- 14 - Biết đó là gì
Lao động không có niềm vui là nền tảng.
Lao động không có đau khổ là nền tảng.
Đau khổ không có lao động là nền tảng.
Niềm vui không có lao động là nền tảng.
John Ruskin
Will và Lyra ngủ xuyên đêm, chúng chỉ tỉnh lại khi mặt trời rọi lên mí mắt.
Trên thực tế, chúng tỉnh dậy chỉ cách nhau vài giây, cả hai cùng có một suy nghĩ: Nhưng khi chúng nhìn ra xung quanh, Hiệp sĩ Tialys vẫn đang điềm tĩnh canh gác ở gần đó.
“Lực lượng của Tòa án Công giáo đã rút lui rồi,” ông nói với chúng. “Phu nhân Coulter đang ở trong tay Quốc vương Ogunwe, họ đang trên đường tới chỗ Ngài Asriel.”
“Làm sao ông biết?” Will nói trong lúc khó nhọc ngồi dậy, người cứng đờ. “Ông đã quay lại đó bằng ô cửa sổ à?”
“Không. Chúng tôi trao đổi qua máy cộng hưởng đá nam châm. Tôi đã báo cáo lại cuộc trò chuyện của chúng ta,” Tialys nói với Lyra, “cho chỉ huy của tôi là Ngài Roke, ông ấy đã đồng ý là chúng tôi nên đi cùng hai cô cậu tới chỗ con gấu, và rằng sau khi gặp được nó, hai người sẽ đi cùng chúng tôi. Vì vậy chúng tôi là đồng minh, và chúng tôi sẽ giúp đỡ hai người nhiều nhất có thể.”
“Tốt,” Will nói. “Vậy thì hãy cùng ăn thôi. Các vị dùng đồ ăn của chúng tôi chứ?”
“Cảm ơn cậu, vâng,” công nương nói.
Will lấy ra vài miếng đào sấy cuối cùng và ổ bánh mì lúa mạch đen bẹp dí, cũ mèm, đó là tất cả những gì còn sót lại, rồi chia cho tất cả mọi người, dù đương nhiên là hai mật thám không ăn nhiều.
“Còn về nước, có vẻ như tại thế giới này không có chút nào ở quanh đây cả,” Will nói. “Chúng ta sẽ phải đợi đến khi quay trở về rồi mới có thể được uống.”
“Vậy thì chúng ta nên làm thế sớm đi,” Lyra nói.
Tuy vậy, việc đầu tiên cô làm là lấy Chân Kế ra. Không giống như đêm hôm trước, cô có thể thấy nó rất rõ, nhưng những ngón tay cô lại chậm chạp và đờ đẫn sau giấc ngủ dài. Cô hỏi liệu có còn hiểm họa nào trong thung lũng không. Câu trả lời là không, toàn bộ lính tráng đã đi hết, còn dân làng thì đang ở trong nhà của mình; vậy là họ chuẩn bị lên đường.
Ô cửa sổ trông thật kì lạ trong bầu không khí chói lòa của sa mạc, mở hướng về phía bụi cây phủ bóng tối sầm, một khoảng thực vật xanh rậm rạp hình vuông lơ lửng trong không khí như một bức tranh vẽ. Hai người Gallivespia muốn nhìn nó, và sững sờ khi thấy cái cách mà nó chỉ đơn giản là không tồn tại khi nhìn từ phía sau, nhưng lại vụt hiện ra khi họ vòng sang bên cạnh.
“Tôi sẽ phải đóng nó lại khi chúng ta đã đi qua,” Will nói.
Lyra cố thử kẹp các cạnh vào với nhau, nhưng những ngón tay cô hoàn toàn không thể tìm được nó; các mật thám cũng thế, bất chấp đôi bàn tay tinh tế của họ. Chỉ mình Will là có thể cảm nhận được chính xác vị trí của các cạnh, và cậu làm việc đó rất gọn gàng và nhanh chóng.
“Có bao nhiêu thế giới mà cậu có thể vào được bằng con dao này?” Tialys hỏi.
“Có bao nhiêu thế giới thì tôi vào được bấy nhiêu cái,” Will đáp. “Chẳng ai có đủ thời gian tìm hiểu điều đó đâu.”
Cậu quàng balô lên rồi dẫn đường theo lối mòn trong rừng. Lũ chuồn chuồn thích thú tận hưởng không khí ẩm ướt tươi mát, chúng lao đi như những cái kim qua các chùm tia nắng. Chuyển động của đám cây phía trên đã bớt dữ dội hơn, không khí mát lạnh và tĩnh lặng; do vậy mà quang cảnh một chiếc xa thăng vỡ nát bị vặn xoắn treo lơ lửng giữa những cành cây, với cơ thể người phi công Phi châu bị mắc trong chiếc đai an toàn, thòi nửa người ra khỏi cửa, càng trở nên kinh hoàng hơn. Không kém phần sửng sốt là tàn tích bị cháy thành tro của chiếc zeppelin phía trên cao hơn một chút - những vạt vải đen như bồ hóng, các thanh chống và hệ thống ống dẫn đen xì, kính vỡ tan tành, rồi đến những cái xác: ba người đàn ông bị đốt cháy sém, chân tay vẹo vọ, vươn lên như thể vẫn đang dọa sẽ lao tới tấn công.
Mà đó mới chỉ là những người đã ngã xuống ở gần lối mòn. Còn có nhiều thi thể và đống đổ nát khác tại vách núi phía trên và giữa những hàng cây ở sâu phía dưới. Hoảng hốt và nín lặng, hai đứa trẻ bước qua cảnh tàn sát trong lúc các mật thám cưỡi chuồn chuồn nhìn quanh với vẻ lãnh đạm do đã quá quen với chiến đấu, ghi nhớ lại trận chiến đã diễn ra như thế nào và ai bị thiệt hại nhiều nhất.
Khi họ lên tới đỉnh thung lũng, nơi cây cối trở nên thưa thớt và những thác nước cầu vồng bắt đầu hiện ra, họ dừng lại để uống thật đã thứ nước lạnh như băng.
“Hi vọng là bé gái kia vẫn ổn,” Will nói. “Chúng ta sẽ không bao giờ có thể cứu thoát cậu nếu cô bé không đánh thức cậu dậy. Nó đã tới chỗ một người đàn ông mộ đạo chỉ để lấy thứ bột đó.”
“Cô bé ổn cả,” Lyra nói, “vì tớ đã hỏi Chân Kế rồi, tối hôm qua. Có điều nó nghĩ chúng ta là quỷ dữ đó. Nó sợ chúng ta. Có khi nó lại ước giá mà mình chưa từng dính dáng đến vụ này, nhưng dù sao thì nó vẫn an toàn.”
Chúng trèo lên tới sát những thác nước rồi đổ đầy bi đông của Will trước khi lao qua vùng cao nguyên về phía đỉnh núi, nơi Chân Kế nói với Lyra rằng Iorek đã đến.
Sau đó là một ngày dài đi bộ mòn mỏi: không có vấn đề gì với Will, nhưng lại là một sự tra tấn đối với Lyra, do hai chân cô đã yếu mềm đi sau giấc ngủ dài. Nhưng cô thà cắn lưỡi còn hơn phải thú nhận rằng mình đang mệt: vừa mím môi lết đi, vừa run rẩy, cô bé cố gắng theo kịp Will mà không nói gì. Chỉ khi hai đứa ngồi xuống vào buổi trưa, cô mới cho phép bản thân phát ra một tiếng rên rỉ, và chỉ khi Will đã đi khỏi để tự làm khuây khỏa bản thân.
Công nương Salmakia nói: “Nghỉ ngơi đi. Cảm thấy mệt đâu phải là điều gì đáng xấu hổ.”
“Nhưng tôi không muốn khiến Will thất vọng! Tôi không muốn cậu ấy nghĩ rằng mình yếu ớt và đang cầm chân cậu ấy.”
“Cậu ta không bao giờ nghĩ vậy đâu.”
“Bà làm sao biết được,” Lyra xấc xược nói. “Bà biết về cậu ấy đâu có nhiều hơn biết về tôi.”
“Chỉ cần nghe là tôi biết thế nào là láo xược rồi,” công nương điềm tĩnh nói. “Giờ thì nghe theo lời tôi và nghỉ ngơi đi. Giữ sức để mà còn đi bộ tiếp.”
Lyra cảm thấy muốn chống đối, nhưng những cái cựa sáng lấp lánh của vị công nương hiện ra rõ rệt dưới ánh nắng nên cô không nói gì cả.
Hiệp sĩ, người bạn đồng hành của bà, đang mở hộp đựng chiếc máy cộng hưởng đá nam châm, và rồi, để cho tính tò mò lấn át cả cơn bực bội, Lyra chăm chú nhìn xem ông ta làm gì. Thiết bị đó trông giống như một cái bút chì cỡ ngắn làm từ loại đá đen xám mờ đục, đặt trên một cái giá bằng gỗ. Hiệp sĩ lướt một cây vĩ nhỏ xíu giống như vĩ kéo của violin trên phần cuối viên đá trong lúc ấn những ngón tay lên nhiều điểm khác nhau dọc trên bề mặt. Những vị trí đó không được đánh dấu nên trông ông như đang chạm vào chúng một cách ngẫu nhiên, nhưng từ biểu hiện mãnh liệt và những cử động trôi chảy, chính xác của ông, Lyra biết rằng đó là một quá trình đòi hỏi sự khéo léo rất khắt khe giống như việc cô đọc Chân Kế vậy.
Vài phút sau, vị hiệp sĩ cất cây vĩ đi rồi cầm một cặp ống nghe lên, phần loa đàm thoại không lớn hơn móng tay út của Lyra, rồi úp thật khít một đầu sợi dây quanh một cái mấu ở cuối viên đá, dẫn đầu còn lại tới một cái mấu khác ở đầu bên kia rồi ụp nó lên đó. Bằng cách điều chỉnh hai cái mấu và sức căng của sợi dây giữa chúng, ông ta có thể nghe thấy một cách rõ ràng lời phản hồi cho thông điệp của mình.
“Cái đó hoạt động như thế nào vậy?” Cô bé nói khi ông đã làm xong.
Tialys nhìn cô bé như để đánh giá xem cô có thật sự hứng thú hay không, rồi sau đó nói: “Các nhà khoa học ở thế giới của cô, cô gọi họ là gì ấy nhỉ, các nhà thần học thực nghiệm, sẽ biết về một thứ được gọi là rối lượng tử. Nó có nghĩa là hai hạt vật chất có thể tồn tại mà chỉ có những đặc tính chung, sao cho bất cứ chuyện gì xảy ra với một hạt cũng sẽ xảy ra với hạt còn lại vào cùng một thời điểm, dẫu cho chúng có cách xa nhau đến thế nào đi nữa. Ở thế giới của chúng tôi có phương pháp lấy một viên đá nam châm thông thường rồi mắc nối tất cả các hạt của nó vào với nhau, sau đó tách làm đôi sao cho hai phần cộng hưởng lẫn nhau. Bản sao của viên này đang ở chỗ Ngài Roke, chỉ huy của chúng tôi. Khi tôi dùng vĩ thao tác với viên đá này, viên còn lại sẽ sản sinh ra những âm thanh giống y hệt, và chúng tôi giao tiếp được nhờ vậy.”
Ông cất tất cả đi rồi nói gì đó với công nương. Bà cùng với ông rời khỏi đó một chút, họ nói chuyện khẽ đến mức Lyra không thể nghe nổi, dù cho Pantalaimon đã biến thành một con cú rồi quay đôi tai lớn của nó về hướng họ.
Đúng lúc đó Will quay lại và cả bọn lại lên đường, chậm rãi hơn khi ngày dần trôi qua, lối đi dần dốc hơn và đường băng tuyết đang tiến lại gần. Họ dừng lại nghỉ thêm một lần nữa trên đỉnh của một thung lũng đầy đá sỏi, vì đến cả Will cũng thấy được rằng Lyra sắp gục rồi: Cô bé đang lết đi tập tễnh, mặt xám xịt lại.
“Cho tớ xem bàn chân cậu nào,” cậu nói với cô, “nếu chúng bị phồng rộp, tớ sẽ bôi chút thuốc mỡ lên.”
Chúng bị rộp khá tồi tệ, nên cô đã để cậu bé xoa thuốc mỡ từ rêu cầm máu lên trong khi bản thân thì nhắm nghiền mắt và nghiến chặt răng lại.
Trong lúc đó, hiệp sĩ đang rất bận rộn, sau vài phút ông cất viên đá nam châm đi rồi nói: “Tôi đã thông báo với Ngài Roke về vị trí của chúng ta, họ sẽ cử một chiếc xa thăng tới đưa chúng ta đi ngay khi các cô cậu đã nói chuyện với người bạn của mình.”
Will gật đầu. Lyra không tỏ ra bận tâm. Ngay sau đó cô uể oải ngồi dậy, kéo tất lên và đi giày vào, rồi họ lại lên đường.
Một giờ đồng hồ nữa trôi qua, phần lớn thung lũng đã chìm vào trong bóng tối. Will đang tự hỏi không biết có nên tìm một chỗ trú nào đó trước khi màn đêm phủ bóng hay không, thì Lyra kêu lên một tiếng đầy nhẹ nhõm và vui mừng.
“Iorek! Iorek!”
Cô bé đã nhìn thấy con gấu trước Will. Vua gấu vẫn còn ở cách đó khá xa, bộ lông màu trắng của nó chìm lẫn vào mảng tuyết phía sau, nhưng khi giọng Lyra vọng tới, nó liền quay đầu lại, hếch mũi lên hít hà, rồi lao xuống sườn núi về phía chúng.
Phớt lờ Will, con gấu để cho Lyra ghì chặt lấy cổ rồi vùi mặt vào bộ lông của mình, nó gầm gừ bằng một giọng trầm đến mức Will có thể cảm nhận thấy qua hai bàn chân; nhưng Lyra lại thấy dễ chịu, chẳng mấy chốc cô bé đã quên bẵng đi những vết phồng rộp và sự mệt mỏi.
“Ôi, Iorek thân mến, được gặp ông mừng quá! Tôi không bao giờ nghĩ lại có thể được gặp lại ông - sau lần đó ở Svalbard - và tất cả những chuyện đã xảy ra - ông Scoresby vẫn an toàn chứ? Vương quốc của ông thế nào rồi? Ông ở đây một mình thôi à?”
Các mật thám tí hon đã biến mất; dù sao đi nữa, dường như lúc này chỉ còn lại ba người bọn họ trên sườn núi đang tối dần, cậu bé, cô bé và con gấu trắng vĩ đại. Như thể chưa từng mong muốn được ở bất kì nơi nào khác, Lyra leo lên khi Iorek đưa lưng ra rồi cưỡi trên đó một cách tự hào và vui sướng khi người bạn thân thiết chở cô qua quãng đường còn lại tới hang động của nó.
Do đang chìm sâu trong suy nghĩ, Will không nghe thấy những gì Lyra nói với Iorek, dù cậu có nghe thấy một tiếng kêu hoảng hốt vào một thời điểm nào đó, rồi nghe thấy cô nói:
“Ông Scoresby - ôi không! Ôi, thật là quá tàn nhẫn! Chết thật rồi ư? Ông chắc chứ, Iorek?”
“Cô phù thủy nói với tôi rằng ông ấy đã lên đường tìm một người đàn ông có tên Grumman,” con gấu nói.
Giờ thì Will đã chăm chú lắng nghe hơn, vì Baruch và Balthamos có kể với cậu đôi chút về chuyện này.
“Chuyện gì đã xảy ra vậy? Ai giết ông ấy?” Lyra hỏi, giọng run rẩy.
“Ông ấy đã hi sinh trong lúc chiến đấu. Ông ấy đã cầm chân cả một đoàn người Muscovy trong lúc người đàn ông kia trốn thoát. Tôi đã tìm thấy xác của ông ấy. Ông ấy đã hi sinh một cách quả cảm. Tôi sẽ trả thù cho ông ấy.”
Lyra đang khóc nức nở, trong khi Will thì không biết phải nói gì, vì chính bố cậu đã khiến cho người đàn ông không quen biết này phải chết để bảo vệ; cả Lyra và con gấu đều quen biết và yêu mến Lee Scoresby, nhưng cậu thì không.
Chẳng bao lâu sau, Iorek rẽ sang một bên rồi tiến tới lối vào một hang động tối thui trên nền tuyết trắng. Will không biết các mật thám đang ở đâu, nhưng cậu biết chắc chắn rằng họ đang ở gần đó. Cậu muốn nói nhỏ với Lyra vài điều, nhưng sẽ không làm vậy cho tới khi thấy được những người Gallivespia và biết rằng mình không bị nghe lén.
Cậu đặt balô xuống cửa động rồi uể oải ngồi xuống. Bên cạnh đó, con gấu đang nhóm lửa, còn Lyra thì quan sát một cách tò mò dù cho cô vẫn đang rất đau buồn. Iorek cầm một hòn đá nhỏ, một dạng như quặng sắt, trong bàn tay trái của mình rồi đập nó không quá ba hay bốn lần lên một hòn đá tương tự nằm trên sàn. Mỗi lần các tàn lửa đều tóe ra và bắn chính xác vào nơi Iorek đã hướng chúng tới: vào một đống cành con bị bẻ vụn và cỏ khô. Chẳng mấy chốc chỗ cành con đã cháy rực lên, rồi Iorek điềm tĩnh đặt vào đó một khúc cây, thêm một khúc nữa, rồi lại một khúc nữa, cho tới khi ngọn lửa bùng lên mạnh mẽ.
Hai đứa trẻ rất hoan nghênh ngọn lửa, vì không khí lúc này đã trở nên cực kì lạnh lẽo, nhưng sau đó còn có một thứ tuyệt vời hơn: một cái đùi của con gì đó có lẽ là dê. Đương nhiên là Iorek ăn thịt sống, nhưng nó đã xiên súc thịt này lên một cái que nhọn rồi đặt lên lửa để nướng cho hai đứa trẻ.
“Săn bắt trên những ngọn núi này có dễ dàng không, Iorek?” Cô hỏi.
“Không. Người dân của tôi không thể sống ở đây được. Tôi đã sai lầm, nhưng may là nhờ thế mà tôi tìm được cô. Kế hoạch của cô giờ thế nào?”
Will nhìn quanh hang động. Họ đang ngồi sát đống lửa, ánh lửa hắt những tia sáng màu vàng và cam ấm áp lên bộ lông của vua gấu. Will không thấy dấu hiệu nào của các mật thám, nhưng không có lựa chọn nào khác: Cậu phải hỏi thôi.
“Quốc vương Iorek,” cậu lên tiếng, “con dao của tôi bị gãy rồi…” Và rồi cậu nhìn qua phía con gấu và nói: “Không, khoan đã.” Cậu chỉ về phía vách tường. “Nếu các người đang lắng nghe,” cậu nói to hơn, “thì đường đường chính chính ra đây mà nghe. Đừng có do thám chúng tôi.”
Lyra và Iorek Byrnison quay lại để xem cậu đang nói chuyện với ai. Người đàn ông tí hon bước ra khỏi bóng tối rồi điềm nhiên ngồi trong ánh sáng, trên một gờ tường cao hơn đầu của bọn trẻ. Iorek gầm ghè.
“Ông vẫn chưa xin Iorek Byrnison cho phép vào động của ông ấy,” Will nói. “Trong khi ông ấy là quốc vương, còn ông chỉ là một mật thám. Ông nên tỏ ra tôn trọng hơn.”
Lyra thích thú khi nghe cậu nói vậy. Cô bé khoái chí nhìn Will, và thấy vẻ mặt cậu thật dữ tợn và đầy khinh miệt.
Nhưng biểu hiện của hiệp sĩ khi ông nhìn Will là vẻ không hài lòng.
“Chúng tôi đã rất chân thành với cậu,” ông nói. “Thật nhục nhã khi lừa gạt chúng tôi.”
Will đứng bật dậy. Linh thú của cậu, Lyra nghĩ, hẳn sẽ có dạng một con sư tử cái, cô bé liền co rúm người lại trước cơn thịnh nộ mà cô tưởng tượng con vật khổng lồ sẽ toát ra.
“Nếu chúng tôi có lừa ông thì điều đó cũng là cần thiết,” cậu nói. “Liệu các ông có đồng ý đến đây nếu biết được rằng con dao đã gãy không? Đương nhiên là không rồi. Ông hẳn đã dùng nọc độc của mình để khiến chúng tôi bất tỉnh, rồi gọi cứu viện để bắt cóc chúng tôi đem đến cho Ngài Asriel. Vì vậy chúng tôi buộc phải đánh lừa ông, Tialys ạ, ông chỉ cần phải chịu đựng điều đó thôi.”
Iorek Byrnison hỏi: “Ai đây?”
“Mật thám,” Will đáp. “Do Ngài Asriel cử đến. Hôm qua họ đã giúp chúng tôi trốn thoát, nhưng nếu về phe chúng ta, họ đáng ra không nên ẩn nấp để mà nghe lỏm. Mà nếu làm vậy thì họ không có quyền nói đến sự nhục nhã.”
Cái nhìn trừng trừng của viên mật thám hung tợn đến mức trông ông ta sẵn sàng lao vào cả Iorek chứ chưa nói gì đến cậu bé Will chỉ có tay không; nhưng Tialys là người đã sai, và ông ta biết điều đó. Tất cả những gì ông có thể làm là cúi đầu xin lỗi.
“Đức vua,” ông nói với Iorek, khiến ông ta lập tức gầm gừ.
Đôi mắt của hiệp sĩ lóe lên ánh nhìn căm hận về phía Will, vẻ thách thức và cảnh cáo về phía Lyra, cùng với một sự tôn kính lạnh lùng và cảnh giác đối với Iorek. Những đường nét rõ rệt của ông càng khiến cho tất cả những biểu hiện này trở nên sinh động và rực rỡ, như thể một chùm sáng đang chiếu lên người ông vậy. Bên cạnh ông, Công nương Salmakia đang hiện ra từ trong bóng tối, hoàn toàn lờ hai đứa trẻ đi, bà khẽ nhún đầu gối cúi chào con gấu.
“Xin thứ tội cho chúng tôi,” bà nói với Iorek. “Thói quen ẩn náu quả là khó mà bỏ được, hơn nữa người bạn đồng hành Hiệp sĩ Tialys và tôi, Công nương Salmakia, đã ở trong lòng địch quá lâu, đến nỗi chỉ hoàn toàn do thói quen, chúng tôi đã quên mất việc phải chào hỏi ngài đàng hoàng. Chúng tôi đi cùng hai cô cậu này để đảm bảo rằng họ sẽ an toàn đến được với vòng tay chăm sóc của Ngài Asriel. Chúng tôi không có mục đích nào khác, và chắc chắn là không có ý định gì gây tổn hại đến ngài, thưa Quốc vương Iorek Byrnison.”
Nếu Iorek có tự hỏi liệu những sinh vật bé nhỏ đến vậy có thể làm hại được gì đến mình thì nó cũng không thể hiện ra chút nào; không chỉ là vì biểu hiện của nó vốn đã khó dò, mà nó cũng có phép lịch sự, hơn nữa vị công nương lại đang nói chuyện rất tử tế.
“Đến bên ngọn lửa đi,” nó nói. “Có rất nhiều đồ ăn nếu các vị đang đói. Will, cậu bắt đầu nói về con dao đi.”
“Vâng,” Will đáp, “tôi cứ nghĩ chuyện đó không bao giờ có thể xảy ra được, nhưng nó đã gãy mất rồi. Chân Kế nói với Lyra rằng ông có thể sửa được nó. Tôi đã định nhờ vả một cách lịch sự hơn, nhưng tôi nói luôn nhé: Ông có thể sửa được không, Iorek?”
“Cho tôi xem nào.”
Will lắc vỏ bao để tất cả các mảnh rơi ra rồi đặt chúng lên nền đá, cẩn thận đẩy chúng đi cho tới khi tất cả được đặt vào đúng chỗ và cậu có thể thấy được rằng các mảnh đều đang ở đó. Lyra giơ một cành cây đang cháy lên. Trong ánh sáng của nó, Iorek cúi xuống sát để nhìn thật kĩ từng mảnh một, nhẹ nhàng chạm vào chúng bằng bộ móng đồ sộ rồi nâng lên để xoay hết bên này đến bên kia, thẩm định vết nứt. Will kinh ngạc trước sự khéo léo của những cái móng đen vĩ đại kia.
Rồi Iorek ngồi dậy trở lại, đầu vươn cao lên, chìm vào bóng tối phía trên.
“Được,” nó nói, trả lời chính xác câu hỏi và không có gì hơn.
Biết ý của con gấu, Lyra nói: “À, nhưng ông sẽ sửa nó chứ, Iorek? Ông không thể tin được nó quan trọng đến thế nào đâu - nếu không thể sửa được nó, chúng tôi sẽ gặp rắc rối khủng khiếp, mà không chỉ riêng chúng tôi…”
“Tôi không thích con dao đó,” Iorek nói. “Tôi sợ điều mà nó có thể làm được. Tôi chưa bao giờ biết tới một thứ gì nguy hiểm đến thế. Những cỗ máy chiến đấu chết người nhất cũng chỉ là đồ chơi vặt vãnh so với con dao này; tác hại mà nó có thể gây ra là vô cùng. Sẽ tốt hơn rất rất nhiều nếu nó chưa từng được chế tạo ra.”
“Nhưng với nó…” Will kêu lên.
Iorek không để cho cậu nói hết câu mà tiếp tục: “Với nó, cậu có thể làm những việc kì lạ. Điều mà cậu không biết là những gì con dao tự làm theo ý nó. Ý định của cậu có thể là tốt, nhưng bản thân con dao cũng có ý muốn riêng của mình.”
“Làm sao như thế được?” Will nói.
“Ý định của công cụ là những gì mà nó thực hiện. Một cái búa sẽ đập, mỏ cặp sẽ giữ chắc, đòn bẩy thì sẽ nâng, chúng là mục đích mà mình được tạo ra. Nhưng đôi khi một công cụ có thể có những tác dụng khác mà ta không biết. Đôi khi trong lúc thực hiện ý định của mình, cậu cũng làm điều con dao mong muốn mà không hay biết. Cậu có thể thấy cái cạnh sắc nhất của con dao đó không?”
“Không,” Will nói, vì đó là sự thật: Cạnh dao thu hẹp lại tới một độ mảnh tinh vi đến mức mắt thường không thể lần tới được.
“Vậy thì làm sao cậu có thể biết được tất cả mọi thứ mà nó làm chứ?”
“Tôi không thể. Nhưng tôi vẫn phải sử dụng nó, và làm những gì mình có thể để giúp cho những điều tốt xảy ra. Nếu không làm gì cả, tôi sẽ còn tồi tệ hơn cả đồ vô dụng. Tôi sẽ cảm thấy rất tội lỗi.”
Lyra đang theo dõi sát sao cuộc đối thoại, khi thấy Iorek vẫn không sẵn lòng giúp, cô liền lên tiếng:
“Iorek, ông biết lũ người ở Bolvangar xấu xa đến thế nào rồi đó. Nếu chúng ta không thể thắng, bọn chúng sẽ có thể tiếp tục tiến hành những việc kiểu như thế mãi mãi. Hơn nữa, nếu chúng ta không có con dao thì chính chúng có thể sẽ chiếm được nó. Chúng ta không hề biết về nó khi tôi mới gặp ông, Iorek ạ, mà cũng không ai biết cả, nhưng giờ khi đã biết rồi, chúng ta phải tự mình sử dụng nó - chúng ta không thể không làm vậy được. Như thế là nhu nhược, và còn là sai lầm nữa, chẳng khác nào là đưa cho chúng và nói đây này, dùng đi, chúng tôi không cản đâu. Đúng là chúng ta không biết những gì nó làm, nhưng tôi có thể hỏi Chân Kế mà, không phải sao? Như vậy chúng ta sẽ biết. Và chúng ta có thể nghĩ về nó một cách đàng hoàng thay vì cứ đoán mò và sợ sệt.”
Will không muốn nhắc tới lí do cấp thiết nhất của mình: Nếu con dao không được sửa chữa, cậu sẽ không bao giờ về nhà được nữa, không bao giờ gặp lại mẹ mình; bà sẽ không bao giờ biết được chuyện gì đã xảy ra; bà sẽ nghĩ rằng cậu đã bỏ rơi bà như bố cậu đã làm. Con dao đã trở thành nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự ruồng bỏ của cả hai bọn họ. Cậu phải dùng nó để quay trở về với mẹ, nếu không sẽ không bao giờ tha thứ được cho bản thân mình.
Iorek Byrnison không nói không rằng trong một lúc lâu mà chỉ quay đầu nhìn ra ngoài bóng đêm. Sau đó nó chậm rãi đứng dậy rồi bệ vệ bước ra phía cửa động, ngước mắt nhìn lên những vì tinh tú: Một số trong đó giống như những vì sao mà nó biết trên Phương Bắc, nhưng số còn lại thì thật xa lạ.
Đằng sau con gấu, Lyra xoay miếng thịt bên trên ngọn lửa, còn Will thì đang kiểm tra những vết thương của mình xem chúng sắp lành hay chưa. Tialys và Salmakia lặng lẽ ngồi trên gờ tường của mình.
Rồi Iorek quay người lại.
“Được rồi, tôi sẽ làm với một điều kiện,” con gấu nói. “Dù cho tôi có cảm giác đó là một sai lầm. Dân tộc tôi không có thần thánh, không có ma quỷ hay linh thú gì cả. Chúng tôi sống rồi chết, cứ như vậy thôi. Những vấn đề của con người chẳng mang lại điều gì cho chúng tôi ngoài đau khổ và phiền nhiễu, nhưng chúng tôi có ngôn ngữ, chúng tôi gây chiến và sử dụng công cụ; có lẽ chúng tôi nên chọn lấy phe của mình. Nhưng hiểu biết đầy đủ thì sẽ tốt hơn là nửa vời. Lyra, đọc cái máy của cô đi. Hãy biết mình đang yêu cầu điều gì. Nếu sau đó cô vẫn muốn như vậy thì tôi sẽ sửa con dao.”
Ngay lập tức Lyra lấy Chân Kế ra rồi nhích lại gần ngọn lửa để có thể thấy được mặt cái máy. Ánh sáng bập bùng không liên tục khiến cho việc đọc trở nên khó khăn, hay có lẽ khói đang làm cô mờ mắt, nên cô mất nhiều thời gian hơn bình thường để đọc nó. Khi cô bé chớp mắt, thở dài và thoát ra khỏi trạng thái nhập định, gương mặt cô đầy phiền muộn.
“Tôi không hề biết nó lại rắc rối đến vậy,” cô nói. “Nó nói về rất nhiều điều. Tôi cho là mình đã hiểu rõ rồi. Tôi nghĩ vậy. Đầu tiên nó nhắc đến sự cân bằng. Nó nói con dao có thể gây hại hoặc có thể làm điều tốt, nhưng rất mỏng manh, một dạng cân bằng rất dễ bị phá vỡ, đến mức một suy nghĩ hay ước muốn mờ nhạt nhất cũng có thể lật nó nghiêng theo hướng này hay hướng kia… Và nó có nghĩa là cậu, Will ạ, nghĩa là những gì cậu mong ước hay suy nghĩ, chỉ có điều nó không nói một suy nghĩ như thế nào thì là tốt hoặc xấu.
“Sau đó… nó nói được,” cô nói, đôi mắt lóe lên nhìn hai mật thám. “Nó nói được, cứ làm đi, sửa con dao đi.”
Iorek điềm tĩnh nhìn cô bé, rồi gật đầu một cái.
Tialys và Salmakia trèo xuống để nhìn kĩ hơn, rồi Lyra nói: “Ông có cần thêm nhiên liệu không, Iorek? Tôi và Will có thể đi lấy thêm một ít, chắc chắn đấy.”
Will hiểu ý cô bé: Khi rời xa khỏi những mật thám, chúng có thể nói chuyện.
Iorek nói: “Bên dưới mỏm núi đầu tiên trên lối mòn có một bụi rậm với gỗ nhựa. Cứ mang thứ đó về nhiều nhất có thể.”
Cô bé lập tức bật dậy, Will đi cùng với cô.
Mặt trăng đang tỏa sáng rực rỡ, con đường mòn chằng chịt những vết chân chồng chéo lên nhau trên nền tuyết, không khí lạnh cứa da cứa thịt. Cả hai đứa trẻ đều cảm thấy phấn khởi, tràn trề hi vọng và sung sức. Chúng không nói chuyện cho tới khi đã đi thật xa khỏi hang động.
“Nó còn nói gì nữa?” Will hỏi.
“Nó nói vài thứ mà tớ không hiểu được lúc đó và đến giờ vẫn chưa hiểu nổi. Nó nói con dao sẽ là án tử của Bụi, nhưng rồi nó lại nói đó là cách duy nhất giữ cho Bụi sống sót. Tớ không lí giải được, Will ạ. Nhưng cái máy nhắc lại rằng nó rất nguy hiểm, cứ nhắc đi nhắc lại mãi. Nó nói nếu chúng ta - cậu biết đấy - điều tớ đã nghĩ…”
“Nếu chúng ta tới thế giới của người chết…”
“Ừ - nếu chúng ta làm vậy - nó nói rằng chúng ta có thể sẽ không bao giờ trở về, Will ạ. Chúng ta có thể sẽ không sống sót nổi.”
Cậu bé không nói gì, lúc này chúng đã bước đi bình tĩnh hơn, chú ý tìm bụi cây mà Iorek đã nhắc đến, và bị ý nghĩ về điều mà mình có thể sắp dấn thân vào làm cho nín lặng.
“Có điều là chúng ta vẫn phải làm thôi,” cậu nói, “không đúng sao?”
“Tớ không biết nữa.”
“Ý tớ là giờ thì chúng ta biết rồi đó. Cậu phải nói chuyện với Roger, còn tớ phải nói chuyện với bố mình. Chúng ta phải làm thôi.”
“Tớ sợ lắm,” cô bé nói.
Và cậu biết rằng cô chưa từng thừa nhận điều đó với bất kì ai khác.
“Nó có nói chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không làm không?” Cậu hỏi.
“Chỉ toàn là trống rỗng thôi, chỉ là hư không. Tớ thật sự không hiểu nổi nó, Will ạ. Nhưng tớ nghĩ ý nó là kể cả việc đó có nguy hiểm thì chúng ta vẫn cần phải cố gắng cứu lấy Roger. Nhưng nó sẽ không giống với khi tớ cứu cậu ấy khỏi Bolvangar; lúc đó tớ không biết mình đang làm gì, thật đấy, tớ chỉ cứ thế mà lên đường, và đã gặp may. Ý tớ là lúc đó có rất nhiều những người khác đến giúp đỡ, như dân du mục và các phù thủy. Nhưng nơi mà chúng ta phải đến sẽ không có bất cứ sự trợ giúp nào. Tớ có thể thấy… Trong giấc mơ của mình tớ đã thấy… Nơi đó thật… Nó còn tồi tệ hơn cả Bolvangar. Đó là lí do tớ sợ hãi.”
“Điều mà tớ lo sợ,” Will nói sau đó một lúc, hoàn toàn không nhìn vào cô bé, “là bị kẹt ở đâu đó và không bao giờ được gặp lại mẹ mình nữa.”
Không hiểu từ đâu, một kí ức ùa đến với cậu: Cậu còn rất bé, đó là trước khi những vấn đề của mẹ cậu bắt đầu, và cậu đang bị ốm. Suốt cả đêm, có vẻ như vậy, mẹ đã ngồi trên giường cậu trong bóng tối, ngâm nga những bài đồng dao cho trẻ nhỏ, kể chuyện cho cậu nghe, và chừng nào giọng nói thân thương của bà vẫn còn ở đó thì cậu vẫn sẽ biết rằng mình đang được an toàn. Giờ thì cậu không thể bỏ mặc bà được. Không thể nào! Cậu sẽ chăm sóc mẹ suốt cả cuộc đời mình nếu bà cần điều đó.
Như thể biết được điều cậu đang nghĩ, Lyra ấm áp nói:
“Phải, đúng như vậy, điều đó sẽ thật khủng khiếp… Cậu biết đấy, với mẹ mình, tớ chưa bao giờ nhận ra… Tớ cứ một thân một mình mà lớn lên, thật đấy; tớ không nhớ nổi có bất cứ ai từng ôm ấp hay âu yếm mình, trong suốt cuộc đời mà tớ có thể nhớ được chỉ có mình tớ và Pan… Tớ không nhớ được là cô Lonsdale đã từng đối xử với mình như thế; cô ấy là bảo mẫu ở Học viện Jordan, tất cả những gì cô ấy làm là đảm bảo rằng tớ luôn sạch sẽ, đó là tất cả những gì cô ấy nghĩ đến, à còn cả các phép tắc nữa… Nhưng trong hang động đó, Will ạ, tớ thật sự đã cảm thấy - ôi thật là kì lạ, tớ biết bà ấy đã làm những điều tồi tệ, nhưng tớ thật sự nhận thấy rằng bà ấy yêu thương mình và chăm sóc mình tận tình… Hẳn là bà ấy đã nghĩ tớ sắp chết rồi khi mà cứ ngủ miết như thế - tớ đoán mình hẳn đã bị mắc thứ bệnh gì đó - nhưng bà ấy không ngừng chăm lo cho tớ. Tớ còn nhớ một hay hai lần tỉnh dậy và thấy bà đang ôm mình trong vòng tay… Tớ có nhớ điều đó, chắc chắn đấy… Đó là điều tớ sẽ làm ở vị trí của bà ấy nếu tớ có một đứa con.”
Hóa ra cô bé không hề biết lí do vì sao mình cứ ngủ suốt thời gian đó. Cậu có nên kể với cô và phản bội lại kí ức đấy, dù cho nó có là nhầm lẫn? Không, đương nhiên là cậu không nên.
“Có phải bụi cây đó không?” Lyra hỏi.
Ánh trăng đủ rực rỡ để soi rọi từng chiếc lá một. Will bẻ lấy một cành non, và mùi nhựa thông vương lại rất nồng trên những ngón tay cậu.
“Chúng ta sẽ không nói bất cứ điều gì cho mấy mật thám tí hon đó,” cô bé nói thêm.
Chúng nhặt lấy đầy một vòng tay từ bụi cây rồi đem trở về hang động.