← Quay lại trang sách

- 17 - Dầu và sơn mài

Trong các giống loài mà Đức Chúa Trời đã tạo ra,

rắn là loài xảo quyệt hơn tất thảy.

Sách Sáng Thế

Mary Malone đang chế tạo một cái gương.

Không phải là để tự mãn vẻ ngoài của bản thân, vì bà gần như không có thứ đó, mà là vì bà muốn kiểm tra một ý tưởng đang có. Bà muốn thử bắt lấy Bóng, do không có các thiết bị trong phòng thí nghiệm của mình nên bà phải ứng biến từ những vật liệu có sẵn. Kĩ thuật của người mulefa gần như không có tác dụng gì với kim loại. Họ làm được những điều phi thường với đá, gỗ, dây thừng, vỏ ốc và sừng, nhưng những thứ kim loại mà họ sở hữu đều được đập phẳng từ quặng đồng tự nhiên và các kim loại khác mà họ tìm thấy trong lớp cát trên bờ sông. Họ không bao giờ dùng chúng để chế tạo công cụ mà chỉ để trang trí. Lấy ví dụ, các cặp đôi người mulefa khi bước vào hôn nhân sẽ trao đổi những sợi dây bằng đồng sáng, chúng được uốn quanh gốc một trong những cái sừng của họ với ý nghĩa cũng gần giống như chiếc nhẫn cưới.

Vậy nên con dao xếp Thụy Sĩ, tài sản đáng giá nhất của Mary, khiến cho họ mê mẩn.

Một ngày nọ, người bạn zalif tên Atal của bà kêu lên đầy kinh ngạc khi Mary gỡ vỏ bọc của con dao để cho cô thấy tất cả các phần rồi cố gắng giải thích rõ nhất có thể bằng thứ ngôn ngữ hạn chế của mình về tác dụng của chúng. Một trong các phụ tùng là chiếc kính lúp thu nhỏ mà bà dùng để đốt một mẫu vẽ lên một cành cây khô, và nó chính là thứ đã khiến bà bắt đầu nghĩ về Bóng.

Vào lúc đó họ đang câu cá, nhưng nước sông khá nông còn cá thì hẳn là đã đi đâu mất, nên họ để cho cái lưới nằm vắt ngang qua mặt nước rồi ngồi lên bờ sông ngập cỏ để nói chuyện, cho tới khi Mary nhìn thấy cành cây khô có bề mặt trắng nhẵn nhụi. Bà đốt một mẫu vẽ - một bông cúc giản đơn - lên mặt gỗ, khiến Atal thích thú; nhưng khi dải khói mỏng nhẹ dâng lên từ vị trí mà ánh mặt trời tích tụ chạm vào lớp gỗ, Mary nghĩ: Nếu thứ này hóa thạch và được một nhà khoa học thuộc mười triệu năm sau tìm được, người đó vẫn có thể tìm thấy Bóng quanh đó, vì mình đã thao tác lên nó.

Bà bị cuốn vào một mộng tưởng ngập tràn ánh nắng cho tới khi Atal cất tiếng hỏi:

Bà đang mơ màng gì vậy?

Mary cố gắng giải thích về công việc của mình, về nghiên cứu, về phòng thí nghiệm, sự khám phá ra các hạt Bóng, phát hiện vĩ đại về việc chúng có ý thức, và thấy rằng cả câu chuyện lại đang giữ chặt lấy mình, khiến bà khao khát được trở về giữa các thiết bị thân quen.

Bà không ngờ Atal lại có thể theo kịp được lời giải thích của mình, phần vì khả năng ngôn ngữ không hoàn hảo của bản thân bà, nhưng cũng một phần bởi những người mulefa dường như rất thực tế, tư tưởng ăn sâu vào thế giới hằng ngày của vật lí, mà phần lớn những thứ bà đang nói lại mang tính toán học; nhưng Atal đã khiến bà ngạc nhiên khi nói: Vâng - chúng tôi biết ý bà là gì - chúng tôi gọi nó… và rồi cô dùng một từ nghe như từ mà họ chỉ ánh sáng.

Mary hỏi: Ánh sáng ấy à? và Atal trả lời: Không phải ánh sáng, nhưng… rồi phát âm từ đó chậm rãi hơn để Mary nắm được, giải thích rằng: Giống như ánh sáng trên mặt nước khi nó tạo ra những gợn sóng nhỏ, vào lúc hoàng hôn, ánh sáng tỏa ra thành những đốm lấp lánh, chúng tôi gọi nó như vậy, nhưng đó chỉ là một mô phỏng thôi.

Mô phỏng là thuật ngữ họ dùng để chỉ phép ẩn dụ, Mary đã biết điều đó.

Vì vậy bà nói: Nó không thật sự là ánh sáng, nhưng có thể thấy được và trông nó như ánh sáng phản chiếu trên mặt nước vào lúc hoàng hôn?

Atal đáp: Phải. Tất cả các mulefa đều có thứ này. Bà cũng có nữa. Đó là cách mà chúng tôi biết được rằng bà cũng giống chúng tôi chứ không phải như đám động vật ăn cỏ, những sinh vật không có nó. Mặc dù nhìn thì thật kì dị và khủng khiếp nhưng bà cũng giống chúng tôi, vì bà có - và cái từ mà Mary không thể nghe đủ rõ để đoán nổi lại xuất hiện: Một từ gì đó giống như sraf, hoặc là sarf, đi kèm với một cú hất vòi sang bên trái.

Mary đang rất phấn khích. Bà phải giữ cho mình đủ bình tĩnh để tìm ra từ ngữ thích hợp.

Các vị biết gì về nó? Nó tới từ đâu vậy?

Từ chúng tôi, và từ dầu, là câu trả lời của Atal, và Mary hiểu rằng cô ám chỉ thứ dầu trong những cái bánh xe vỏ hạt khổng lồ.

Từ các vị sao?

Khi chúng tôi trưởng thành. Nhưng nếu không có những cái cây thì nó sẽ lại biến mất thôi. Nhờ có những cái bánh xe và dầu, nó lưu lại trong chúng tôi.

Khi chúng tôi trưởng thành… Một lần nữa Mary lại phải giữ cho bản thân không trở nên thiếu mạch lạc. Một trong những điều mà bà bắt đầu nghi ngờ về Bóng là trẻ con và người lớn phản ứng với chúng khác nhau, hoặc thu hút những loại hoạt động khác nhau của Bóng. Chẳng phải Lyra đã nói rằng các nhà khoa học ở thế giới của cô bé đã khám phá ra một điều tương tự như thế về Bụi, cái tên mà họ dùng để chỉ Bóng sao? Giờ thì nó lại xuất hiện ở đây rồi.

Nó còn liên quan đến điều mà các hạt Bóng đã nói với bà trên màn hình máy tính ngay trước khi bà rời khỏi thế giới của mình: Dù cho có là gì đi nữa, thì câu hỏi này cũng có liên hệ tới sự thay đổi to lớn trong lịch sử nhân loại được biểu tượng hóa trong câu chuyện về Adam và Eve; với sự Xúi giục, sự Sa ngã, Tội Tổ Tông. Trong cuộc nghiên cứu các hộp sọ hóa thạch của mình, cộng sự Oliver Payne của bà đã phát hiện ra rằng vào khoảng ba mươi nghìn năm trước, một sự gia tăng đột biến đã xảy ra trong số lượng các hạt Bóng liên kết với di vật của con người. Có điều gì đó đã xảy ra khi ấy, một sự phát triển trong tiến hóa, khiến cho bộ não loài người trở thành một kênh lí tưởng để tăng cường những tác động của chúng.

Bà nói với Atal:

Người mulefa đã tồn tại được bao lâu rồi?

Atal trả lời:

Ba mươi ba nghìn năm.

Lần này cô có thể đọc được biểu cảm của Mary, hoặc chí ít cũng là những biểu cảm rõ rệt nhất, cô phá lên cười trước cái cách mà Mary để rơi cả hàm. Giọng cười của họ đầy phóng khoáng, hân hoan và dễ lây lan đến mức thông thường Mary sẽ tham gia cùng, nhưng giờ bà vẫn giữ thái độ nghiêm nghị, sửng sốt và nói:

Làm sao cô có thể biết chính xác đến vậy? Các vị có ghi lại lịch sử của tất cả những năm đó sao?

Ồ, có chứ, Atal đáp. Kể từ khi có sraf, chúng tôi đã có kí ức và sự tỉnh táo. Trước đó chúng tôi không biết gì hết.

Điều gì đã xảy ra để các vị có được sraf vậy?

Chúng tôi đã khám phá ra cách dùng bánh xe. Một ngày nọ, một sinh vật vô danh phát hiện ra một cái vỏ hạt và bắt đầu chơi đùa, khi chơi cô ấy…

Cô ấy sao?

Cô ấy, phải. Trước đó cô ấy không có tên. Cô ấy nhìn thấy một con rắn cuộn mình qua cái lỗ trên vỏ hạt, con rắn nói…

Con rắn nói chuyện với cô ấy sao?

Không! không! Đó chỉ là mô phỏng thôi. Câu chuyện kể rằng con rắn đã nói: Ngươi biết những gì? Ngươi nhớ những gì? Ngươi nhìn thấy được gì phía trước? Và cô ấy trả lời: Chẳng có gì, chẳng có gì, chẳng có gì. Vậy là con rắn nói: Đặt bàn chân của ngươi qua cái lỗ trong vỏ hạt mà ta đang chơi đùa, rồi ngươi sẽ trở nên thông thái. Vậy là cô ấy đặt một bàn chân vào nơi con rắn vừa chui ra. Dầu thấm vào bàn chân khiến cô ấy nhìn rõ hơn bao giờ hết, và thứ đầu tiên mà cô ấy nhìn thấy là sraf. Nó kì lạ và dễ chịu tới mức khiến cô lập tức muốn chia sẻ với tất cả người thân của mình. Vậy là cô ấy và bạn đời của mình lấy những cái đầu tiên, rồi họ phát hiện ra rằng họ biết mình là ai, họ biết rằng mình là mulefa chứ không phải thú ăn cỏ. Họ đặt tên cho nhau. Họ gọi bản thân là mulefa. Họ đặt tên cho cây mang vỏ hạt, cùng tất cả các sinh vật và cây cối.

Bởi vì họ khác biệt, Mary nói.

Phải, đúng thế. Con cái của họ cũng vậy, bởi vì khi có thêm nhiều vỏ hạt rơi xuống, họ đã chỉ cho con cháu của mình cách sử dụng. Khi đám trẻ đủ trưởng thành, họ cũng bắt đầu sản sinh ra sraf, rồi khi họ lớn đủ để cưỡi lên những cái bánh xe, sraf quay trở lại cùng với dầu và ở bên họ. Vậy là họ thấy rằng mình cần phải trồng thêm nhiều cây vỏ hạt vì chất dầu trong đó, nhưng những cái vỏ lại quá cứng nên chúng rất hiếm khi nảy mầm được. Rồi người mulefa đầu tiên nhận ra rằng họ phải giúp đỡ những cái cây, bằng cách cưỡi lên những cái bánh và làm vỡ chúng, cứ thế mulefa và loài cây vỏ hạt vẫn luôn sống bên nhau.

Mary trực tiếp lí giải được một phần tư những gì Atal nói, nhưng nhờ hỏi han và phán đoán, bà đã hiểu ra phần còn lại khá chính xác; khả năng ngôn ngữ của bà cứ thế liên tục được tăng cường. Thế nhưng, bà càng học hỏi nhiều thì sự việc lại càng trở nên khó khăn, vì cứ khi tìm ra được một điều mới thì nó lại khơi gợi ra cả nửa tá nghi vấn, mỗi cái dẫn sang một hướng khác nhau.

Nhưng bà dồn tâm trí vào chủ đề về sraf, bởi vì đó là vấn đề lớn nhất; và đó cũng là lí do vì sao bà nghĩ tới tấm gương.

Chính sự so sánh sraf với ánh sáng lấp lánh trên mặt nước đã gợi nên điều đó. Ánh phản chiếu như tia sáng bật ra khỏi mặt biển được phân cực: Rất có thể là những hạt Bóng, khi chúng hoạt động dưới dạng sóng giống như ánh sáng, cũng có khả năng bị phân cực.

Tôi không thể nhìn thấy sraf giống như các vị, bà nói, nhưng tôi muốn chế tạo một tấm gương từ sơn nhựa cây, vì tôi nghĩ nó có thể sẽ giúp tôi nhìn thấy sraf.

Atal rất hào hứng với ý tưởng này, họ lập tức kéo lưới lên và bắt đầu thu thập những gì Mary cần. Như một dấu hiệu may mắn, trong tấm lưới xuất hiện ba con cá tươi ngon.

Sơn nhựa cây là sản phẩm từ một loại cây khác, nhỏ hơn nhiều, được người mulefa trồng cho mục đích lấy nhựa. Bằng cách đun nóng nhựa cây rồi hòa tan nó trong thứ cồn mà họ chế xuất từ nước hoa quả được chưng cất, người mulefa đã tạo ra một chất giống như sữa về tính nhất quán và có màu hổ phách nhẹ nhàng mà họ dùng như véc-ni. Họ sẽ quét tới hai mươi lớp sơn lên một bề mặt gỗ hay vỏ hoặc mai, để cho từng lớp lưu hóa dưới một tấm vải ướt trước khi quét lớp tiếp theo, cứ như vậy dần dần tạo nên một bề mặt vô cùng cứng cáp và sáng bóng. Thông thường họ sẽ làm đục nó bằng nhiều loại oxit khác nhau, nhưng đôi khi họ để cho nó trong suốt, và đó chính là thứ khiến Mary hứng thú: Bởi vì thứ sơn màu hổ phách trong suốt có cùng đặc tính lạ lùng với loại khoáng chất được biết tới dưới cái tên Iceland Spar[4]. Nó tẽ đôi các tia sáng nên khi nhìn qua, người ta thấy tới hai hình ảnh.

Bà không biết chắc mình muốn làm gì, ngoài việc hiểu rằng nếu mân mê món đồ đủ lâu mà không sốt ruột hay quở trách bản thân, bà sẽ tìm ra. Bà nhớ lại khi mình trích dẫn những ngôn từ của nhà thơ Keats cho Lyra, và việc Lyra lập tức hiểu ra rằng đó là trạng thái tinh thần của riêng cô khi cô đọc chiếc Chân Kế - là thứ mà lúc này Mary sẽ phải tìm ra.

Vậy là bà bắt đầu bằng cách tự tìm lấy một phiến gỗ tương đối phẳng giống như gỗ thông rồi mài bề mặt của nó bằng một viên sa thạch (có công mài sắt có ngày nên kim) cho tới khi nó đạt độ phẳng nhất mà bà có thể mài. Đó là phương thức mà người mulefa sử dụng, và khá hiệu quả, chỉ cần bỏ thời gian và công sức.

Tiếp đó bà ghé thăm rừng cây sơn mài cùng với Atal sau khi đã tỉ mỉ giải thích điều mình định làm và xin phép được lấy một ít nhựa cây. Người mulefa vui vẻ chấp thuận, nhưng họ quá bận rộn để có thể quan tâm tới việc đó. Nhờ sự giúp đỡ của Atal, bà đã rút ra được một ít chất nhựa cây dinh dính, sau đó là quá trình dài đằng đẵng bao gồm đun, hòa tan, rồi lại đun cho tới khi chất véc-ni sẵn sàng được sử dụng.

Người mulefa dùng những miếng làm bằng sợi bông từ một loại cây khác để thấm vào đó, rồi theo lời chỉ dẫn của một nghệ nhân, bà hì hục sơn hết lớp này đến lớp khác lên tấm gương của mình, dù rằng chẳng thấy khác biệt gì sau mỗi lần vì lớp sơn quá mỏng, nhưng bà vẫn cứ để chúng được lưu hóa một cách thong thả và rồi dần dần nhận ra rằng độ dày đang được tăng lên.

Bà sơn lên đó hơn bốn mươi lớp - bà không đếm nổi nữa - nhưng đến khi hết nhẵn toàn bộ sơn, bề mặt đã có độ dày ít nhất là năm milimét.

Sau lớp sơn cuối cùng thì đến việc đánh bóng: nguyên một ngày nhẹ nhàng chà xát bề mặt bằng những chuyển động vòng tròn trơn tru, cho tới khi đôi tay bà đau nhức, đầu nhói lên và bà không thể chống chịu với công việc chân tay này trên chút nào nữa.

Rồi bà ngủ thiếp đi.

Buổi sáng hôm sau, cả nhóm đến làm việc tại một bãi cây nhỏ trồng thứ mà họ gọi là gỗ nút, kiểm tra xem các chồi non có phát triển theo như cách chúng được trồng hay không, quấn chặt những khoảng đan xen để các cành đã phát triển có thể được định hình hoàn chỉnh. Họ đánh giá cao sự giúp đỡ của Mary trong công việc này, vì bà có thể ép mình qua những khoảng hở hẹp mà người mulefa không thể qua, và dùng đôi tay khéo léo để thao tác trong những khoảng không chật chội hơn.

Chỉ sau khi công việc đó được hoàn thành và mọi người trở về khu định cư, Mary mới có thể bắt đầu thí nghiệm - hay nói chính xác hơn là chơi đùa, vì bà vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng nào về việc mình đang làm.

Ban đầu bà thử sử dụng tấm bảng sơn mài đơn thuần như một tấm gương, nhưng do mặt sau không được dát bạc nên tất cả những gì bà có thể thấy là một hình phản chiếu kép lờ mờ trên lớp gỗ.

Rồi bà cho rằng thứ mình thực sự cần là lớp sơn mài không có gỗ, nhưng ý tưởng làm một tấm mới lại khiến bà nao núng; mà dù sao đi nữa, nếu không có thứ gì đỡ đằng sau thì làm sao bà khiến cho nó phẳng được?

Một ý tưởng khác là cứ thế cắt lớp gỗ đi, chỉ để lại phần sơn. Việc đó cũng tiêu tốn thời gian, nhưng ít nhất thì bà cũng có con dao xếp Thụy Sĩ. Vậy là bà bắt tay vào việc, tách nó ra từ mép một cách cực kì nhẹ nhàng, cẩn thận hết mức có thể để không cào xước lớp sơn từ phía sau, nhưng cuối cùng cũng loại bỏ được phần lớn tấm gỗ thông, để lại một bãi chiến trường đầy gỗ vụn nát dính chặt vào ô véc-ni cứng và trong suốt.

Bà tự hỏi không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu nhúng nó vào nước. Liệu sơn mài có mềm đi khi bị ướt không? Không, người thầy dạy nghề của bà nói, nó sẽ vẫn luôn cứng như vậy, nhưng sao không làm như thế này nhỉ? - nói rồi ông cho bà xem một thứ chất lỏng được trữ trong một cái bát bằng đá, nó có thể ăn thủng bất cứ loại gỗ nào chỉ trong vài giờ đồng hồ. Mary cảm thấy bề ngoài và mùi của thứ chất lỏng ấy rất giống axit.

Nó gần như sẽ không làm hại gì đến lớp sơn, ông nói, mà nếu có bất cứ hư hỏng gì thì bà cũng sẽ dễ dàng sửa được thôi. Kế hoạch của bà khiến ông thích thú, ông giúp bà nhẹ nhàng chà chất axit lên mặt gỗ, kể cho bà nghe cách họ chiết xuất nó nhờ mài, hòa tan rồi chưng cất một loại khoáng chất mà họ tìm thấy bên mép của vài cái hồ mà bà chưa từng ghé qua. Dần dần lớp gỗ trở nên mềm rồi rời ra, chỉ còn lại một tấm sơn mài màu nâu vàng trong vắt, cỡ khoảng một trang giấy trong một cuốn sách bìa mềm.

Bà đánh bóng phần mặt dưới cũng kì công như mặt trên, cho tới khi cả hai phẳng phiu và nhẵn nhụi như một tấm gương cao cấp nhất.

Và khi bà nhìn qua nó…

Chẳng có gì đặc biệt. Bóng phản chiếu rất rõ nét, nhưng là một hình kép, hình bên phải khá gần với hình bên trái và ở phía trên khoảng mười lăm độ.

Bà tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra khi nhìn qua hai tấm đặt chồng lên nhau.

Vậy là bà lại lấy con dao xếp Thụy Sĩ ra rồi thử rạch một đường ngang qua tấm sơn để có thể cắt nó làm đôi. Bằng cách miết đi miết lại và giữ cho con dao luôn sắc nhờ mài lên một hòn đá nhẵn, bà đã rạch được một đường đủ sâu để có thể đánh liều bẻ đôi nó ra. Bà đặt một cái que mỏng dưới đường rạch rồi ấn thật lực xuống lớp sơn, theo cách mà bà đã thấy một người thợ lắp kính cắt thủy tinh, và bà đã thành công: Giờ thì bà có hai tấm sơn.

Bà đặt chồng chúng lên nhau rồi nhìn qua. Màu hổ phách trở nên đặc hơn, giống như một tấm lọc ảnh, nó làm bật lên một số màu và dìm một số khác xuống, đem đến cho phong cảnh một sắc thái có đôi chút khác biệt. Điều kì quặc là hình ảnh kép đã biến mất, và mọi thứ lại trở về với đơn hình; nhưng chẳng có dấu hiệu nào của Bóng cả.

Bà vừa tách hai tấm ra khỏi nhau vừa quan sát cái cách mà dáng vẻ của mọi vật thay đổi khi làm như vậy. Khi chúng cách nhau khoảng một gang tay, một điều kì lạ xảy ra: Sắc hổ phách đã biến mất, mọi thứ dường như đang mang màu sắc thông thường của chúng, nhưng tươi tắn và rực rỡ hơn.

Đúng lúc đó Atal tới xem bà đang làm gì.

Giờ bà đã thấy được sraf chưa? Cô hỏi.

Chưa, nhưng tôi có thể thấy những thứ khác, Mary nói rồi cố gắng chỉ cho cô xem.

Atal tỏ ra quan tâm, nhưng là do phép lịch sự chứ không phải vì cảm giác khám phá đang khiến Mary phấn chấn, chẳng mấy chốc zalif này đã chán ngán việc nhìn qua những miếng sơn mài nhỏ xíu nên bèn nằm xuống cỏ để bảo trì những cái bánh xe của mình. Đôi khi những người mulefa sẽ chuốt móng cho nhau, chỉ đơn thuần như một phép xã giao, và có đôi lần Atal đã nhờ Mary chăm sóc cho móng của cô. Đổi lại Mary để cho Atal chải tóc cho mình, tận hưởng cảm giác cái vòi mềm mại nâng tóc lên rồi để nó rơi xuống, vuốt ve và xoa bóp da đầu của mình.

Nhận thấy rằng Atal đang muốn làm điều đó, bà đặt hai miếng sơn mài xuống rồi lướt bàn tay lên những cái móng trơn mượt đến đáng kinh ngạc của Atal, bề mặt nhẵn bóng hơn cả chất nhựa Teflon tựa trên vành dưới của lỗ trung tâm và đóng vai trò như một vật chịu lực khi bánh xe quay. Những đường viền khớp với nhau một cách chính xác, hẳn nhiên rồi, và khi Mary miết tay quanh phần bên trong của cái bánh xe, bà không hề cảm thấy một sự khác biệt nào về kết cấu: Cứ như thể người mulefa và vỏ hạt thật ra là cùng một loài nhưng bằng một phép thần diệu có thể tự tháo rời rồi lại sát nhập được với nhau.

Atal cảm thấy dễ chịu, nhờ vào sự tiếp xúc này, cả Mary cũng vậy. Người bạn của bà vẫn còn trẻ và chưa chồng, trong nhóm người này lại không có cá thể nam trẻ tuổi nào cả, nên cô sẽ phải lấy một zalif ngoài nhóm; nhưng việc tiếp xúc không hề dễ dàng, đôi khi Mary còn nghĩ rằng Atal đang lo lắng cho tương lai của mình. Vì vậy bà không hề thấy phiền khi dành thời gian cho cô. Còn giờ thì bà đang rất vui được lau sạch những cái lỗ bánh xe khỏi bụi bẩn và cáu ghét tích tụ trên đó, rồi nhẹ nhàng tra dầu thơm lên bộ móng của bạn mình trong lúc chiếc vòi của Atal nâng mái tóc của bà lên rồi vuốt thẳng nó.

Khi đã được chăm sóc kĩ càng, Atal đặt mình lên những chiếc bánh xe rồi đi giúp làm bữa tối. Mary quay trở lại với những tấm sơn mài. Gần như ngay lập tức bà đã có một khám phá mới.

Bà giữ cho hai tấm cách nhau một gang tay để chúng thể hiện hình ảnh tươi sáng và rõ nét mà bà thấy lúc trước, nhưng một điều khác lại xảy ra.

Trong lúc nhìn qua, bà thấy một đám hạt vàng lấp lánh bao lấy hình dạng của Atal. chúng chỉ hiện ra trên một phần nhỏ của lớp sơn mài, đến khi đó Mary mới nhận ra lí do: Vào lúc đó bà đã chạm lên mặt sơn bằng những ngón tay dính đầy dầu của mình.

“Atal!” Bà gọi. “Nhanh lên! Quay lại đây!”

Atal quay người rồi lăn bánh trở lại.

“Cho tôi lấy một chút dầu nữa,” Mary nói, “chỉ vừa đủ để quét lên lớp sơn thôi.”

Atal sẵn lòng để bà miết những ngón tay vòng quanh các lỗ bánh xe một lần nữa, rồi tò mò quan sát Mary phết lên một trong hai tấm sơn mài một lớp màng chứa thứ hợp chất trong suốt ngọt ngào này.

Rồi bà ép hai tấm lại với nhau và xoay tròn để tản đều chất dầu, sau đó lại giữ chúng cách nhau một gang bàn tay.

Khi bà nhìn qua, mọi thứ đã biến đổi. Bà có thể nhìn thấy Bóng. Nếu có mặt tại Phòng nghỉ của Học viện Jordan khi Ngài Asriel chiếu những bức ảnh mà ông tráng bằng loại nhũ tương đặc biệt, bà hẳn sẽ nhận ra hiệu ứng này. Bất cứ nơi đâu nhìn vào, bà cũng thấy vàng óng ánh, hệt như Atal đã miêu tả: Những hạt ánh sáng lấp lánh, lơ lửng trôi, đôi khi lại di chuyển thành một dòng có mục đích. Giữa tất cả những thứ đó là thế giới mà bà có thể nhìn thấy bằng đôi mắt trần, những ngọn cỏ, dòng sông, cây cối; nhưng cứ khi nào thấy một sinh vật có ý thức, một trong những người mulefa, ánh sáng lại trở nên dày đặc hơn và chuyển động sôi nổi hơn. Nó không hề làm mờ đi hình dạng của họ; có chăng chỉ khiến họ trở nên rõ nét hơn.

Tôi không hề biết nó lại đẹp đến thế, Mary nói với Atal.

Chao ôi, đương nhiên rồi, người bạn của bà trả lời. Thật kì lạ khi nghĩ rằng bà không thể thấy nó. Hãy nhìn đứa bé kia kìa…

Cô chỉ vào một trong những đứa trẻ đang chơi đùa giữa bãi cỏ thân dài, vụng về nhảy đuổi theo đám châu chấu, đột nhiên đứng lại để xem xét một cái lá, ngã lăn ra, bò dậy để rồi lao đi kể cho mẹ nó nghe điều gì đó, rồi lại bị phân tâm bởi một cái que nhỏ, cố gắng nhặt nó lên, thấy kiến bò vào vòi của mình và hét lên đầy khích động… Có một màn sương vàng phủ lấy nó, cũng giống như quanh các căn chòi, lưới đánh cá, đống lửa chiều tà: mạnh mẽ hơn của những thứ ấy, dù không nhiều. Nhưng không giống như chúng, màn sương vàng của đứa trẻ đầy những dòng chuyển động cuộn xoáy nhỏ xíu của ý định, cứ xoắn lại, tách ra rồi trôi đi vơ vẩn, để rồi tan biến khi những hạt mới được sinh ra.

Mặt khác, quanh mẹ nó, những hạt vàng lóng lánh tỏ ra mạnh mẽ hơn nhiều, những dòng dịch chuyển của chúng cũng ổn định và có uy lực hơn. Bà ấy đang chuẩn bị đồ ăn, rải bột lên một phiến đá phẳng, tạo ra loại bánh mì mỏng như chapath[5] hay tortilla[6], cùng lúc đó vẫn để mắt đến đứa con. Những hạt Bóng, hay sraf hoặc Bụi đang tưới tắm lên bà trông như chính hình ảnh của trách nhiệm và sự chăm sóc đầy kinh nghiệm.

Vậy là rốt cuộc bà cũng thấy được, Atal nói. Giờ thì bà phải đi với tôi.

Mary bối rối nhìn người bạn của mình. Giọng điệu của Atal rất lạ: Cứ như thể cô đang nói Cuối cùng thì bà cũng sẵn sàng; chúng tôi cứ chờ mãi; giờ mọi thứ sẽ phải thay đổi.

Những người khác bắt đầu xuất hiện, từ trên đỉnh đồi, trong nhà, dọc theo triền sông: Các thành viên của nhóm, nhưng có cả những người lạ nữa, những người mulefa lạ mặt đối với bà, những người đang nhìn đầy hiếu kì về nơi bà đứng. Những chiếc bánh xe của họ lăn trên nền đất nèn cứng tạo ra một thứ âm thanh trầm và đều đặn.

Tôi phải đi đâu cơ? Mary hỏi. Sao tất cả bọn họ lại đến đây thế?

Đừng lo, Atal đáp, đi với tôi, chúng tôi sẽ không làm hại bà đâu.

Cuộc họp này dường như đã được dự kiến từ rất lâu, vì tất cả đều biết phải đi đâu và phải đoán trước điều gì. Bên rìa của ngôi lành có một ụ đất thấp mang hình dạng tròn trịa và được nèn đất cứng, những bờ dốc thoải chạy xuống mỗi đầu, và đám đông - Mary ước lượng ít nhất là khoảng năm mươi người - đang di chuyển về phía đó. Khói bếp lơ lửng trong bầu không khí chiều muộn, vầng dương lặn dần trải thứ vàng mơ mộng của riêng mình lên vạn vật; Mary nhận ra mùi ngô nướng, và cả thứ mùi ấm áp của chính những người mulefa - phần là mùi dầu, phần là da thịt ấm áp, một thứ hương ngọt ngào gợi nhớ đến loài ngựa.

Atal hối bà tiến về ụ đất.

Mary hỏi: Chuyện gì thế này? Cho tôi biết đi!

Không, không… Không phải tôi. Sattamax sẽ nói…

Mary không biết cái tên Sattamax, zalif mà Atal ám chỉ cũng là một người lạ với bà. Ông ta già cỗi hơn bất cứ người mulefa nào bà từng gặp: Tại gốc vòi của ông có vài sợi lông trắng lơ thơ, ông ta di chuyển một cách khó nhọc như thể bị viêm khớp. Tất cả những người khác đều đi lại rất cẩn thận quanh ông. Khi Mary liếc nhìn trộm qua tấm kính sơn mài, bà có thể thấy vì sao: Đám mây Bóng của vị zalif già dồi dào và phức tạp đến mức khiến bản thân Mary thấy nể trọng, dù cho bà biết rất ít về ý nghĩa của điều đó.

Khi Sattamax sẵn sàng phát biểu, phần còn lại của đám đông trở nên im bặt. Mary đứng lại gần với ụ đất, với Atal bên cạnh để làm bà yên lòng; nhưng bà có thể cảm nhận được tất cả những ánh mắt đang đổ dồn lên mình, và thấy bản thân như là một nữ sinh mới nhập học vậy.

Sattamax bắt đầu nói. Tiếng của ông ta trầm trầm, chất giọng dày dặn và phong phú, những cử chỉ bằng vòi chậm rãi và duyên dáng.

Tất cả chúng ta tề tựu tại đây để chào mừng người lạ Mary. Những vị đã biết đến bà có lí do để cảm thấy biết ơn vì những hành động của bà kể từ khi gia nhập với chúng ta. Chúng ta đã chờ cho tới khi bà lĩnh hội được đôi chút ngôn ngữ của mình. Với sự giúp đỡ của rất nhiều người, nhưng đặc biệt là của zalif Atal, người lạ Mary giờ đã có thể hiểu được chúng ta.

Nhưng vẫn còn một điều khác mà bà phải hiểu được, và đó là sraf. Bà đã biết về nó, nhưng lại không thể thấy được như chúng ta, cho tới khi bà tạo ra một dụng cụ để nhìn qua.

Và giờ khi thành công, bà đã sẵn sàng để học hỏi thêm về việc mình phải làm để giúp chúng ta.

Mary, đến đây với tôi.

Bà cảm thấy choáng váng, thẹn thùng, lúng túng, nhưng vẫn làm theo điều cần làm và bước lên đứng cạnh vị zalif già. Bà nghĩ tốt hơn hết mình nên lên tiếng nên đã nói:

Tất cả các vị đã cho tôi cảm giác được làm một người bạn. Các vị thật tử tế và mến khách. Tôi tới từ một thế giới có cuộc sống rất khác biệt, nhưng vài người trong số chúng tôi có nhận thức được về sraf, giống như các vị, và tôi rất biết ơn sự giúp đỡ của các vị để làm nên tấm gương này, nhờ nó mà tôi có thể nhìn thấy được. Nếu có bất kì cách nào giúp đỡ được các vị, tôi sẽ rất sẵn lòng thực hiện.

Không những tỏ ra ngượng nghịu hơn khi nói chuyện với Atal, bà còn lo mình không thể hiện được rõ những điều muốn nói. Thật khó để biết được phải quay mặt đi đâu khi phải vừa khoa tay múa chân vừa nói, nhưng có vẻ như họ vẫn hiểu.

Sattamax nói: Thật tốt khi được nghe bà nói. Hi vọng bà sẽ giúp được chúng tôi. Nếu không, tôi không biết chúng tôi sẽ phải sống sót như thế nào. Lũ tualapi sẽ giết tất cả chúng tôi mất. Số lượng của chúng đang vượt trội hơn bao giờ hết, cứ mỗi năm lại một tăng lên. Có vấn đề gì đó đang xảy ra với thế giới này. Gần như suốt ba mươi ba nghìn năm kể từ khi loài mulefa xuất hiện, chúng tôi vẫn luôn chăm sóc trái đất. Mọi thứ đều ở thế cân bằng. Cây cối xum xuê, động vật ăn cỏ khỏe mạnh, kể cả thỉnh thoảng khi lũ tualapi tới, số lượng của chúng tôi và của chúng vẫn duy trì không thay đổi.

Nhưng ba trăm năm trước, đám cây bắt đầu đổ bệnh. Chúng tôi lo lắng theo dõi chúng, chăm sóc chúng cẩn thận, nhưng vẫn thấy chúng sản xuất ra ít vỏ hạt hơn, rụng lá dù chưa đến mùa, một số còn chết ngay lập tức, trường hợp này chưa từng được biết tới trước đây. Dù có lục tung toàn bộ kí ức, chúng tôi cũng chẳng thể tìm ra nổi một nguyên nhân cho sự việc này.

Rõ ràng là việc đó diễn ra chậm chạp, nhưng nhịp điệu cuộc sống của chúng tôi cũng thế. Chúng tôi đã không biết điều này cho tới khi bà đến. Chúng tôi đã thấy bươm bướm và chim muông, nhưng chúng không có sraf. Bà thì có, dù trông bà thật kì lạ; nhưng bà lại rất lanh lẹ và mau chóng, giống như chim, như bướm vậy. Bà nhận ra rằng cần phải có một thứ gì đó để giúp mình nhìn được sraf và ngay lập tức, bằng những vật liệu mà chúng tôi đã biết tới hàng nghìn năm nay, bà kết hợp lại thành một thiết bị để thực hiện việc đó. Bên cạnh chúng tôi, bà suy nghĩ và hành động với tốc độ của loài chim. Mọi việc dường như là vậy, và đó cũng là cách chúng tôi biết được rằng nhịp điệu của mình có vẻ thật chậm chạp so với bà.

Nhưng sự thực đó là niềm hi vọng của chúng tôi. Bà có thể thấy những thứ mà chúng tôi không thấy được, bà có thể thấy những mối gắn kết, những khả năng và lựa chọn vốn vô hình đối với chúng tôi, cũng giống như sraf đã từng vô hình với bà. Trong khi bản thân không thấy được cách nào để sống sót, chúng tôi hi vọng rằng bà có thể. Chúng tôi hi vọng rằng bà sẽ nhanh chóng tìm đến được nguyên do gây nên bệnh tật của đám cây và tìm ra cách chữa trị; chúng tôi hi vọng bà sẽ phát kiến ra một phương cách đối phó với lũ tualapi đông đảo và hùng mạnh.

Và chúng tôi hi vọng bà sẽ sớm thực hiện được việc đó, nếu không tất cả chúng tôi sẽ chết mất.

Từ trong đám đông phát ra một tiếng rì rầm tán thành và ủng hộ. Tất cả đều đang nhìn về phía Mary, hơn bao giờ hết bà cảm thấy hệt như mình là học sinh mới ở ngôi trường đang đặt kì vọng cao vào mình. Đồng thời bà cũng cảm thấy như được tâng bốc một cách lạ lùng: Ý nghĩ về bản thân lanh lẹ và mau chóng như loài chim thật mới mẻ và khoan khoái, vì bà luôn cho rằng mình là một kẻ lì lợm và nặng nề. Nhưng cùng với nó là cảm giác rằng nếu thấy bà như thế thì họ đã hiểu sai hoàn toàn rồi; họ chẳng hiểu gì cả; bà chẳng thể nào đáp ứng được niềm hi vọng mãnh liệt của họ đâu.

Nhưng cũng tương tự như vậy, bà hiểu rằng mình phải làm. Họ đang đợi.

Sattamax, bà nói, mulefa, các vị đã đặt niềm tin vào tôi nên tôi sẽ làm hết sức mình. Các vị luôn tử tế với tôi, cuộc sống của các vị thật vui tươi, rạng rỡ, nên tôi sẽ rất cố gắng để giúp đỡ. Bây giờ khi đã thấy được sraf, tôi hiểu ra được việc mình đang làm là gì. Cảm ơn đã tin tưởng tôi.

Họ gật đầu, rì rầm rồi dùng vòi vuốt ve bà khi bà bước xuống. Điều vừa mới đồng ý sẽ làm khiến bà hoảng sợ.

Đúng vào thời điểm đó tại thế giới của Cittàgazze, tên linh mục - kẻ ám sát Cha Gomez đang leo lên một con đường mòn gồ ghề nằm trong núi, giữa những thân cây olive oằn cong. Ánh chạng vạng chiếu xiên qua những tán lá dát bạc, bầu không khí nô nức tiếng dế và ve kêu râm ran.

Phía trước mặt, hắn có thể thấy một căn nhà trại nhỏ ẩn náu giữa những thân dây leo, nơi một chú dê đang kêu lên be be và một dòng suối len lách xuống qua những tảng đá xám màu. Có một ông cụ đang làm việc bên cạnh căn nhà và một bà lão đang dẫn con dê về phía chiếc ghế đẩu và cái chậu.

Tại ngôi làng xa xa phía sau, người ta đã kể cho hắn rằng người đàn bà mà hắn đang theo dấu đã đi qua lối này, và rằng bà ta có nhắc tới chuyện leo vào trong núi; có lẽ cặp đôi lớn tuổi này đã thấy bà ta. Ít nhất thì ở đó cũng có thể có pho mát và olive để mua, nước suối để uống. Cha Gomez đã khá quen với cuộc sống thanh đạm, mà thời gian thì vẫn còn nhiều.