rõ ràng rồi. Cháu có Chân Kế của Lyra không?”
“Có,” cậu đáp, rồi để cho bà ta tự suy luận xem liệu cậu có đọc được nó hay không.
“Và ta cũng được biết rằng cháu có một con dao.”
“Ngài Charles đã nói với bà, đúng không?”
“Ngài Charles? À - Carlo, hẳn rồi. Phải, ông ấy đã nói. Nghe thật hấp dẫn. Ta có thể xem được không?”
“Không, hẳn nhiên là không được rồi,” cậu nói. “Tại sao bà lại giữ Lyra ở đây?”
“Bởi vì ta yêu con bé,” bà đáp. “Ta là mẹ của nó. Nó đang gặp một mối nguy hiểm kinh hoàng, mà ta thì sẽ không để cho bất cứ chuyện gì xảy ra với nó.”
“Nguy hiểm từ cái gì cơ?” Will hỏi.
“À…” Bà nói rồi đặt cái cốc xuống đất, người ngả về phía trước khiến tóc ở cả hai bên mặt xòa xuống. Khi ngồi thẳng trở lại, bà ta dùng cả hai tay vén nó về phía sau tai, và Will ngửi thấy mùi hương từ loại nước hoa mà bà đang dùng quện với hương thơm tươi mát từ cơ thể bà, cậu cảm thấy bối rối.
Nếu Phu nhân Coulter có nhận thấy phản ứng của cậu thì bà ta cũng không biểu hiện gì. Bà nói tiếp: “Nghe này, Will, ta không biết cháu đã gặp con gái ta như thế nào, ta cũng không biết cháu đã biết những gì, và ta chắc chắn cũng không biết liệu mình có thể tin tưởng cháu không; nhưng cũng tương tự như vậy, ta đã mệt mỏi vì phải nói dối lắm rồi. Nên sự thật là đây.
“Ta phát hiện ra rằng con gái mình đang gặp nguy hiểm từ chính những người mà mình từng phục vụ - từ Giáo hội. Thẳng thắn mà nói, ta nghĩ họ muốn giết con bé. Vì vậy ta thấy mình bị đặt vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, cháu thấy đấy: Tuân theo Giáo hội, hay là cứu lấy con gái mình. Ta còn là một bầy tôi trung thành của Giáo hội nữa. Không có ai hăng hái hơn ta; ta đã dâng hiến cả cuộc đời mình cho nó; ta đã phục vụ nó đầy nhiệt thành.
“Nhưng ta còn có đứa con gái này…
“Ta biết mình đã không chăm sóc nó tử tế khi còn nhỏ. Nó đã bị cướp khỏi vòng tay ta và được những kẻ xa lạ nuôi nấng. Có lẽ điều đó đã khiến nó khó có thể tin tưởng ta được. Nhưng khi nó đang lớn lên, ta đã nhìn thấy mối nguy hiểm mà nó vướng phải, cho đến giờ ta đã ba lần cố gắng cứu thoát nó. Ta đã phải hóa thành một kẻ phản bội và lẩn trốn ở nơi khỉ ho cò gáy này. Ta cứ nghĩ mình đã an toàn, nhưng giờ lại biết được rằng cháu có thể tìm thấy chúng ta dễ dàng đến vậy - cháu có thể thấy đấy, điều đó khiến ta lo lắng. Giáo hội cũng sẽ không bị bỏ xa đâu. Họ muốn giết con bé, Will ạ. Họ sẽ không để cho nó sống sót đâu.”
“Tại sao chứ? Tại sao họ lại ghét cậu ấy nhiều đến thế?”
“Vì những điều họ nghĩ con bé sẽ làm. Ta không biết đó là gì; giá mà ta biết được, vì khi đó ta có thể bảo đảm an toàn cho nó hơn nữa. Nhưng tất cả những gì ta biết là họ ghét con bé, và họ không hề khoan dung, không chút nào.”
Bà ngả về phía trước rồi nói bằng một giọng khẩn cấp, khẽ khàng và kín đáo.
“Tại sao ta lại nói với cháu những điều này?” Bà nói tiếp. “Liệu ta có thể tin tưởng được cháu không? Ta nghĩ mình buộc phải làm vậy. Ta không thể trốn thoát được nữa rồi, không còn nơi nào để đi cả. Và nếu cháu là bạn của Lyra, cháu cũng có thể là bạn của ta nữa. Mà ta thì thật sự cần bạn, ta cần được giúp đỡ. Giờ tất cả đều đang chống lại ta. Giáo hội sẽ trừ khử ta, cả Lyra nữa, nếu họ tìm ra chúng ta. Ta đang đơn độc, Will ạ, chỉ có mình ta trong một hang động cùng với con gái mình, trong khi mọi thế lực thuộc mọi thế giới đang cố gắng lần theo dấu vết của hai ta. Còn cháu lại ở đây dường như để chứng tỏ việc tìm chúng ta dễ dàng đến thế nào. Cháu định làm gì, hả Will? Cháu muốn gì?”
“Tại sao bà lại bắt cậu ấy ngủ suốt như thế?” Cậu nói, ngang bướng lảng tránh những câu hỏi của bà.
“Bởi vì chuyện gì sẽ xảy ra nếu ta để cho nó tỉnh lại chứ? Nó sẽ bỏ chạy ngay lập tức. Và như thế nó sẽ không sống sót nổi năm ngày đâu.”
“Nhưng tại sao bà không giải thích điều đó với cậu ấy và cho cậu ấy lựa chọn?”
“Cháu nghĩ nó sẽ lắng nghe à? cháu nghĩ kể cả nó có lắng nghe thì cũng sẽ tin ta sao? Nó không tin tưởng ta. Nó ghét ta, Will ạ. Cháu phải biết điều đó. Nó khinh bỉ ta. Ta, ôi… Ta không biết phải nói thế nào nữa… Ta yêu nó đến mức đã từ bỏ mọi thứ mình có - một sự nghiệp rạng rỡ, hạnh phúc lớn lao, địa vị và giàu sang - mọi thứ, để tới cái hang động trong núi này rồi sống nhờ bánh mì khô và trái cây chua, chỉ để giữ mạng sống cho con gái mình. Và nếu để làm điều đó, ta phải khiến nó ngủ liên tục thì ta cũng sẽ làm vậy. Nhưng ta phải giúp nó sống sót. Mẹ cháu không làm điều tương tự với cháu sao?”
Will điếng người vì kinh ngạc và căm phẫn trước việc Phu nhân Coulter dám lôi mẹ cậu ra để củng cố luận điểm của mình. Rồi cơn sốc đầu tiên lại trở nên rắc rối hơn bởi suy nghĩ rằng mẹ cậu rốt cuộc cũng chưa từng bảo vệ cậu; chỉ toàn là cậu phải bảo vệ bà. Liệu có phải Phu nhân Coulter yêu thương Lyra nhiều hơn Elaine Parry yêu thương cậu không? Nhưng điều đó không công bằng: Mẹ cậu không được khỏe mà.
Hoặc là Phu nhân Coulter không biết đến cảm xúc sôi sục mà những từ ngữ đơn giản của mình đã kích động; hoặc là bà ta khôn ngoan đến tàn ác. Đôi mắt xinh đẹp của bà dịu dàng nhìn Will đỏ lựng lên và ngó ngoáy đầy khó chịu; trong một thoáng, trông Phu nhân Coulter kì bí không khác gì con gái mình.
“Nhưng cháu định làm gì?” Bà hỏi.
“À, giờ thì tôi đã thấy Lyra rồi,” Will nói, “cậu ấy vẫn còn sống, điều này đã rõ, và an toàn nữa, chắc vậy. Đó là tất cả những gì tôi định làm. Giờ đã hoàn thành rồi nên tôi có thể đi giúp Ngài Asriel như đã dự tính.”
Câu trả lời có làm bà ta ngạc nhiên đôi chút, nhưng bà đã kiềm chế được.
“Ý cháu không phải là - ta cứ nghĩ cháu sẽ giúp chúng ta,” bà nói với vẻ khá điềm tĩnh, không nài xin mà là chất vấn. “Với con dao. Ta đã thấy việc cháu làm tại nhà của Ngài Charles, cháu có thể giúp chúng ta được an toàn, đúng không? Cháu có thể giúp chúng ta trốn thoát?”
“Tôi phải đi đây,” Will nói rồi đứng dậy.
Bà chìa tay ra. Một nụ cười buồn bã, một cái nhún vai và một cái gật đầu như thể để dành cho đối thủ lão luyện đã đi một nước hay trên bàn cờ vậy: Đó là điều mà cơ thể bà diễn đạt. Cậu thấy mình trở nên thích thú với người phụ nữ này, vì bà ta dũng cảm, và vì bà ta dường như là một phiên bản Lyra phức tạp hơn, phong phú hơn và sâu sắc hơn. Cậu không thể ngăn bản thân mình thích bà ta.
Vậy là cậu bắt tay bà, nhận thấy rằng nó rất vững chãi, mát lạnh và mềm mại. Bà quay sang phía con khỉ vàng vẫn đang ngồi bên cạnh mình suốt thời gian qua, họ trao đổi một ánh nhìn mà Will chẳng thể giải nghĩa nổi.
Rồi bà quay lại với một nụ cười.
“Tạm biệt,” cậu nói, bà cũng lặng lẽ đáp lại: “Tạm biệt, Will.”
Cậu rời khỏi hang động. Biết rằng ánh mắt bà ta vẫn đang dõi theo, cậu không hề ngoái lại một lần nào. Chẳng thấy Ama đâu cả. Cậu bước trở lại con đường mà mình đã tới, bám theo lối mòn cho đến khi nghe thấy tiếng thác chảy ở phía trước.
“Bà ta nói dối,” cậu nói với Iorek Byrnison sau đó ba mươi phút. “Đương nhiên là bà ta nói dối rồi. Kể cả có khiến sự việc tồi tệ đi với bản thân thì bà ta vẫn sẽ dối trá, vì bà ta yêu thích cái việc đó đến mức không ngừng nổi.”
“Vậy thì kế hoạch của cậu là gì?” Con gấu hỏi, nó đang nằm phơi mình dưới ánh nắng, bụng ụp xuống một mảng tuyết giữa những tảng đá.
Will cứ đi lên đi xuống, tự hỏi không biết mình có thể dùng cái mẹo đã thành công ở Headington được hay không: Dùng con dao để vào một thế giới khác rồi đi tới một điểm ngay sát nơi Lyra nằm, cắt trở lại thế giới này, kéo cô bé vào nơi an toàn rồi đóng nó lại. Đó là điều hiển nhiên cần phải làm, tại sao cậu lại lưỡng lự chứ?
Balthamos thì biết. Trong dạng thiên thần vốn có, lấp lánh như không khí biến dạng vì hơi nóng dưới ánh mặt trời, ông ta nói: “Cậu thật dại dột vì đã tới chỗ bà ta. Giờ tất cả những gì cậu muốn làm là gặp lại bà ta.”
Iorek gầm lên một tiếng trầm trầm khe khẽ. Ban đầu Will cứ tưởng nó đang cảnh cáo Balthamos, nhưng rồi trong cơn sốc vì xấu hổ, cậu nhận ra rằng con gấu cũng đồng tình với vị thiên thần. Cho đến tận giờ, cả hai không chú tâm đến nhau nhiều; cách sống của họ quá khác nhau; nhưng rõ ràng là về vấn đề này thì họ có cùng chung suy nghĩ.
Will cau có tỏ vẻ giận dữ, nhưng điều đó là thật. Phu nhân Coulter đã làm cậu mê mẩn. Mọi suy nghĩ của cậu đều hướng về bà ta: khi nghĩ tới Lyra, cậu tự hỏi không biết cô bé sẽ giống mẹ mình đến mức nào khi lớn lên; nếu nghĩ về Giáo hội, cậu lại thắc mắc có bao nhiêu linh mục và giáo chủ đã bị bà bỏ bùa; nếu nghĩ đến người cha đã mất của mình, cậu lại muốn biết liệu ông sẽ ghê tởm hay ngưỡng mộ bà ta; còn nếu nghĩ về người mẹ của mình…
Cậu cảm thấy tim mình quặn lại. Cậu rời khỏi con gấu rồi đứng trên một mỏm đá mà từ đó có thể phóng tầm mắt ra khắp thung lũng. Trong bầu không khí lạnh lẽo và trong trẻo, cậu có thể nghe thấy xa xa có tiếng ai đó chặt củi phập phập, cậu có thể nghe thấy tiếng chuông sắt lờ mờ quanh cổ một con cừu, cậu có thể nghe thấy tiếng những ngọn cây xào xạc ở tít xa bên dưới. Những khe nứt nhỏ nhất trên dãy núi phía đường chân trời hiện lên rõ ràng và sắc nét trước mắt cậu, cũng như đám kền kền đang lượn vòng trên một sinh vật sắp chết nào đó cách xa nhiều dặm.
Không nghi ngờ gì nữa: Balthamos nói đúng. Người phụ nữ kia đã bỏ bùa cậu. Thật dễ chịu và đầy cám dỗ khi nghĩ tới đôi mắt xinh đẹp và giọng nói ngọt ngào đó, khi nhớ lại cái cách mà bà đưa tay lên vấn lại mái tóc óng ánh ấy…
Nhờ một nỗ lực, cậu tỉnh táo trở lại và nghe thấy một âm thanh khác: một tiếng ù ù xa xăm.
Cậu quay qua các hướng để định vị và phát hiện ra nó ở phía bắc, chính là hướng mà cậu và Iorek đã đến.
“Zeppelin,” giọng con gấu vang lên khiến Will giật mình, vì cậu không hề nghe thấy con vật vĩ đại đó tiến lại gần. Iorek đứng bên cạnh cậu, cùng nhìn về một hướng, rồi nó đứng thẳng dậy, cao đúng gấp đôi Will, mắt nhìn đăm đăm.
“Bao nhiêu?”
“Tám cái,” Iorek nói sau một phút, và rồi Will cũng thấy chúng: những đốm nhỏ xếp thành một hàng.
“Ông có thể đoán được mất bao lâu để chúng tới đây không?” Will hỏi.
“Chúng sẽ tới được đây sau khi trời tối không lâu đâu.”
“Vậy thì chúng ta sẽ không có nhiều bóng tối lắm. Tiếc thật.”
“Kế hoạch của cậu là gì?”
“Mở một lối thông, đưa Lyra qua đó để đến một thế giới khác, rồi đóng nó lại trước khi bà mẹ bám theo. Đứa con gái có thuốc để đánh thức Lyra dậy, nhưng nó không giải thích rõ ràng lắm về cách sử dụng, nên nó cũng sẽ phải vào trong động. Mặc dù tôi không muốn gây nguy hiểm cho nó. Có lẽ ông có thể đánh lạc hướng Phu nhân Coulter khi chúng tôi làm việc đó.”
Con gấu cằn nhằn rồi nhắm mắt lại. Will nhìn quanh tìm thiên thần và thấy hình bóng của ông ta hiện lên trong những giọt sương dưới ánh chiều tà.
“Balthamos,” cậu nói, “giờ tôi sẽ quay lại khu rừng, tìm một chỗ an toàn để mở lối thông đầu tiên. Tôi cần ông canh chừng và cho tôi biết lúc nào bà ta tới gần - bà ta hoặc cái con linh thú đó của bà ta.”
Balthamos gật đầu rồi giương cánh giũ bỏ nước đọng. Ông bay vút vào bầu không khí lạnh lẽo rồi lượn ra phía trên thung lũng trong lúc Will bắt đầu tìm kiếm một thế giới mà Lyra có thể được an toàn.
Trong căn phòng đôi đang kêu cọt kẹt, bình bịch của chiếc zeppelin dẫn đầu đoàn, những con chuồn chuồn đang nở. Công nương Salmakia cúi xuống cái kén đang nứt dần của con côn trùng màu xanh ánh điện, gỡ những cái cánh màng ẩm ướt ra, cẩn thận đảm bảo rằng khuôn mặt mình sẽ là thứ đầu tiên in dấu trên cặp mắt kép muôn mặt, xoa dịu những dây thần kinh đang căng lên, thì thầm tên của con vật rực rỡ này với nó, dạy cho nó biết nó là ai.
Trong vài phút nữa, Hiệp sĩ Tialys cũng sẽ làm điều tương tự với con chuồn chuồn của ông. Nhưng giờ, ông đang gửi đi một bức điện bằng máy cộng hưởng đá nam châm, toàn bộ tâm trí của ông dồn vào chuyển động của cái cần và những ngón tay của mình.
Ông truyền đi:
“Gửi Ngài Roke:
“Dự kiến còn ba tiếng nữa trước giờ chúng tôi đến thung lũng. Tòa án Công giáo Kỉ luật định cử một biệt đội đến hang động ngay khi hạ cánh.
“Biệt đội sẽ được chia thành hai đơn vị. Đơn vị thứ nhất sẽ xông vào động chiến đấu rồi giết đứa trẻ, cắt đầu nó để chứng tỏ nó đã chết. Nếu có thể họ sẽ bắt cả người phụ nữ nữa, tuy rằng nếu việc đó là bất khả thi, họ sẽ giết bà ta.
“Đơn vị thứ hai là để bắt sống thằng bé.
“Phần lực lượng còn lại sẽ giao chiến với đội xa thăng của Quốc vương Ogunwe. Họ dự tính rằng đội xa thăng sẽ đến ngay sau những chiếc zeppelin. Theo như mệnh lệnh của ngài, Công nương Salmakia và tôi sẽ mau chóng rời khỏi chiếc zeppelin và bay thẳng tới hang động, chúng tôi sẽ cố gắng bảo vệ cô bé khỏi đơn vị đầu tiên và cầm chân chúng cho tới khi quân tiếp viện tới.
“Chúng tôi chờ phản hồi của ngài.”
Câu trả lời đến gần như ngay lập tức.
“Gửi Hiệp sĩ Tialys:
“Nhờ những thông tin hữu ích từ báo cáo của ông, chúng ta sẽ thay đổi kế hoạch.
“Để ngăn kẻ địch giết đứa trẻ, là kết cục tồi tệ nhất có thể, ông và Công nương Salmakia sẽ hợp tác với cậu bé. Chừng nào còn con dao, nó vẫn còn nắm thế chủ động, vậy nên nếu nó mở ra một thế giới khác và đưa cô bé vào đó thì cứ để cho nó làm, rồi bám theo chúng. Phải luôn luôn ở sát bên chúng.”
Hiệp sĩ Tialys trả lời:
“Gửi Ngài Roke:
“Thông điệp của ngài đã được lắng nghe và thấu hiểu. Công nương và tôi sẽ lập tức lên đường.”
Viên mật thám nhỏ đóng chiếc máy cộng hưởng lại rồi thu thập dụng cụ của mình.
“Tialys,” một tiếng thì thầm vọng tới từ bóng tối, “nó đang nở. Ông nên tới ngay.”
Ông nhảy lên thanh chống nơi con chuồn chuồn của mình đang vùng vẫy thoát ra rồi nhẹ nhàng gỡ nó khỏi cái kén rách. Vừa vuốt ve cái đầu khổng lồ dữ tợn, ông vừa nâng đôi râu nặng nề vẫn còn ẩm và cong lại, rồi để con vật nếm mùi vị làn da của mình cho tới khi nó hoàn toàn dưới quyền chỉ huy của ông.
Salmakia đang đeo cho con chuồn chuồn của mình bộ cương mà đi đâu bà cũng mang theo: các dây cương bằng tơ nhện, bàn đạp bằng titan, yên bằng da chim ruồi. Bộ cương gần như không có chút trọng lượng nào. Tialys cũng làm vậy với con chuồn chuồn của mình, nới dây quanh cơ thể con côn trùng, siết chặt, điều chỉnh. Nó sẽ đeo bộ cương này cho tới khi chết.
Sau đó, ông nhanh chóng quàng túi đồ lên vai rồi xẻ một vệt trên lớp vải quét dầu của chiếc zeppelin. Bên cạnh ông, công nương đã leo lên con chuồn chuồn của mình, giờ thì bà đang thúc nó bay qua cái khe hẹp để vào luồng gió đang quất mạnh bên ngoài. Đôi cánh dài mỏng manh run lên khi nó ép mình chui qua, nhưng rồi niềm hân hoan được bay lượn choán lấy con vật và nó liền lao vào cơn gió. Vài giây sau, Tialys nhập hội với bà trong luồng không khí bão táp, con chuồn chuồn của ông cũng đang háo hức được đấu lại ánh chạng vạng đương vội vã tối dần.
Hai người bọn họ phóng lên trong luồng khí băng giá, mất một lúc để xác định phương hướng, rồi khởi hành về phía thung lũng.