← Quay lại trang sách

- 16 - Phi cơ ý lực

Từ mái nhà vòm

Mặt dây bằng Ma thuật huyền ảo xếp thành nhiều dãy

Những ngọn đèn Sao xa và Đèn chòi canh sáng chói

Được cấp Dầu mỏ và Nhựa đường sản sinh quang năng

John Milton

“Con của ta! Con gái của ta! Nó đâu rồi? Các người đã làm gì? Lyra của ta - thà các người xé nát tim gan ta ra - nó đã đang an toàn bên ta, an toàn, giờ thì nó đâu mất rồi?”

Tiếng kêu khóc của Phu nhân Coulter vang dội khắp căn phòng nhỏ trên đỉnh ngọn tháp đá kim cương. Bà đang bị trói vào một cái ghế, tóc tai rối bời, quần áo rách rưới, đôi mắt điên dại; con linh thú khỉ của bà đang vùng vẫy, quẫy đạp trên sàn trong mớ xích bằng bạc.

Ngài Asriel ngồi gần đó, nguệch ngoạc viết lên một mẩu giấy, không buồn bận tâm. Một người lính liên lạc đứng cạnh ông, lo lắng liếc nhìn người phụ nữ. Khi Ngài Asriel trao cho mẩu giấy, ông ta liền cúi chào rồi vội vã đi ra, con linh thú chó sục bám sát gót, đuôi cụp hẳn xuống.

Ngài Asriel quay sang Phu nhân Coulter.

“Lyra à? Nói thật, ta chẳng quan tâm,” ông nói, giọng ông trầm và khàn. “Cái con bé tệ hại đó đáng ra nên ở nơi nó được đặt và làm việc nó được sai. Ta không thể tốn thêm thời gian hay tiềm lực cho nó được; nếu nó từ chối được giúp đỡ thì cứ để nó xử lí hậu quả.”

“Anh không có ý đó, Asriel, nếu không anh đã chẳng…”

“Ta nói thật từng lời một đấy. Những rối loạn mà nó gây ra hoàn toàn không cân xứng chút nào với công lao của nó. Một đứa con gái Anh tầm thường, không được thông minh cho lắm…”

“Nó thông minh mà!” Phu nhân Coulter nói.

“Được rồi; lanh lợi nhưng không hiểu biết; bốc đồng, không trung thực, tham lam…”

“Dũng cảm, hào phóng, tình cảm.”

“Một đứa trẻ hoàn toàn bình thường, chẳng có gì đặc biệt…”

“Hoàn toàn bình thường? Lyra ấy à? Nó là đứa có một không hai. Thử nghĩ về những gì nó đã làm xem. Cứ ghét nó nếu anh muốn, Asriel ạ, nhưng đừng có tỏ vẻ kẻ cả với con gái của mình. Nó vẫn đang an toàn bên em, cho tới khi…”

“Em nói đúng,” ông nói rồi đứng dậy. “Nó rất đặc biệt. Vì đã khiến em trở nên nhu mì và mềm yếu - quả là chuyện hiếm có. Nó đã rút hết nọc độc của em rồi, Marisa ạ. Nó đã bẻ gãy răng của em. Ngọn lửa của em đã bị cơn mưa bụi của lòng hiếu thảo ủy mị khiến cho nguội lạnh. Ai mà dám nghĩ tới chuyện đó cơ chứ? Thuộc hạ tàn nhẫn của Giáo hội, kẻ điên loạn ngược đãi trẻ em, nhà sáng chế những cỗ máy gớm guốc nhằm cắt chúng ra làm đôi và tìm kiếm trong những bản thể nhỏ bé hoảng sợ của chúng bất cứ bằng chứng nào của tội lỗi - rồi một con bé hỗn xược, ngu dốt, ăn nói thô tục với những cái móng tay bẩn thỉu đến, và em cứ thế cục cục kêu rồi phủ lông lên che chở cho nó như gà mái mẹ vậy. Quả thật ta cũng phải thừa nhận rằng đứa bé hẳn phải có một thiên bẩm mà bản thân ta chưa từng chứng kiến. Nhưng nếu tất cả những gì nó làm là biến em thành một bà mẹ mê mẩn thì đó là một tài năng nghèo nàn, tẻ nhạt và vớ vẩn. Còn giờ thì em cũng nên im lặng đi. Ta đã yêu cầu các chỉ huy trưởng của mình tới họp bàn khẩn cấp, nếu em không thể kiểm soát được tiếng ồn của mình thì ta sẽ nhét giẻ vào mồm đấy.”

Phu nhân Coulter hóa ra lại giống con gái mình hơn cả bà biết. Câu trả lời của bà cho điều này là nhổ vào mặt Ngài Asriel. Ông ta điềm tĩnh lau đi rồi nói: “Một cái giẻ cũng sẽ kết thúc cái kiểu cư xử đó.”

“Ồ, cứ sửa lại nếu em nói sai, Asriel ạ,” bà nói, “kẻ phô bày tù nhân của mình cho các sĩ quan cấp dưới trong tình trạng bị trói vào ghế rõ ràng là một hoàng tử lịch thiệp rồi. Cởi trói cho em, hoặc em sẽ ép anh phải nhét giẻ vào miệng em.”

“Như em muốn,” ông nói rồi lấy một chiếc khăn lụa ra từ ngăn kéo; nhưng trước khi ông có thể buộc nó quanh miệng bà, bà vội lắc đầu.

“Không, không,” bà kêu lên, “Asriel, đừng, làm ơn, đừng khiến em phải chịu nhục nhã.”

Những giọt nước mắt căm giận ứa ra từ đôi mắt bà.

“Được rồi, ta sẽ cởi trói cho em, nhưng nó thì vẫn sẽ ở nguyên trong xích,” ông ta nói rồi thả chiếc khăn vào ngăn kéo trước khi cắt dây trói bà bằng một con dao gập.

Bà xoa cổ tay, đứng dậy, vươn vai, và chỉ khi đó bà mới nhận ra tình trạng quần áo và đầu tóc mình. Trông bà thật hốc hác và nhợt nhạt; lượng nọc độc cuối cùng của người Gallivespia vẫn còn lưu lại trong cơ thể, khiến cho các khớp của bà đau đớn khổ sở, nhưng bà sẽ không để lộ cho ông ta thấy điều đó.

Ngài Asriel nói: “Em có thể tắm rửa trong đó,” ám chỉ một căn phòng nhỏ không lớn hơn một cái tủ quần áo là bao.

Bà ẵm con linh thú đang bị xích của mình lên rồi đi qua để sửa sang cho gọn gàng hơn. Con khỉ giương đôi mắt hiểm ác lườm Ngài Asriel qua vai bà.

Người lính liên lạc bước vào để thông báo:

“Đức ngài Quốc vương Ogunwe và Ngài Roke.”

Viên chỉ huy người Phi châu và Gallivespia bước vào: Quốc vương Ogunwe trong bộ quân phục tươm tất, với một vết thương trên thái dương vừa mới được băng bó, còn Ngài Roke cưỡi trên con diều hâu màu xanh của mình lao vút về phía chiếc bàn.

Ngài Asriel nồng hậu chào đón họ rồi mời rượu. Con chim để cho người cưỡi mình bước xuống rồi bay về phía thanh rầm chia gần cửa ra vào trong lúc người lính liên lạc thông báo vị thứ ba trong số những chỉ huy tối cao của Ngài Asriel, một thiên thần với cái tên Xaphania. Bà ta có thứ bậc cao hơn hẳn so với Baruch và Balthamos, có thể nhìn thấy được nhờ một thứ ánh sáng lung linh, lay động dường như rọi tới từ một nơi xa xăm.

Vào lúc này Phu nhân Coulter đã xuất hiện, trông gọn gàng hơn nhiều, và cả ba vị chỉ huy đều cúi chào bà. Nếu bà có ngạc nhiên trước vẻ ngoài của họ thì cũng không tỏ ra ngoài mặt chút nào, bà chỉ nghiêng đầu rồi hiền hòa ngồi xuống, tay ôm lấy con khỉ đang bị trói chặt.

Không để phí thời gian, Ngài Asriel liền nói: “Hãy kể cho ta sự việc đã xảy ra đi, Quốc vương Ogunwe.”

Người Phi châu, với vẻ uy quyền và giọng nói trầm, lên tiếng: “Chúng tôi đã giết mười bảy tên Vệ binh Thụy Sĩ và phá hủy hai chiếc zeppelin, bị thiệt hại năm người và một xa thăng. Đứa con gái và thằng bé đã trốn thoát. Chúng tôi đã bắt được Quý bà Coulter, bất chấp sự chống trả kiên cường của bà, và đưa bà đến đây. Tôi hi vọng bà ấy cảm thấy mình được đối xử lịch sự.”

“Tôi khá hài lòng với cách ông đối đãi tôi, thưa ông,” bà nói, cùng với một chút nhấn rất nhẹ lên từ ông.

“Số xa thăng còn lại có bị hư hại gì không? Có ai bị thương không?” Ngài Asriel hỏi.

“Có vài hư hại và vài người bị thương, nhưng đều không đáng kể.”

“Tốt. Cảm ơn ông, Quốc vương; lực lượng của ông làm rất tốt. Ngài Roke, ông đã nghe ngóng được gì rồi?”

Người Gallivespia đáp: “Các mật thám của tôi đang đi cùng thằng bé và đứa con gái tại một thế giới khác. Cả hai đứa trẻ đều an toàn và khỏe mạnh, dù cho đứa con gái đã bị bắt uống thuốc ngủ trong nhiều ngày trời. Thằng bé làm hư con dao của mình trong chuỗi sự kiện xảy ra tại hang động: Do một tai nạn nào đó, con dao đã bị gãy thành nhiều mảnh. Nhưng giờ thì nó đã nguyên vẹn trở lại nhờ một sinh vật đến từ phía bắc thuộc thế giới của ngài, Ngài Asriel ạ, một con gấu khổng lồ, rất thành thạo nghề rèn. Ngay sau khi con dao được sửa, thằng bé cắt lối thông vào một thế giới khác, nơi chúng đang ở hiện tại. Các mật thám của tôi đương nhiên là đang ở cùng với chúng, nhưng có một khó khăn: Chừng nào thằng bé còn giữ con dao thì nó không thể bị bắt ép làm bất cứ điều gì; nhưng nếu họ giết nó khi đang ngủ thì con dao sẽ trở nên vô dụng với chúng ta. Tạm thời, Hiệp sĩ Tialys và Công nương Salmakia sẽ đi cùng chúng đến bất cứ nơi nào chúng tới, vậy nên ít nhất chúng ta cũng có thể theo dấu được chúng. Có vẻ như chúng đang có một kế hoạch trong đầu; có thuyết phục đến mấy thì chúng cũng không chịu đến đây. Hai người của tôi sẽ không để mất dấu chúng đâu.”

“Chúng có được an toàn ở cái thế giới mới mà chúng đang ở không?” Ngài Asriel hỏi.

“Chúng đang ở trên bãi biển gần một khu rừng dương xỉ. Không có dấu hiệu gì của sự sống động vật ở gần đó. Trong lúc chúng ta nói chuyện, cả hai đứa trẻ đều đang ngủ; tôi vừa nói chuyện với Hiệp sĩ Tialys chưa đầy năm phút trước.”

“Cảm ơn ông,” Ngài Asriel nói. “Giờ khi cả hai đặc vụ của ông đều đang đi theo bọn trẻ, hẳn nhiên là chúng ta không còn tai mắt nào trong Huấn Quyền nữa. Chúng ta sẽ phải dựa vào Chân Kế thôi. Ít nhất…”

Rồi, trước sự ngạc nhiên của họ, Phu nhân Coulter lên tiếng.

“Tôi không biết về những nhánh khác,” bà nói, “nhưng trong phạm vi liên quan đến Tòa án Công giáo thì Chân Kế gia mà họ nhờ cậy là Đan sĩ Pavel Rasek. Ông ta là một người rất cẩn thận, chỉ có điều là chậm chạp thôi. Phải vài tiếng nữa họ mới biết được Lyra đang ở đâu.”

Ngài Asriel nói: “Cảm ơn em, Marisa. Em có biết gì về kế hoạch tiếp theo của Lyra và thằng bé này không?”

“Không,” bà đáp. “em không biết gì cả. Em đã nói chuyện với thằng bé, có vẻ như nó là một đứa trẻ cứng đầu, một đứa quá quen với việc giữ bí mật. Em không thể đoán nổi nó sẽ làm gì. Còn về Lyra, để hiểu được nó gần như vô vọng.”

“Thưa ông,” Quốc vương Ogunwe nói, “liệu chúng tôi có thể biết quý bà đây có phải là một thành viên của hội đồng chỉ huy này không? Nếu có thì nhiệm vụ của bà ấy là gì? Còn không thì không phải bà ấy nên được đưa đi chỗ khác sao?”

“Bà ấy là tù binh của chúng ta và là khách của ta. Do nguyên là một đặc vụ xuất sắc của Giáo hội, bà ấy có thể có những thông tin hữu ích.”

“Liệu bà ấy có sẵn sàng tiết lộ điều gì không? Hay là cần phải bị tra khảo?” Ngài Roke hỏi, vừa nói vừa nhìn thẳng vào bà.

Phu nhân Coulter phá lên cười.

“Tôi cứ nghĩ các chỉ huy của Ngài Asriel sẽ hiểu biết nhiều hơn là hi vọng vào sự thật được tiết lộ nhờ tra tấn chứ,” bà nói.

Ngài Asriel không thể không thích thú trước sự giả tạo không hề che đậy của bà.

“Ta đảm bảo tư cách của Phu nhân Coulter,” ông nói. “Bà ấy biết điều gì sẽ xảy ra nếu phản bội chúng ta; dù bà ấy sẽ không có cơ hội đó đâu. Tuy nhiên, nếu có ai trong các ông cảm thấy nghi ngờ thì cứ nói luôn ra, đừng sợ.”

“Tôi,” Quốc vương Ogunwe nói, “nhưng tôi nghi ngờ ông chứ không phải bà ấy.”

“Tại sao?” Ngài Asriel hỏi.

“Nếu bị bà ấy quyến rũ, ông sẽ không kháng cự. Bắt bà ấy là đúng, nhưng mời bà ấy vào hội đồng này là sai lầm. Cứ đối xử thật lịch sự, cung cấp những tiện nghi tốt nhất cho bà ấy, nhưng hãy để bà ấy ở chỗ khác, và tránh xa bà ấy ra.”

“Chà, tôi đã mời ông phát biểu,” Ngài Asriel nói, “nên tôi phải chấp nhận sự khiển trách của ông. Tôi coi trọng sự hiện diện của ông hơn của bà ấy, thưa Quốc vương. Tôi sẽ đưa bà ấy ra ngoài.”

Ông với lấy cái chuông, nhưng trước khi kịp rung thì Phu nhân Coulter đã lên tiếng.

“Làm ơn,” bà khẩn khoản nói, “nghe tôi nói trước đã. Tôi có thể giúp. Tôi là người thân cận nhất với trái tim của Huấn Quyền hơn bất cứ ai mà các vị có khả năng tìm thấy. Tôi biết cách mà họ suy nghĩ, tôi có thể đoán họ sẽ làm gì. Các vị tự hỏi vì sao lại phải tin tưởng tôi, điều gì đã khiến tôi rời bỏ họ ư? Rất đơn giản: Họ định sẽ giết con gái tôi. Họ không dám để nó sống. Vào khoảnh khắc tôi phát hiện ra nó là ai - nó là thứ gì - giới phù thủy đã tiên đoán gì về nó - tôi biết rằng mình phải rời khỏi Giáo hội; tôi biết rằng mình là kẻ thù của họ, và họ là kẻ thù của tôi; tôi không biết các vị là gì, và tôi là gì đối với các vị - đó là một điều bí ẩn; nhưng tôi biết rằng mình phải đặt bản thân chống lại Giáo hội, chống lại mọi thứ họ tin tưởng, và nếu cần thiết, chống lại cả chính Đấng Quyền Năng. Tôi…”

Bà dừng lại. Tất cả các chỉ huy đều đang chăm chú lắng nghe. Giờ thì bà chuyển sang nhìn thẳng vào Ngài Asriel và dường như chỉ nói riêng với ông, giọng bà hạ xuống, nồng nàn, đôi mắt sáng lấp lánh.

“Em đã là một người mẹ tồi tệ nhất thế gian. Em đã để cho con của chính mình bị đưa đi khi nó mới chỉ là một đứa trẻ sơ sinh nhỏ xíu, bởi vì em không quan tâm đến nó; em chỉ quan tâm đến sự thăng tiến của bản thân. Em đã không nghĩ về nó trong nhiều năm trời, mà nếu có thì chỉ là để hối tiếc về nỗi hổ thẹn mà sự ra đời của nó gây ra.

“Nhưng khi Giáo hội bắt đầu tỏ ra hứng thú tới Bụi và lũ trẻ con, một điều gì đó đã được khơi lên trong tim, và em nhớ ra rằng mình là một người mẹ còn Lyra là… con của em.

“Và vì có một mối đe dọa nên em đã cứu nó khỏi điều đó. Cho đến giờ đã có ba lần em phải vào cuộc để kéo nó ra khỏi hiểm hoạ. Lần đầu là khi Ủy ban Hiến tế bắt đầu công việc của mình: Em đã tới Học viện Jordan và đưa nó tới sống cùng mình ở London, nơi em có thể giữ cho nó an toàn khỏi Ủy ban… hoặc là em đã hi vọng thế. Nhưng nó đã bỏ chạy.

“Lần thứ hai là ở Bolvangar, khi em tìm thấy nó vừa kịp lúc, bên dưới - bên dưới con dao của… Tim em đã gần như ngừng đập… Đó là điều mà họ - chúng em - điều mà em đã làm với những đứa trẻ khác, nhưng khi đó là con của em… Ôi, anh không thể hiểu được nỗi kinh hoàng vào khoảnh khắc đó đâu, hi vọng anh sẽ không bao giờ phải chịu đựng điều em đã gặp phải lúc đó… Nhưng em đã cứu thoát được nó; em đã đưa nó ra; em đã cứu nó lần thứ hai.

“Nhưng kể cả khi làm vậy, em vẫn cảm thấy mình là một phần của Giáo hội, một người bầy tôi, một bầy tôi trung thành, ngoan đạo và tận tâm, bởi vì lúc đó em đang thực hiện nhiệm vụ của Đấng Quyền Năng.

“Rồi em biết tới lời tiên tri của các phù thủy. Không bao lâu nữa, bằng cách nào đó, Lyra sẽ bị cám dỗ, giống như Eve đã từng - đó là điều họ nói. Sự cám dỗ này sẽ xảy ra dưới dạng nào thì em không biết, nhưng xét cho cùng thì con bé cũng đang lớn lên. Không khó để có thể tưởng tượng được. Và giờ khi Giáo hội cũng đã biết điều đó, họ sẽ giết con bé. Nếu tất cả đều phụ thuộc vào nó thì liệu họ có thể mạo hiểm để cho nó sống không? Liệu họ có dám đánh liều đặt cược rằng nó sẽ từ chối sự cám dỗ này, dù cho đấy có là gì đi nữa không?

“Không, họ nhất định sẽ giết nó. Nếu có thể, họ sẽ trở lại Vườn Địa Đàng để giết Eve trước khi cô ta bị cám dỗ. Giết chóc không phải là điều gì khó khăn đối với họ; bản thân Calvin đã ra lệnh hạ sát lũ trẻ; họ sẽ giết nó với sự long trọng, nghi lễ, những lời cầu nguyện, than khóc và những bài thánh ca, nhưng họ sẽ giết nó. Nếu rơi vào tay họ, con bé sẽ chết.

“Vậy nên khi nghe điều ả phù thủy nói, em đã cứu con gái mình lần thứ ba. Em đã đưa nó tới nơi có thể giữ cho nó an toàn, và dự định lưu lại đó.”

“Bà đã đánh thuốc con bé,” Quốc vương Ogunwe nói. “Bà đã giữ cho nó ở trạng thái bất tỉnh.”

“Tôi buộc phải làm thế,” Phu nhân Coulter nói, “vì nó ghét tôi,” đến đây thì giọng của bà, vốn đang ngập tràn cảm xúc nhưng vẫn trong tầm kiểm soát, đột ngột òa ra thành một tiếng thổn thức, run rẩy khi bà nói tiếp: “Nó kinh sợ và ghét bỏ tôi, nó hẳn đã bỏ chạy khi nhìn thấy tôi giống như một con chim bỏ trốn khi thấy mèo nếu tôi không đánh thuốc để nó ngủ quên đi. Các vị có biết cảm giác của một người mẹ khi phải làm vậy không? Nhưng đó là cách duy nhất để giữ cho nó an toàn! Suốt cả thời gian đó trong động… say ngủ, mắt nó nhắm nghiền, cơ thể bất động, linh thú cuộn tròn bên cổ… Ôi, tôi cảm thấy một tình yêu, một sự dịu dàng, một thứ thật sâu sắc… Con của tôi, lần đầu tiên tôi có thể làm những điều đó cho nó, đứa con bé bỏng… Tôi tắm rửa cho nó, cho nó ăn, giữ cho nó an toàn và ấm áp, tôi đảm bảo cho cơ thể nó được nuôi dưỡng trong khi ngủ… Tôi nằm bên nó mỗi đêm, ẵm nó trong vòng tay mình, tôi khóc vào mái tóc nó, hôn lên đôi mắt đang ngủ của nó, con gái bé bỏng của tôi…”

Bà không hề thấy xấu hổ. Bà nói thật khẽ, không hề lớn tiếng diễn thuyết; và khi một tiếng thổn thức khiến người bà giật lên, nó cũng bị bóp nghẹt lại thành một tiếng nấc, như thể bà đang cố dìm những cảm xúc của mình xuống vì phép lịch sự. Điều đó lại khiến cho những lời nói dối trắng trợn của bà càng trở nên hiệu quả, Ngài Asriel ghê tởm nghĩ; bà ta dối trá từ tận trong xương tủy.

Bà hướng những lời lẽ của mình chủ yếu về phía Quốc vương Ogunwe, dù cho không hề tỏ ra cố tình, và Ngài Asriel cũng nhận thấy điều đó. Không chỉ vì quốc vương là kẻ buộc tội chính, mà ông còn là một con người, không giống như thiên thần hay Ngài Roke, bà biết cách lợi dụng ông ta.

Mặc dù vậy, trên thực tế mật thám người Gallivespia mới là kẻ chịu ấn tượng mạnh mẽ nhất từ bà. Ngài Roke cảm nhận được bản chất của bà rất gần với một con bọ cạp mà ông từng chạm trán, ông ý thức rất rõ về sức mạnh của nọc độc mà mình có thể nhận biết được bên dưới chất giọng dịu dàng của bà ta. Tốt hơn hết là nên giữ cho lũ bò cạp ở nơi ta có thể thấy được chúng, ông nghĩ.

Vì vậy ông ủng hộ Quốc vương Ogunwe khi ông này đổi ý và tranh luận rằng bà nên ở lại, khiến Ngài Asriel cảm thấy như mình vừa bị đánh vào mạn sườn: Vì giờ ông muốn bà đi chỗ khác, nhưng bản thân lại đã đồng ý nghe theo nguyện vọng từ các chỉ huy của mình.

Phu nhân Coulter nhìn ông với một biểu hiện quan tâm đầy dịu dàng và tiết hạnh. Ông đoan chắc rằng chẳng ai có thể thấy vẻ đắc thắng ranh mãnh lóe lên ở tận sâu cùng trong đôi mắt tuyệt đẹp của bà.

“Vậy thì cứ ở lại,” ông nói. “Nhưng em đã nói đủ rồi. Giờ thì yên lặng đi. Ta muốn cân nhắc đề xuất xây dựng một đồn đóng quân trên biên giới phía nam. Các vị đã xem bản báo cáo rồi: Nó có thực hiện được không? Có đáng trông đợi không? Tiếp đến ta muốn kiểm tra kho vũ khí. Sau đó ta muốn nghe Xaphania nói về việc phân bổ các lực lượng thiên thần. Đầu tiên là về đồn đóng quân. Quốc vương Ogunwe?”

Vị lãnh đạo người Phi châu bắt đầu. Họ trao đổi trong một lúc, Phu nhân Coulter bị ấn tượng bởi kiến thức xác đáng của họ về lực lượng phòng vệ của Giáo hội và sự đánh giá rõ ràng về sức mạnh của các lãnh đạo trong đó.

Nhưng giờ khi Tialys và Salmakia đang ở với lũ trẻ, và Ngài Asriel không còn một mật thám nào trong Huấn Quyền, kiến thức của họ sẽ mau chóng trở nên lỗi thời một cách nguy hiểm. Một ý tưởng nảy ra trong đầu Phu nhân Coulter, bà và con linh thú khỉ liền trao đổi một cái liếc nhìn có cảm giác như một tia mạch cực lớn; nhưng bà không nói gì mà chỉ vuốt ve bộ lông vàng óng ả của con khỉ trong lúc lắng nghe các vị chỉ huy.

Rồi Ngài Asriel nói: “Đủ rồi. Đó là vấn đề chúng ta sẽ giải quyết sau. Giờ đến kho vũ khí. Phi cơ ý lực đã sẵn sàng để kiểm tra. Chúng ta sẽ đi xem sao.”

Ông lấy một chiếc chìa khóa bạc từ trong túi rồi mở khóa dây xích quanh chân và tay con khỉ vàng, cẩn thận không để chạm tay vào dù chỉ là một đầu sợi lông vàng.

Ngài Roke leo lên con diều hâu của mình rồi theo sau những người còn lại trong lúc Ngài Asriel bắt đầu bước xuống cầu thang của tòa tháp rồi đi ra bờ tường thành gắn lỗ châu mai.

Một cơn gió lạnh thổi tới đập vào mí mắt họ, con diều hâu màu xanh thẫm chao liệng trên một luồng gió mạnh, lượn vòng và gào thét trong bầu không khí bão táp. Quốc vương Ogunwe kéo áo khoác quanh người rồi đặt bàn tay lên đầu con linh thú báo cheetah của mình.

Phu nhân Coulter nhún nhường nói với vị thiên thần:

“Xin thứ lỗi thưa quý bà: Tên bà là Xaphania?”

“Phải,” thiên thần đáp.

Vẻ ngoài của thiên thần này gây ấn tượng với Phu nhân Coulter không khác gì những người bạn của bà đã gây ấn tượng với Ruta Skadi khi cô phù thủy thấy họ trên trời: Cơ thể bà không phải đang tỏa sáng, mà là được rọi chiếu lên, dù cho chẳng có nguồn ánh sáng nào cả. Bà mang vóc dáng cao ráo, ở trần, có cánh, gương mặt hằn nếp già cỗi hơn bất cứ sinh vật sống nào mà Phu nhân Coulter từng nhìn thấy.

“Bà có phải là một trong những thiên thần đã nổi dậy từ cách đây rất lâu không?”

“Phải. Kể từ đó ta đã lang thang giữa rất nhiều thế giới. Giờ thì ta đã nguyện trung thành với Ngài Asriel, bởi vì ta thấy được trong việc làm táo bạo của ông ấy niềm hi vọng lớn nhất để cuối cùng cũng hủy diệt được tên bạo chúa kia.”

“Nhưng nếu các vị thất bại thì sao?”

“Thì tất cả chúng ta sẽ bị diệt vong, và sự tàn ác sẽ vĩnh viễn ngự trị.”

Họ vừa nói vừa đi theo những sải bước vội vã của Ngài Asriel dọc trên bức tường thành gió quật, tới một cầu thang đồ sộ dẫn xuống sâu tới mức ánh sáng từ các đế nến tỏa rộng trên tường cũng chẳng thể soi tỏ phần đáy. Con diều hâu xanh lao qua họ và nhào xuống dưới sâu, sâu mãi trong ánh sáng lờ mờ, cứ mỗi lần nó vụt qua một nguồn sáng, bộ lông lại lóe lên cho tới khi nó chỉ còn là một tia lửa nhỏ xíu, rồi chẳng còn gì sót lại.

Vị thiên thần vừa tiến lên đi cạnh Ngài Asriel, còn Phu nhân Coulter thấy mình đã lùi xuống bên vị vua Phi châu.

“Xin hãy thứ lỗi cho sự ngu dốt của tôi, thưa ông,” bà nói, “nhưng tôi chưa từng nhìn thấy hay nghe nói về một ai giống như người đàn ông trên con diều hâu xanh cho tới khi trận chiến trong động hôm qua xảy ra… Ông ta từ đâu tới vậy? Ông có thể kể cho tôi nghe về dân tộc của ông ấy không? Tôi không đời nào dám xúc phạm ông ấy, nhưng nếu nói mà không biết tí gì về ông ấy thì rất có thể tôi sẽ vô tình trở nên vô lễ.”

“Bà hỏi là rất phải,” Quốc vương Ogunwe nói. “Dân tộc của ông ấy rất kiêu hãnh. Thế giới của họ phát triển không giống chúng ta; ở đó có hai dạng người có ý thức là con người và người Gallivespia. Con người hầu hết đều là bầy tôi của Đấng Quyền Năng, từ thời kì sơ khai nhất mà người ta có thể nhớ được, họ đã luôn muốn triệt tiêu những người tí hon. Họ cho rằng những người này là ma quỷ. Vì vậy những người Gallivespia vẫn không thể hoàn toàn tin tưởng những kẻ có cùng kích cỡ với chúng ta. Nhưng họ là những chiến binh dũng mãnh và kiêu hãnh, những kẻ thù chết người, và là những mật thám quý giá.”

“Người dân của ông ấy đều cùng phe với các vị, hay là họ cũng phân chia giống như con người vậy?”

“Có một vài người ở phe kẻ địch, nhưng phần lớn họ đều thuộc phe chúng ta.”

“Còn các thiên thần thì sao? Ông biết đấy, cho tới gần đây tôi vẫn cứ nghĩ thiên thần chỉ là chuyện bịa từ thời Trung Cổ; họ chỉ là nhân vật tưởng tượng… Thật là bối rối khi thấy chính mình lại đi nói chuyện với một thiên thần, phải không nào… Có bao nhiêu thiên thần đang ở phe Ngài Asriel vậy?”

“Phu nhân Coulter,” quốc vương nói, “những câu hỏi này chính là những thứ mà một tên do thám muốn tìm hiểu đó.”

“Vậy thì tôi hẳn phải là một tên do thám tinh vi lắm mới dám hỏi ông thẳng thừng như thế này,” bà trả lời. “Tôi là một tù binh, thưa ông. Kể cả có một nơi an toàn để chạy trốn thì tôi cũng không thể thoát ra được. Từ giờ tôi là một kẻ vô hại, tôi xin hứa với ông điều đó.”

“Nếu bà nói vậy thì tôi cũng rất vui lòng tin tưởng,” quốc vương nói. “Thiên thần khó hiểu hơn bất cứ con người nào. Đầu tiên, họ không phải đều thuộc cùng một giống loài; một số có sức mạnh lớn hơn những kẻ khác; giữa họ tồn tại những khối liên minh phức tạp, và những mối thù từ thời xa xưa mà chúng ta biết đến rất ít. Kể từ khi hình thành, Đấng Quyền Năng vẫn luôn đàn áp họ.”

Bà dừng khựng lại, thực sự bị sốc. Vị quốc vương Phi châu dừng lại bên cạnh, nghĩ rằng bà không được khoẻ, mà quả thực ánh sáng hừng hực từ đế nến phía trên đang hắt những cái bóng ma quái lên gương mặt bà.

“Ông nói điều đó thật thản nhiên,” bà nói, “như thể nó là điều tôi cũng nên biết vậy, nhưng… Làm sao có thể thế được? Đấng Quyền Năng đã tạo nên các thế giới, không phải sao? Ngài tồn tại trước tất thảy. Làm sao ngài có thể hình thành được?”

“Đây là kiến thức của các thiên thần,” Ogunwe đáp. “Nó đã khiến vài người trong chúng tôi choáng váng khi biết được rằng Đấng Quyền Năng lại không phải là đấng sáng tạo. Có thể đã có một đấng sáng tạo mà cũng có thể không: Chúng tôi không biết. Tất cả những gì chúng tôi biết là vào một thời điểm nào đó, Đấng Quyền Năng đã lên nắm quyền, và kể từ đó các thiên thần đã nổi dậy phản kháng, cả con người cũng đấu tranh chống lại ông ta. Đây là cuộc nổi dậy cuối cùng. Chưa có bao giờ mà con người và thiên thần, cùng các sinh vật từ mọi thế giới, lại cùng về một phe. Đây là lực lượng hùng mạnh nhất từng được tập hợp. Nhưng nó cũng có thể là vẫn chưa đủ. Rồi chúng ta sẽ thấy.”

“Nhưng Ngài Asriel có dự tính gì? Thế giới này là gì vậy, và tại sao ông ấy lại đến đây?”

“Ông ấy đưa chúng tôi tới đây vì thế giới này trống không. Chính xác là không có sự sống có ý thức. Chúng tôi không phải là thực dân, Phu nhân Coulter ạ. Chúng tôi không tới để xâm chiếm mà là để xây dựng.”

“Vậy ông ấy có định tấn công thiên quốc không?”

Ogunwe bình thản nhìn bà.

“Chúng tôi không định xâm phạm vào vương quốc đó,” ông đáp, “nhưng nếu họ xâm lược chúng tôi, họ nên sẵn sàng chiến đấu, bởi vì chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng. Phu nhân Coulter, tôi là một quốc vương, nhưng nhiệm vụ đáng tự hào nhất của tôi chính là gia nhập cùng Ngài Asriel để thiết lập một thế giới không tồn tại bất cứ vương quốc nào. Không vua, không giám mục, không thầy tu. Thiên quốc được biết tới dưới cái tên đó kể từ khi Đấng Quyền Năng lần đầu tiên đặt bản thân lên trên toàn bộ số thiên thần còn lại. Chúng tôi thì không muốn điều đó chút nào. Thế giới này rất khác biệt. Chúng tôi dự định sẽ trở thành những công dân tự do của nền cộng hòa thiên đường.”

Phu nhân Coulter muốn nói thêm, muốn hỏi cả chục câu đang chực chờ nơi đầu lưỡi, nhưng vị quốc vương đã tiến lên, không muốn để chỉ huy của mình chờ đợi, và bà phải đi theo.

Cầu thang đưa xuống sâu đến mức vào lúc nó dẫn tới một tầng bằng phẳng, bầu trời phía sau họ nơi đầu cầu thang đã gần như biến mất. Còn lâu trước khi đi được nửa đường, bà đã gần như hụt hơi, nhưng bà không hề kêu ca phàn nàn gì mà cứ tiếp tục đi xuống cho tới khi nó mở thông tới một căn sảnh đồ sộ, được thắp sáng bởi những viên pha lê lấp lánh trên các cột trụ chống đỡ mái nhà. Thang, giá gỗ, rầm và cầu ván bắc ngang qua vùng tối lờ mờ phía trên, với những hình dáng nhỏ xíu di chuyển tới lui một cách đầy quả quyết.

Ngài Asriel đang nói chuyện với các chỉ huy của mình khi Phu nhân Coulter tới nơi. Không buồn đợi để bà nghỉ ngơi, ông liền tiếp tục băng qua căn sảnh vĩ đại, nơi mà cứ thỉnh thoảng một bóng hình lanh lợi sẽ lướt qua không khí hay đáp xuống mặt sàn để trao đổi vài từ gãy gọn cụt lủn với ông. Không khí đặc quánh và ấm áp. Phu nhân Coulter để ý thấy rằng, có thể đoán được là vì phép lịch sự đối với Ngài Roke, mọi cột trụ đều có một rầm chia trống trơn cao cỡ đầu người để con diều hâu của ông có thể đậu vào đó và cho phép ông người Gallivespia tham gia vào cuộc thảo luận.

Nhưng họ không lưu lại trong đại sảnh lâu. Ở đầu bên kia, người phục vụ đã kéo mở một cánh cửa đôi nặng nề để họ đi qua, lên tới sân ga của một đường ray xe lửa. Đứng đợi ở đó là một toa tàu nhỏ đang đóng, được kéo bởi đầu máy chạy mạch.

Người kĩ sư cúi chào, con linh thú khỉ nâu lập tức lủi ra sau hai chân ông khi nhìn thấy con khỉ vàng. Ngài Asriel nói ngắn gọn với người đàn ông rồi dẫn những người khác vào toa tàu, nơi cũng giống như căn sảnh, nó được chiếu sáng bởi những viên pha lê lóng lánh, đính những rầm chia bằng bạc vào những tấm ván bằng gỗ dái ngựa bóng như gương.

Ngay khi Ngài Asriel vào cùng cả đoàn, con tàu bắt đầu chuyển bánh, lướt đi một cách êm dịu từ sân ga vào tới một đường hầm rồi nhanh chóng tăng tốc. Chỉ có âm thanh của bánh xe trên đường ray trơn nhẵn mới giúp họ đoán được vận tốc mình đang đi.

“Chúng ta đang đi đâu đây?” Phu nhân Coulter hỏi.

“Tới kho vũ khí,” Ngài Asriel đáp cụt lủn rồi quay đi để thủ thỉ với vị thiên thần.

Phu nhân Coulter nói với Ngài Roke: “Quý ông, có phải các mật thám của ông luôn được cử đi theo cặp không?”

“Sao bà lại hỏi vậy?”

“Chỉ đơn thuần là tò mò thôi. Tôi và linh thú của mình rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan khi chúng tôi gặp họ gần đây trong hang động đó, và tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy họ chiến đấu tài tình đến thế nào.”

“Tại sao lại ngạc nhiên? Bà không cho rằng những người có cỡ như chúng tôi có thể là những chiến binh cừ khôi sao?”

Phu nhân nhìn ông ta với vẻ thờ ơ, ý thức được sự hung tợn trong lòng kiêu hãnh của ông.

“Không,” bà nói. “Tôi cứ nghĩ chúng tôi sẽ hạ gục các ông dễ dàng, nhưng các ông lại gần như đánh bại chúng tôi. Tôi rất vui được thừa nhận sai lầm của mình. Nhưng có phải các ông luôn chiến đấu theo cặp không?”

“Các bà là một cặp, không phải sao, bà và linh thú của bà ấy? Bà muốn chúng tôi nhượng bộ lợi thế đó sao?” Ông nói, nhìn bà chòng chọc với vẻ đầy ngạo mạn, đôi mắt sáng rực ngay cả trong ánh sáng rất nhẹ từ những khối pha lê, thách thức bà dám hỏi thêm.

Bà nhũn nhặn nhìn xuống và không nói gì nữa.

Vài phút trôi qua, Phu nhân Coulter cảm thấy đoàn tàu đang đưa họ đi xuống, vào sâu hơn trong lòng núi. Bà không thể đoán được họ đã đi xa chừng nào, nhưng khi ít nhất mười lăm phút đã qua, đoàn tàu bắt đầu chậm lại; rồi lập tức họ tiến tới một sân ga nơi ánh sáng đèn mạch trông thật rực rỡ sau bóng tối trong đường hầm.

Ngài Asriel mở cửa, cả đoàn bước ra bầu không khí nóng nực và đầy nghẹt lưu huỳnh đến mức Phu nhân Coulter phải há miệng thở gấp. Không gian rung lên bởi tiếng nện của những chiếc búa đồ sộ và tiếng rít lanh lảnh của sắt trên đá.

Một người phục vụ kéo mở cánh cửa dẫn ra khỏi sân ga, ngay lập tức tiếng ồn tăng lên gấp đôi và hơi nóng quét qua họ như một cơn sóng xô. Một luồng sáng chói lòa thiêu đốt khiến họ phải đưa tay che mắt; chỉ mình Xaphania là dường như không hề bị ảnh hưởng bởi sự công kích dữ dội của âm thanh, ánh sáng và nhiệt độ cao. Khi các giác quan đã được điều chỉnh, Phu nhân Coulter nhìn xung quanh, ánh mắt tràn đầy sự hiếu kì.

Bà đã từng thấy các xưởng rèn, xưởng gia công đồ sắt, nhà máy chế tạo ở thế giới của mình: cơ sở đồ sộ nhất cũng chỉ như một lò rèn phường bên cạnh nơi này. Những cái búa to bằng tòa nhà được nâng vút lên tới trần ở tít trên cao rồi lẳng xuống để làm phẳng những thanh sắt cỡ thân cây, đập chúng dẹp lép chỉ trong tích tắc với một cú dộng khiến cả ngọn núi chao đảo; từ một lỗ thông trên bức tường đá, một dòng sông kim loại chứa lưu huỳnh nóng chảy tuôn ra cho tới khi nó bị cắt ngang bởi cánh cổng bằng đá kim cương, rồi dòng chất lỏng sôi sục chói lòa cuồn cuộn xô qua những ống dẫn, cửa cống, lên trên những con đập để vào từng dãy khuôn nối tiếp nhau, nó dừng lại và hả nhiệt trong một đám mây khói độc hại; những cỗ máy xẻ và cuộn khổng lồ cắt, gập, rồi ép những tấm thép dày vài tấc cứ như chúng chỉ là những tờ giấy ăn, và rồi những cái búa khủng khiếp kia lại đập bẹt nó ra, sắp từng lớp kim loại lên nhau với một mãnh lực vĩ đại khiến các lớp tách biệt trở thành một lớp chắc chắn hơn, cứ thế liên tục, liên tục.

Nếu Iorek Byrnison có thể thấy được kho vũ khí này, có lẽ nó sẽ phải thừa nhận rằng những con người này có hiểu biết chút ít về việc thao tác với kim loại. Phu nhân Coulter thì chỉ có thể đứng nhìn trong kinh ngạc. Không thể nói ra để được thấu hiểu, mà cũng chẳng có ai thử làm điều đó. Giờ thì Ngài Asriel đang ra hiệu cho nhóm nhỏ này đi cùng ông dọc theo một lối đi kêu cọt kẹt, lơ lửng phía trên một căn hầm còn lớn hơn thế bên dưới, nơi các thợ mỏ hì hục làm việc với nào cuốc, nào xẻng để bửa những khối kim loại sáng loáng từ tảng đá mẹ.

Họ băng qua lối đi rồi xuống một hành lang dài lởm chởm sỏi đá, nơi những khối thạch nhũ rủ xuống, lấp lánh các màu sắc lạ lùng, và nơi tiếng đập chát, mài giũa và búa nện dịu dần. Phu nhân Coulter có thể cảm nhận làn gió thanh mát phả lên gương mặt nóng bừng của mình. Những khối pha lê cho họ ánh sáng không được đặt trên các đế nến hay bọc trong các cột chống tỏa sáng, mà nằm rải rác khắp nơi trên sàn nhà. Không còn những ngọn đuốc tỏa sáng chói lọi để bổ sung hơi nóng, dần dần đoàn người bắt đầu cảm thấy lạnh trở lại; rồi đúng lúc đó họ bước ra, một cách khá đột ngột, vào bầu không khí của đêm thâu.

Họ đang ở nơi mà một phần của ngọn núi đã bị xẻ mất, tạo ra một khoảng không rộng mở không khác gì một thao trường. Xa hơn phía trước, họ có thể thấy những cánh cửa sắt khổng lồ được rọi sáng lờ mờ trong sườn núi, cái đóng cái mở; và từ một trong những khung cửa vĩ đại, người ta đang kéo một thứ gì đó được phủ vải dầu.

“Đó là gì vậy?” Phu nhân Coulter hỏi vị vua Phi châu, ông liền trả lời:

“Phi cơ ý lực đấy.”

Phu nhân Coulter không hiểu nổi cụm từ có thể mang ý nghĩa gì, bà quan sát với sự tò mò tột độ khi họ chuẩn bị bỏ lớp vải dầu ra.

Bà đứng sát vào Quốc vương Ogunwe như tìm chỗ che chở rồi nói: “Nó hoạt động như thế nào vậy? Nó làm được gì?”

“Chúng ta sắp được thấy rồi,” vị vua trả lời.

Cỗ máy trông giống như một dạng máy khoan phức tạp, hoặc buồng lái của một chiếc xa thăng, hay cabin của một cần trục khổng lồ. Nó có một mái che bằng kính bên trên một chỗ ngồi với ít nhất là một tá cần gạt và tay cầm xếp hàng phía trước mặt. Cỗ máy đứng trên sáu chân, mỗi cái lại được lắp và gắn vào thân theo một góc khác nhau, khiến cho nó trông vừa mạnh mẽ vừa vụng về; chính thân của cỗ máy cũng là một tập hợp rất nhiều đường ống dẫn, xi lanh, piston, cáp xoắn, chuyển mạch, van và thước tiêu chuẩn. Thật khó có thể nói được đâu là kết cấu còn đâu không phải, vì nó chỉ được chiếu sáng từ đằng sau, phần lớn cỗ máy bị giấu trong bóng tối ảm đạm.

Ngài Roke trên con diều hâu của mình đã lượn thẳng tới đó, bay vòng phía trên, rà soát cỗ máy từ đủ mọi hướng. Ngài Asriel và thiên thần đang thảo luận căng thẳng với các kĩ sư. Các công nhân đang trèo xuống từ chính chiếc phi cơ, một người mang theo kẹp tài liệu, người khác mang một cuộn dây cáp dài.

Phu nhân Coulter thèm thuồng nhìn chiếc phi cơ, ghi nhớ từng bộ phận, tìm hiểu sự phức tạp của nó. Trong lúc bà quan sát, Ngài Asriel đu người lên chỗ ngồi; thắt chặt bộ cương bằng da quanh eo và vai của mình rồi đội chiếc mũ bảo hiểm chắc chắn lên đầu. Con linh thú báo tuyết của ông nhảy lên theo chủ, ông liền quay sang điều chỉnh thứ gì đó bên cạnh nó. Viên kĩ sư gọi với lên, Ngài Asriel trả lời, rồi các công nhân rút lui về phía cửa.

Chiếc phi cơ ý lực chuyển động, mặc dù Phu nhân Coulter không dám chắc bằng cách nào. Nó gần như đã rung lên, nhưng lại vẫn đang đứng yên ở đó, thăng bằng với thứ năng lượng kì lạ trên sáu cái chân côn trùng kia. Đúng lúc bà nhìn, chiếc phi cơ lại cử động, và rồi bà thấy được chuyện gì đang xảy ra: nhiều phần khác nhau của cỗ máy đang xoay vòng, quay sang bên này lại đến bên kia, rà soát bầu trời đen ngòm phía trước mặt. Ngài Asriel ngồi bận rộn đẩy cần gạt này, kiểm tra đĩa số nọ, chỉnh bộ điều khiển kia; và rồi đột nhiên chiếc phi cơ ý lực biến mất.

Bằng cách nào đó, nó đã bay vọt lên không trung. Giờ thì nó đang lượn lờ phía trên đầu họ, cao ở tầm ngọn cây, chầm chậm quay về bên trái. Không hề có tiếng động cơ, chẳng có dấu hiệu nào cho thấy cách mà nó chống lại trọng lực cả. Nó chỉ đơn giản là cứ lơ lửng trong không khí như vậy.

“Nghe kìa,” Quốc vương Ogunwe nói. “Về hướng nam.”

Bà quay đầu, căng tai lên nghe ngóng. Có tiếng một luồng gió rên rỉ quanh sườn núi, những tiếng búa nện trầm sâu từ những cú nén mà bà cảm nhận qua gan bàn chân, rồi còn những giọng nói phát ra từ ô cửa sáng đèn, nhưng trước một tín hiệu nào đó, các giọng nói ngừng bặt và ánh đèn phụt tắt. Trong không gian tĩnh lặng, Phu nhân Coulter có thể nghe thấy, rất yếu ớt, âm thanh phật-phật-phật của động cơ xa thăng trên những đợt gió cồn.

“Họ là ai vậy?” Bà khẽ hỏi.

“Mồi nhử,” vị quốc vương đáp. “Các phi công của tôi, bay với nhiệm vụ nhử cho địch đuổi theo. Xem đi.”

Bà căng mắt ra, cố gắng nhìn thấy bất cứ thứ gì trong màn đêm dày đặc lấm tấm vài ngôi sao. Phía trên cao, chiếc phi cơ ý lực lơ lửng một cách kiên định như được neo và gài chắc vào không trung; chẳng luồng gió mạnh nào gây ra được chút tác động lên nó. Không có ánh sáng phát ra từ buồng lái, nên rất khó có thể thấy được, và hình bóng của Ngài Asriel đã hoàn toàn biến mất khỏi tầm mắt.

Rồi bà chợt nhìn thấy một đám sáng dưới thấp phía chân trời, đúng lúc tiếng động cơ trở nên đủ lớn để nghe thấy một cách đều đặn. Sáu chiếc xa thăng, bay vội vã, một trong số chúng dường như đang gặp vấn đề, do có khói kéo thành vệt phía sau, và nó bay thấp hơn những chiếc khác. Chúng đang hướng tới ngọn núi, nhưng theo một lộ trình sẽ dẫn chúng vượt qua ngọn núi để bay xa hơn.

Bám đuổi sát phía sau là một tập hợp tạp nham đủ loại vật thể bay. Để đoán ra được chúng là gì không hề dễ dàng, nhưng Phu nhân Coulter đã thấy một chiếc xa thăng kì quặc với dáng vẻ nặng nề, hai phi cơ cánh thẳng, một con chim vĩ đại nhẹ nhàng lượn vun vút, mang theo hai người lái được vũ trang, cùng với ba hay bốn thiên thần.

“Một đội đột kích,” Quốc vương Ogunwe giải thích.

Chúng đang áp sát đám xa thăng. Rồi một dải sáng lóe lên từ một trong hai chiếc phi cơ cánh thẳng, nối tiếp sau đó một hoặc hai giây là một âm thanh, một tiếng nổ trầm. Nhưng viên đạn không bao giờ tới được mục tiêu, chiếc xa thăng gặp sự cố, vì cùng vào thời khắc mà họ thấy dải sáng, trước khi nghe thấy tiếng nổ, những người quan sát trên ngọn núi nhìn thấy một tia sáng lóe lên từ chiếc phi cơ ý lực, và viên đạn nổ tung giữa không trung.

Phu nhân Coulter không có nhiều thời gian để nắm bắt được chuỗi ánh sáng và âm thanh xảy ra gần như liên tiếp nhau trước khi cuộc chiến nổ ra. Việc theo dõi cũng chẳng dễ dàng chút nào, bởi bầu trời quá tối còn cử động của các vật thể bay lại quá nhanh; nhưng một loạt tia chớp lóe lên gần như trong câm lặng soi rọi sườn núi, kèm theo những tiếng rít cộc lốc như hơi nước phụt ra. Bằng cách nào đó, mỗi tia chớp lại đánh trúng một kẻ tấn công khác nhau: phi cơ bắt lửa hoặc nổ tung, con chim khổng lồ thét lên một tiếng như tiếng xé toạc một tấm màn cao bằng cả ngọn núi rồi đâm bổ xuống rải đá tít xa bên dưới; còn về các thiên thần, từng người trong số họ chỉ đơn giản là tan biến trong luồng không khí lấp lánh, ngàn vạn những hạt vật chất lung linh và lóng lánh, mờ dần đi cho tới khi phụt tắt như pháo hoa tàn.

Rồi sau đó chỉ còn lại câm lặng. Gió cuốn đi âm thanh của những chiếc xa thăng mồi nhử, lúc này đã biến mất sau sườn núi, không người quan sát nào thốt lên lời. Lửa phía xa bên dưới sáng rực lên phần bụng của chiếc phi cơ ý lực, bằng cách nào đó vẫn đang lơ lửng trong không khí và lúc này đang chầm chậm xoay như để quan sát xung quanh. Đội đột kích bị tiêu diệt triệt để tới mức Phu nhân Coulter, người đã chứng kiến quá nhiều thứ để mà bị bất ngờ, lại vẫn bị sốc bởi điều này. Khi bà nhìn lên chiếc phi cơ ý lực, dường như nó đang tỏa sáng lờ mờ hoặc tự đẩy bật bản thân ra khỏi vị trí, và rồi nó ở đó, lại đứng vững chãi trên mặt đất.

Quốc vương Ogunwe vội vã bước tới trước, cũng như những chỉ huy và kĩ sư khác, những người đã mở tung các cánh cửa và để cho ánh sáng tràn ngập trên vùng tập huấn. Phu nhân Coulter đứng nguyên tại chỗ, bối rối trước sự vận hành của chiếc phi cơ ý lực.

“Tại sao ông ta lại cho chúng ta xem nó?” Con linh thú của bà khẽ nói.

“Chắc chắn là ông ấy không biết được suy nghĩ của chúng ta đâu,” bà trả lời với giọng y hệt.

Họ đang nghĩ tới thời điểm ở trong tòa tháp đá kim cương, khi cái ý tưởng như tia lửa mạch lóe lên giữa họ. Họ đã nghĩ tới việc đưa ra một lời đề nghị cho Ngài Asriel: Đề xuất sẽ đến Tòa án Công giáo Kỉ luật để làm mật thám cho ông. Bà biết mọi đòn bẩy quyền lực; bà có thể thao túng tất cả bọn họ. Ban đầu sẽ rất khó để thuyết phục họ về thiện ý của mình, nhưng bà có thể làm được. Và giờ đây khi các mật thám Gallivespia đã rời khỏi đó để đi cùng với Will và Lyra, hẳn là Asriel chẳng thể cưỡng lại một đề nghị như vậy.

Nhưng giờ, khi họ nhìn cái cỗ máy biết bay kì lạ kia, một ý tưởng khác dội đến mạnh mẽ hơn bội phần, khiến bà hân hoan ôm lấy con khỉ vàng.

“Asriel,” bà cất tiếng gọi đầy ngây thơ, “em có thể xem cỗ máy hoạt động như thế nào được không?”

Ông nhìn xuống, vẻ mặt rối bời và nôn nóng, nhưng cũng đầy thỏa mãn hứng khởi. Ông rất hài lòng về chiếc phi cơ ý lực: Bà biết ông sẽ không thể cưỡng lại ý muốn khoe khoang nó.

Quốc vương Ogunwe đứng sang một bên, Ngài Asriel với xuống rồi kéo bà lên khoang lái. Ông giúp bà ngồi vào ghế rồi quan sát trong lúc bà nhìn quanh bộ điều khiển.

“Nó hoạt động như thế nào vậy? Thứ gì cung cấp lực cho nó?” Bà hỏi.

“Ý lực của người điều khiển,” ông đáp. “Nên mới có cái tên đó. Nếu em định tiến về phía trước, nó sẽ tiến về phía trước.”

“Đó đâu phải câu trả lời. Thôi nào, nói cho em nghe đi. Đây là loại động cơ gì vậy? Nó bay như thế nào? Em không thể thấy bất cứ thứ gì tuân theo khí động lực cả. Nhưng bộ điều khiển này… từ bên trong, nó gần giống một chiếc xa thăng vậy.”

Ông thấy rằng thật khó để mà không nói với bà; và vì bà đang chịu sự kiểm soát của mình nên ông đã nói. Ông chìa ra một sợi cáp ở cuối là một cái chuôi bọc da, in đầy dấu răng sâu hoắm từ con linh thú của ông.

“Linh thú của em,” ông giải thích, “phải giữ cái tay cầm này - bằng răng hoặc tay, cái đó không quan trọng. Còn em thì phải đội cái mũ đó. Có một dòng mạch chạy giữa chúng và một tụ mạch để khuếch đại nó - à, nó phức tạp hơn như thế, nhưng để cỗ máy này bay lên thì đơn giản lắm. Chúng ta cài đặt bảng điều khiển như của xa thăng chỉ để trông cho quen thuộc thôi, nhưng suy cho cùng thì cũng chẳng cần điều khiển gì cả. Đương nhiên, chỉ những ai có linh thú mới có thể làm cho nó cất cánh được.”

“Ra vậy,” bà nói.

Rồi bà đẩy thật mạnh để ông rơi ra khỏi cỗ máy.

Cùng giây phút đó, bà đội mũ lên đầu, còn con khỉ vàng vồ lấy cái tay cầm bằng da. Bà với lấy bộ điều chỉnh mà trong một chiếc xa thăng sẽ làm nghiêng cánh máy bay, rồi gạt cần về phía trước, ngay lập tức chiếc phi cơ ý lực lao lên không trung.

Nhưng bà vẫn chưa hoàn toàn đánh giá đúng được nó. Chiếc phi cơ đứng im trong một lúc, hơi nghiêng đi, trước khi bà tìm thấy bộ điều khiển để đưa nó về phía trước. Trong vài giây ngắn ngủi đó, Ngài Asriel đã làm ba việc. Ông bật đứng dậy; ông giơ tay ra để ngăn Quốc vương Ogunwe ra lệnh cho các binh sĩ nổ súng vào chiếc phi cơ ý lực; và ông nói: “Ngài Roke, phiền ông làm ơn đi cùng bà ấy.”

Mật thám người Gallivespia lập tức thúc con diều hâu xanh của mình vọt lên, con chim bay thẳng tới cánh cửa buồng lái vẫn đang mở. Những người quan sát bên dưới có thể nhìn thấy đầu người phụ nữ đang nhìn quanh quất, cả con khỉ vàng cũng vậy, nhưng họ cũng thấy được rằng cả hai đều không nhận ra hình dáng nhỏ bé của Ngài Roke nhảy từ con diều hâu của mình vào khoang lái phía sau họ.

Một lúc sau, chiếc phi cơ ý lực bắt đầu di chuyển, con diều hâu vòng bay đi rồi lướt xuống cổ tay của Ngài Asriel. Không lâu hơn hai giây sau, chiếc phi cơ đã dần biến mất khỏi tầm mắt trong bầu không khí ẩm ướt, lốm đốm sao.

Ngài Asriel quan sát với vẻ vừa ngưỡng mộ vừa rầu rĩ.

“Chà, Quốc vương ạ, ông nói đúng thật,” ông nói, “đáng ra ngay từ đầu tôi nên nghe lời ông. Bà ấy là mẹ của Lyra; đáng ra tôi nên đoán trước được điều này.”

“Ông không định đuổi theo bà ta à?” Quốc vương Ogunwe hỏi.

“Gì cơ, để phá hủy một chiếc phi cơ hoàn toàn tốt ấy à? Chắc chắn là không rồi.”

“Ông nghĩ bà ta sẽ đi đâu? Tìm kiếm đứa bé à?”

“Ban đầu thì không. Bà ấy không biết phải tìm con bé ở đâu. Tôi biết chính xác bà ấy sẽ làm gì: Bà ấy sẽ tới Tòa án Công giáo, giao cho họ chiếc phi cơ ý lực như một bằng chứng về thiện ý của mình, rồi sau đó sẽ do thám họ. Bà ấy sẽ do thám họ cho chúng ta. Bà ấy đã từng thử mọi trò hai mang khác rồi: Đó sẽ là một kinh nghiệm mới mẻ. Và ngay khi tìm ra nơi ở của con bé, bà ấy sẽ đến đó, còn chúng ta sẽ bám theo.

“Vậy khi nào Ngài Roke sẽ cho bà ấy biết rằng mình đang đi cùng?”

“Ồ, tôi nghĩ ông ấy sẽ giữ bất ngờ cho điều đó, ông không nghĩ vậy sao?”

Họ phá lên cười rồi quay trở vào khu xưởng, nơi một mẫu phi cơ ý lực mới hơn, tân tiến hơn đang chờ được kiểm tra.