- 18 - Khu ngoại ô của người chết
Ôi giả như điều đó là khả thi
Ta nên tổ chức hội ý hai ngày với kẻ đã chết
John Webster
Lyra tỉnh giấc trước cả khi bình minh lên, với Pantalaimon nằm run cầm cập trên ngực. Cô bé đứng dậy đi loanh quanh để làm ấm người trong lúc thứ ánh sáng nhợt nhạt dần thấm đẫm bầu trời. Cô bé chưa từng thấy sự im lặng nào tuyệt đối đến thế, kể cả trên vùng Cực Bắc dày tuyết phủ; chẳng có lấy một ngọn gió, còn biển cả thì tĩnh lặng tới mức không có cả những gợn sóng nhỏ nhất xô lên cát; cả thế giới dường như chững lại giữa một cái hít vào và một hơi thở ra.
Will vẫn đang cuộn tròn người ngủ ngon lành, đầu tì lên balô để bảo vệ con dao. Cái áo choàng đã tuột khỏi vai cậu, cô bé nhét nó lại vào quanh người cậu, giả vờ như mình đang cẩn thận không để chạm vào con linh thú, như thể nó có dạng một con mèo cũng đang cuộn tròn như cậu. Nó hẳn phải đang ở đâu đó quanh đây, cô bé nghĩ.
Ẵm theo Pantalaimon vẫn đang ngái ngủ, cô bé rời khỏi Will rồi ngồi xuống một sườn dốc trên đụn cát cách đó không xa, để giọng của chúng không đánh thức cậu bé.
“Mấy cái người tí hon đó,” Pantalaimon nói.
“Tớ không thích họ,” Lyra quả quyết nói. “Tớ nghĩ chúng ta nên thoát khỏi họ càng sớm càng tốt. Tớ đoán nếu chúng ta bẫy họ trong một tấm lưới hay gì đó, Will có thể cắt xuyên qua rồi đóng lại, và thế là xong, chúng ta sẽ được tự do.”
“Chúng ta làm gì có lưới,” con linh thú nói, “hay cái gì đó chứ. Dù sao thì tớ cũng nghĩ là họ khôn ngoan hơn thế. Giờ ông ta đang quan sát chúng ta đấy.”
Vào lúc nói điều đó, Pantalaimon đang ở trong dạng diều hâu, nhờ vậy mắt nó tinh tường hơn mắt cô. Màn đêm phủ kín bầu trời cứ mỗi phút lại chuyển dần sang một sắc xanh nhẹ nhàng thanh thoát, rồi khi cô bé phóng tầm mắt qua đụn cát, đường viền đầu tiên của vầng thái dương vừa nhú lên khỏi rìa mặt biển, khiến cô chói lòa mắt. Do đang ngồi trên sườn dốc của đụn cát, ánh sáng đến chỗ cô vài giây trước khi chạm tới bờ biển, cô bé ngắm nhìn nó tràn xuống quanh mình rồi tuôn về phía Will; rồi cô nhìn thấy dáng hình cao bằng một bàn tay của Hiệp sĩ Tialys, đứng bên đầu Will, rõ rệt, tỉnh táo, và đang quan sát chúng.
“Vấn đề là,” Lyra nói, “họ không thể khiến chúng ta làm theo điều họ muốn. Họ phải đi theo chúng ta. Tớ dám cá là họ ngán lắm rồi.”
“Nếu họ kiểm soát được chúng ta,” Pan nói, ám chỉ nó và Lyra, “và sẵn sàng đâm nọc vào chúng ta, Will sẽ phải làm theo những gì họ nói.”
Lyra ngẫm nghĩ về điều đó. Cô bé còn nhớ rất rõ tiếng thét kinh hoàng vì đau đớn của Phu nhân Coulter, những cơn co giật khiến mắt bà trợn ngược, cảnh tượng ghê sợ khi con khỉ vàng nhểu dãi lúc chất độc ngấm vào mạch máu của bà… Mà đó chỉ là một vết xước, giống như gần đây mẹ cô được nhắc nhớ lại tại một nơi khác. Will sẽ phải nhượng bộ và thực hiện điều họ muốn.
“Nhưng cứ giả sử họ cho rằng cậu ấy sẽ không làm đi,” cô bé nói, “giả sử họ nghĩ cậu ấy máu lạnh đến mức sẵn sàng nhìn chúng ta chết xem. Có khi cậu ấy nên khiến họ nghĩ vậy, nếu được.”
Cô bé có mang theo chiếc Chân Kế bên mình, và lúc này trời đã đủ sáng để nhìn, cô bé lấy chiếc máy thân thương ra rồi đặt nó lên mảnh vải nhung đen trong lòng mình. Dần dần cô chìm vào trạng thái miên man nơi rất nhiều lớp ý nghĩa trở nên rõ ràng đối với cô, cũng là nơi cô có thể cảm nhận những mạng lưới phức tạp của sự liên kết giữa tất cả các lớp. Khi những ngón tay tìm thấy các biểu tượng, trí não cô tìm thấy những từ ngữ: Làm sao tống khứ được các mật thám đi?
Lúc đó cây kim dài bắt đầu xoay hướng này, ngoặt hướng kia, cô bé chưa từng thấy nó di chuyển nhanh đến thế - trên thực tế là nhanh đến mức lần đầu tiên nó khiến cô lo sợ mình sẽ bỏ qua một số lần xoay hay dừng nào đó; nhưng một phần nhận thức của cô đang nhẩm đếm, ngay lập tức cô nhìn ra ý nghĩa mà chuyển động muốn ám chỉ.
Nó nói với cô: Đừng làm vậy, vì sự sống của các bạn phụ thuộc vào họ.
Quả là một điều đáng ngạc nhiên, nhưng không vui vẻ chút nào. Tuy vậy, cô bé vẫn tiếp tục hỏi: Làm sao chúng tôi tới được vùng đất của người chết?
Câu trả lời là: Đi xuống. Theo chân con dao. Tiến về phía trước. Theo chân con dao.
Cuối cùng cô ngập ngừng hỏi, với đôi chút ngượng ngùng: Đây có phải là việc nên làm không?
Có, Chân kế lập tức trả lời. Có.
Cô bé thở dài, thoát ra khỏi sự nhập định, cô vén tóc ra sau tai, cảm nhận luồng hơi ấm đầu tiên của mặt trời trên gương mặt và đôi vai mình. Thế giới lúc này cũng đã có tiếng động: Côn trùng đang kêu râm ran, một ngọn gió thoảng rất khẽ đang xào xạc luồn qua những thân cỏ khô mọc cao trên đụn cát.
Cô cất Chân Kế đi rồi thơ thẩn trở lại bên Will, cùng với Pantalaimon trong dạng sư tử, cố gắng khiến bản thân trở nên to nhất có thể, hi vọng có thể dọa dẫm được những người Gallivespia.
Người đàn ông đang sử dụng cỗ máy đá nam châm của mình, khi ông ta xong việc, Lyra nói:
“Ông vừa nói chuyện với Ngài Asriel à?”
“Với đại diện của ngài ấy,” Tialys đáp.
“Chúng tôi không đi đâu.”
“Đó là điều tôi đã nói với ông ấy.”
“Ông ta nói gì?”
“Cái đó là dành cho ta chứ không phải cô.”
“Được thôi,” cô bé nói. “Có phải ông và công nương đó đã kết hôn không?”
“Không. Chúng tôi là cộng sự.”
“Ông có con cái không?”
“Không.”
Tialys tiếp tục gói ghém để cất chiếc máy cộng hưởng đá nam châm đi. Trong lúc ấy, Công nương Salmakia gần đó đã tỉnh giấc, bà ngồi dậy đầy duyên dáng và chậm rãi tại cái hốc nhỏ mà bà tạo ra trong lớp cát mềm. Hai con chuồn chuồn vẫn đang say ngủ, được cột lại bằng những sợi dây mảnh như mạng nhện, đôi cánh ướt đẫm sương mai.
“Ở thế giới của ông có người cỡ lớn không, hay ai cũng nhỏ như các ông?” Lyra hỏi.
“Chúng tôi biết cách xử trí với người khổng lồ,” Tialys đáp, không tỏ ra nhiệt tình lắm, rồi bỏ đi nói thầm với vị công nương. Họ nói quá khẽ để Lyra có thể nghe thấy được, nhưng cô bé thích thú ngắm họ uống những giọt sương từ cỏ marram để khiến người tỉnh táo. Nước hẳn là rất khác biệt đối với họ, cô thầm nghĩ với Pantalaimon: Cứ tưởng tượng những giọt nước cỡ nắm tay của cậu đi! Khó mà nuốt trôi lắm cho xem; chúng sẽ có lớp màng đàn hồi kiểu giống như một quả bóng bay vậy.
Vào lúc này Will cũng đang tỉnh dần, vẻ đầy mệt mỏi. Việc đầu tiên cậu làm là tìm kiếm những người Gallivespia, họ cũng lập tức nhìn đáp lại, tập trung hoàn toàn vào cậu.
Cậu quay đi và thấy Lyra.
“Tớ muốn trao đổi một chuyện,” cô bé nói. “Qua đây đi, tránh xa khỏi…”
“Nếu muốn tránh xa chúng tôi,” giọng nói lanh lảnh của Tialys vang lên, “hai người phải để lại con dao. Nếu không để lại con dao thì cả hai phải nói chuyện với nhau tại đây.”
“Chúng tôi không thể có chút riêng tư được sao?” Lyra căm phẫn nói. “Chúng tôi không muốn mấy người nghe lỏm điều mình nói!”
“Thì cứ đi đi, nhưng nhớ để lại con dao.”
Đằng nào thì cũng chẳng có ai ở gần đó, mà chắc chắn là những người Gallivespia sẽ không thể dùng được nó. Will lục lọi trong balô để tìm bi đông nước và một ít bánh quy. Vừa đưa một cái cho Lyra, cậu vừa cùng cô bé leo lên sườn của đụn cát.
“Tớ đã hỏi Chân Kế rồi,” cô nói với bạn mình, “nó nói chúng ta không nên thử trốn thoát khỏi mấy người tí hon, vì họ sẽ cứu mạng chúng ta. Vậy nên có lẽ chúng ta mắc kẹt với họ rồi.”
“Cậu đã nói với họ việc bọn mình định làm chưa?”
“Chưa! Mà tớ cũng sẽ không nói đâu. Chỉ tổ họ đi kể với Ngài Asriel bằng cái thanh biết nói đó rồi ông ấy sẽ đến đấy ngăn cản chúng ta - nên chúng ta cứ thế mà đi thôi, và không nhắc đến việc đó trước mặt bọn họ.”
“Nhưng họ là mật thám mà,” Will chỉ ra. “Chắc hẳn họ phải rất giỏi việc nghe lỏm và ẩn náu. Nên có lẽ chúng ta tuyệt nhiên không nên nhắc đến nó nữa. Chúng ta biết nơi mình sẽ đi. Nên cứ thế đi mà không nhắc đến nó, như thế họ sẽ phải chấp nhận mà đi theo thôi.”
“Giờ thì họ không thể nghe được chúng ta đâu. Họ ở xa quá mà. Will, tớ cũng đã hỏi cách đến được đó nữa. Nó nói cứ theo chân con dao, chỉ vậy thôi.”
“Nghe có vẻ dễ dàng nhỉ,” cậu nhận xét. “Nhưng tớ dám cá là không hề đâu. Cậu có biết Iorek đã nói gì với tớ không?”
“Không. Ông ấy nói - khi tớ đến để từ biệt - ông ấy nói sẽ rất khó khăn cho cậu, nhưng ông ấy cho rằng cậu có thể làm được, dù không hề nói tại sao…”
“Con dao bị gãy vì tớ đã nghĩ đến mẹ của mình,” cậu giải thích. “Vì vậy tớ phải gạt bà ấy ra khỏi tâm trí. Nhưng… Cũng giống như khi ai đó bảo cậu đừng nghĩ đến một con cá sấu, cậu sẽ nghĩ đến nó mà không cách nào ngăn nổi…”
“Chà, đêm qua cậu cắt xuyên không gian ổn mà,” cô bé nói.
“Phải, vì lúc đó tớ mệt quá rồi, tớ nghĩ vậy. Mà rồi ta sẽ biết thôi. Cứ theo chân con dao thôi à?”
“Nó chỉ nói có vậy.”
“Vậy thì nên đi luôn thôi. Mỗi tội là không còn nhiều thức ăn lắm. Chúng ta phải kiếm thứ gì đó mang theo, bánh mì và hoa quả hay gì đó. Thế nên đầu tiên tớ sẽ tìm một thế giới mà chúng ta có thể lấy được đồ ăn, sau đó chúng ta sẽ bắt đầu tìm kiếm một cách hẳn hoi.”
“Được,” Lyra nói, khá phấn chấn vì lại được di chuyển, cùng với Pan và Will, vẫn còn sống và tỉnh táo.
Chúng quay trở lại với các mật thám đang cảnh giác ngồi cạnh con dao, túi đồ đeo sẵn trên lưng.
“Chúng tôi muốn biết hai cô cậu dự tính làm điều gì,” Salmakia nói.
“À, đằng nào thì chúng tôi cũng sẽ không tới chỗ Ngài Asriel đâu,” Will đáp. “Chúng tôi có việc khác cần làm trước.”
“Vậy cậu có thể cho chúng tôi biết việc đó là gì không, vì rõ ràng là chúng tôi không thể ngăn cản hai người thực hiện nó mà?”
“Không,” Lyra đáp, “vì mấy người sẽ đi nói với họ thôi. Hai người sẽ phải đi cùng mà không biết chúng ta đang đi đâu. Đương nhiên là các người luôn có thể bỏ cuộc mà quay về với họ.”
“Chắc chắn là không rồi,” Tialys nói.
“Chúng tôi muốn có một sự đảm bảo,” Will nói. “Hai người là mật thám nên chắc chắn là không trung thực rồi, bệnh nghề nghiệp mà. Chúng tôi cần biết mình có thể tin tưởng hai người. Đêm hôm qua cả hai chúng tôi đều quá mệt nên không thể nghĩ tới việc đó, nhưng chẳng có gì ngăn được các người chờ đợi cho tới khi chúng tôi ngủ say rồi chích độc để khiến chúng tôi bất động, sau đó dùng cái thứ đá nam châm đó gọi Ngài Asriel đến. Các người có thể làm việc đó quá dễ dàng. Vậy nên chúng tôi cần một sự đảm bảo rõ ràng rằng các người sẽ không làm thế. Một lời hứa là không đủ.”
Hai người Gallivespia run lên vì phẫn nộ khi danh dự của bản thân bị sỉ nhục như thế.
Tialys, cố gắng kiềm chế, lên tiếng: “Chúng tôi không chấp nhận yêu cầu từ một phía. Hai người phải đưa ra một thứ gì đó để trao đổi. Hai cô cậu phải cho chúng tôi biết các dự định của mình, và rồi tôi sẽ đưa cho các người giữ máy cộng hưởng đá nam châm. Hai người phải đưa lại cho tôi khi tôi muốn gửi tin đi, nhưng các người sẽ luôn biết được khi nào việc đó xảy ra, và chúng tôi sẽ không thể sử dụng nó mà không được sự đồng ý của hai người. Đó sẽ là cam kết của chúng tôi. Giờ thì cho chúng tôi biết hai người định đi đâu, và vì sao.”
Will và Lyra liếc nhìn nhau để xác nhận.
“Được rồi,” Lyra nói, “thế cũng phải. Chỗ chúng tôi định đi đây: Chúng tôi sẽ đến thế giới của người chết. Chúng tôi không biết nó ở đâu, nhưng con dao sẽ tìm ra nó. Đó là việc chúng tôi định làm.”
Hai mật thám nhìn cô bé, mồm há hốc đầy hoài nghi.
Rồi Salmakia chớp mắt và nói: “Chuyện cô nói thật vô nghĩa. Người chết thì đã chết rồi, thế là hết. Làm gì có thế giới nào của người chết chứ.”
“Tôi cũng đã nghĩ như thế,” Will nói. “Nhưng giờ thì tôi không dám chắc. Ít nhất chúng ta có thể tìm hiểu nhờ có con dao.”
“Nhưng tại sao chứ?”
Lyra nhìn sang Will và thấy cậu bé gật đầu.
“À,” cô nói, “trước khi gặp Will, rất lâu trước khi tôi bị bỏ thuốc ngủ, tôi đã đẩy một người bạn vào nguy hiểm và cậu ấy đã bị giết. Tôi cứ nghĩ mình đang giải cứu cậu ấy, nhưng hóa ra lại chỉ làm cho mọi việc tồi tệ hơn. Và trong lúc ngủ tôi đã mơ thấy cậu ấy, tôi nghĩ mình có thể sửa chữa lỗi lầm nếu tới nơi cậu ấy đã đến và nói lời xin lỗi. Will cũng muốn tìm bố của mình, ông ấy đã chết ngay khi cậu ấy tìm thấy ông. Vậy đó, Ngài Asriel sẽ không nghĩ tới việc đó. Cả Phu nhân Coulter nữa. Nếu đến chỗ ông ấy, chúng tôi sẽ phải làm theo những gì ông ấy muốn, mà ông ấy thì sẽ hoàn toàn không nghĩ tới Roger - đó là người bạn đã mất của tôi - việc đó chẳng quan trọng với ông ấy. Nhưng nó rất quan trọng với tôi. Với chúng tôi. Vậy nên đó là điều chúng tôi muốn làm.”
“Cô bé,” Tialys nói, “khi ta chết, mọi thứ sẽ kết thúc. Không có cuộc sống khác nào hết. Cô đã chứng kiến cái chết. Cô đã thấy những xác chết, và thấy chuyện gì xảy ra với linh thú khi tử thần ập tới. Nó tan biến. Sau đó thì còn có gì để mà tiếp tục sống cơ chứ?”
“Chúng tôi sẽ đi tìm hiểu sự việc,” Lyra đáp. “Còn giờ khi đã kể mọi chuyện với hai người, chúng tôi sẽ lấy cái máy cộng hưởng đá nam châm.”
Cô bé chìa tay ra, con báo gấm Pantalaimon thì đứng đó, đuôi quật qua lại dưới chân, để củng cố thêm yêu cầu của cô. Tialys tháo túi đồ khỏi lưng rồi đặt nó vào lòng bàn tay cô. Túi đồ nặng đến đáng ngạc nhiên; đương nhiên đó không phải là gánh nặng gì cho cô, nhưng nó khiến cô kinh ngạc trước sức mạnh của ông ta.
“Vậy cô nghĩ cuộc thám hiểm này sẽ tốn bao lâu thời gian?” Vị hiệp sĩ hỏi.
“Chúng tôi không biết,” Lyra nói với ông. “Chúng tôi không biết gì về nó cả, không biết gì hơn các vị đâu. Chúng tôi sẽ cứ đến đó xem thế nào thôi.”
“Việc đầu tiên,” Will nói, “chúng ta sẽ phải kiếm chút nước và thêm ít thức ăn, thứ gì đó dễ mang theo. Nên tôi sẽ tìm một thế giới mà ta có thể làm việc đó, rồi chúng ta sẽ lên đường.”
Tialys và Salmakia trèo lên hai con chuồn chuồn của mình, rồi để cho chúng đập cánh là là trên mặt đất. Đám côn trùng khổng lồ đang háo hức muốn bay, nhưng chúng tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của những người cưỡi lên mình. Về phần Lyra, lần đầu tiên nhìn thấy chúng trong ánh sáng ban ngày, cô bé thấy được sự tinh tế khác thường của những sợi cương màu lụa xám, những bàn đạp ánh bạc và bộ yên nhỏ xíu.
Will rút con dao ra, một sự cám dỗ mạnh mẽ khiến cậu lần tìm sự tồn tại của thế giới của chính mình: Cậu vẫn còn thẻ tín dụng; cậu có thể mua những loại đồ ăn quen thuộc; cậu thậm chí còn có thể gọi điện cho bà Cooper để hỏi tin tức của mẹ mình…
Con dao rít lên một tiếng như tiếng móng tay cào lên phiến đá xù xì, khiến tim cậu suýt ngừng đập. Nếu cậu làm gãy con dao thêm một lần nữa thì mọi chuyện sẽ kết thúc.
Một lúc sau cậu thử lại. Thay vì cố gắng không nghĩ tới mẹ mình, cậu tự nhắc nhở bản thân: Phải, mình biết mẹ đang ở đó, nhưng trong lúc làm việc này thì mình sẽ tránh đi…
Và lần này cậu đã thành công. Cậu tìm thấy một thế giới mới và miết lưỡi dao để tạo ra một lối thông. Chỉ một lúc sau, tất cả bọn họ đã đứng trong một nơi giống như khu sân trại gọn gàng và phát đạt tại một đất nước phía bắc nào đó như Hà Lan hay Đan Mạch, nơi khoảnh sân lát đá được quét dọn sạch sẽ và một dãy cửa chuồng đứng mở sẵn. Mặt trời tỏa nắng xuống qua khoảng trời mù sương, trong không khí lan tỏa mùi cháy khét cùng với một thứ gì đó còn khó chịu hơn. Không có âm thanh nào của sự sống con người, dù cho có một tiếng vo vo ồn ào, nhanh và mạnh tới mức nghe như tiếng máy chạy, phát ra từ dãy chuồng.
Lyra đến đó xem xét rồi lập tức quay lại ngay, mặt tái nhợt đi.
“Có bốn…” Cô bé hổn hển, tay ôm lấy cổ, rồi sau khi hồi phục lại “… bốn con ngựa chết trong đó. Và hàng triệu con ruồi…”
“Nhìn này,” Will nói, nuốt nước miếng, “mà có khi không nên.”
Cậu đang chỉ về phía những bụi mâm xôi mọc bên rìa khu vườn bếp. Cậu vừa thấy một đôi chân người, một bên có giày còn một bên không, thò ra từ phần rậm rạp nhất của các bụi cây.
Lyra không muốn nhìn, nhưng Will thì tới xem liệu người đàn ông có còn sống và cần giúp đỡ gì không. Cậu vừa quay trở lại vừa lắc đầu, trông có vẻ không thoải mái.
Hai mật thám lập tức đã ở trước cánh cửa nhà trại đang mở hé.
Tialys phóng trở lại rồi nói: “Mùi ở bên trong này ngọt hơn,” rồi ông bay trở lại qua ngưỡng cửa trong lúc Salmakia thám thính kĩ hơn quanh khu nhà phụ.
Will theo sau vị hiệp sĩ. Cậu thấy mình đang ở trong một căn bếp lớn vuông vắn, một nơi cổ lỗ sĩ có đồ sứ trắng đặt trên cái tủ chạn bằng gỗ, chiếc bàn gỗ thông đã được lau chùi, và bếp lửa nơi một cái ấm đen đứng trong lạnh lẽo. Phòng bên cạnh có một chạn để đồ ăn, với hai ngăn đựng đầy táo, khiến cả căn phòng tràn ngập mùi thơm. Nơi này im lặng đến ngột ngạt.
Lyra nói khẽ: “Will, liệu đây có phải là thế giới của người chết không?”
Cậu cũng đã nghĩ tới điều đó. Nhưng cậu đáp: “Không, tớ không cho là như vậy. Đây là một nơi chúng ta chưa từng tới trước đây. Coi này, chúng ta sẽ mang theo nhiều nhất có thể. Có thứ giống như bánh mì lúa mạch đen, cái đó khá ổn - nó nhẹ - còn đây là chút pho mát…”
Sau khi đã lấy những thứ mà mình có thể mang theo, Will thả một đồng vàng vào ngăn kéo trong chiếc bàn gỗ thông lớn.
“Sao nào?” Lyra nói khi thấy Tialys nhướn mày. “Cháo múc rồi thì tiền phải trao chứ.”
Đúng lúc đó Salmakia bay vào qua cửa hậu, đáp chuồn chuồn lên bàn trong một vệt sáng màu xanh ánh điện lung linh.
“Có người đang tới,” bà nói, “đi bộ, có vũ khí. Họ chỉ còn cách vài phút đi bộ thôi. Ngoài ra có một ngôi làng đang bị cháy bên kia những cánh đồng.”
Trong lúc bà nói, họ có thể nghe thấy tiếng giày ủng lạo xạo trên sỏi, một giọng nói cất lên ra lệnh, và tiếng kim loại xủng xoảng.
“Vậy thì chúng ta nên đi thôi,” Will nói.
Cậu lần tìm trong không khí bằng đầu mũi dao. Lập tức cậu ý thức được về một loại cảm giác mới. Lưỡi dao dường như đang trượt đi trên một bề mặt rất nhẵn nhụi, như một tấm gương vậy, và rồi nó chậm rãi lún xuống cho tới khi cậu có thể cắt qua được. Nhưng nó cũng có độ bền, giống như một tấm vải nặng, và khi lối thông mở ra cậu chớp chớp mắt vì kinh ngạc và hoảng hốt: Bởi vì thế giới mà cậu vừa mở vào có cùng mọi chi tiết giống như nơi mà họ đang đứng sẵn.
“Sao thế?” Lyra hỏi.
Hai mật thám đang nhìn qua đầy bối rối. Nhưng những gì họ cảm thấy còn vượt xa cả sự bối rối. Cũng giống như không khí cản lưỡi dao lại, có thứ gì đó trong lối thông này cũng ngăn trở không cho họ qua. Will phải đẩy vào một thứ gì đó vô hình rồi giúp kéo Lyra qua theo, còn những người Gallivespia thì gần như chẳng nhích lên được chút nào. Họ phải đậu lũ chuồn chuồn lên tay của hai đứa trẻ, nhưng kể cả thế thì cũng có cảm giác như đang kéo lũ côn trùng đi ngược sức ép trong không khí vậy; đôi cánh mỏng manh của chúng bị bẻ ngoặt và xoắn lại, hai người cưỡi chuồn chuồn phải vuốt ve đầu chúng và thi thầm để xoa dịu nỗi sợ của chúng.
Thế nhưng sau vài giây vật lộn, tất cả đã lọt qua. Will tìm thấy mép ô cửa (dù cho không thể nhìn thấy được nó) và đóng lại, cắt đứt tiếng ồn từ đám binh lính trong thế giới của họ.
“Will,” Lyra kêu lên, cậu bé quay lại và thấy rằng có một bóng dáng khác đang ở trong bếp cùng với họ.
Tim cậu giật thót lên. Đó chính là người đàn ông cậu đã thấy chưa đầy mười phút trước, nằm chết cứng đờ trong các bụi cây với cổ họng bị cứa đứt.
Ông ta khoảng tầm trung niên, gầy gộc, có vẻ ngoài của một người đàn ông đã dành phần lớn cuộc đời mình ở ngoài trời. Nhưng giờ thì trông ông ta gần như đang loạn trí, hoặc tê liệt, vì kinh hoàng. Đôi mắt ông mở to đến mức để lộ lòng trắng bao xung quanh tròng mắt, ông đang tóm chặt lấy mép bàn bằng bàn tay run lẩy bẩy. Cổ họng của ông, Will mừng khi thấy rằng nó vẫn lành lặn.
Ông há miệng định nói nhưng chẳng có từ ngữ nào phát ra cả. Tất cả những gì ông có thể làm là trỏ vào Will và Lyra.
Lyra nói: “Xin thứ lỗi cho chúng cháu vì đã vào nhà ông, nhưng chúng cháu phải chạy trốn khỏi đám người đang tiến đến. Cháu rất xin lỗi nếu chúng cháu khiến ông giật mình. Cháu là Lyra, đây là Will, còn đây là các bạn của chúng cháu, Hiệp sĩ Tialys và Công nương Salmakia. Ông có thể cho chúng cháu biết tên và nơi chúng cháu đang ở không?”
Yêu cầu nghe có vẻ bình thường này dường như đã khiến người đàn ông hoàn hồn, một cơn rùng mình chạy qua người ông như thể ông vừa tỉnh dậy từ một giấc mơ dài.
“Tôi đã chết rồi,” ông nói. “Tôi đang nằm ngoài đó, chết cứng rồi. Tôi biết mà. Mấy đứa chưa chết. Chuyện gì đang xảy ra thế này? Chúa cứu rỗi, chúng đã cắt cổ tôi. Chuyện gì thế này?”
Lyra bước lại gần Will khi người đàn ông kêu lên Tôi đã chết rồi, còn Pantalaimon thì lao vào ngực cô bé trong dạng chuột. Còn về những người Gallivespia, họ đang cố gắng kiểm soát lũ chuồn chuồn của mình, vì những con côn trùng khổng lồ này dường như có ác cảm với người đàn ông, chúng cứ lao hết hướng này lại qua hướng kia trong căn bếp, cố gắng tìm đường thoát ra.
Nhưng người đàn ông không để ý tới chúng. Ông ta vẫn đang cố gắng hiểu chuyện gì đang diễn ra.
“Ông là ma à?” Will thận trọng hỏi.
Người đàn ông vươn tay ra và Will thử cầm lấy nó, nhưng những ngón tay của cậu chỉ tóm vào không khí. Một cảm giác lạnh lẽo râm ran là tất cả những gì cậu cảm thấy được.
Khi thấy chuyện xảy ra, người đàn ông nhìn xuống bàn tay mình, kinh hãi. Người ông đã bớt tê liệt, và ông có thể cảm nhận thấy tình trạng đáng thương hại của mình.
“Đúng thật rồi,” ông nói, “tôi đã chết rồi… Tôi chết rồi, tôi sắp xuống địa ngục rồi…”
“Thôi nào,” Lyra nói, “chúng ta sẽ đi cùng nhau mà. Tên ông là gì vậy?”
“Tôi từng là Dirk Jansen,” ông đáp, “nhưng giờ thì tôi… Tôi không biết phải làm gì… Không biết phải đi đâu…”
Will mở cửa. Khoảnh sân chăn nuôi trông vẫn như vậy, vườn bếp cũng không thay đổi, vẫn là ánh mặt trời lờ mờ chiếu rọi mặt đất. Có cả xác của người đàn ông nữa, không hề suy chuyển.
Một tiếng rên rỉ buột ra từ họng của Dirk Jansen, như thể chẳng còn cách nào để chối bỏ sự thật nữa. Hai con chuồn chuồn lao ra khỏi cửa ra vào, lướt qua mặt đất rồi phóng vọt lên cao, nhanh hơn cả chim. Người đàn ông đang nhìn quanh quất vẻ bất lực, đôi tay giơ lên rồi lại hạ xuống, miệng khẽ thốt ra những tiếng kêu khe khẽ.
“Tôi không thể ở đây được… Không thể ở lại,” ông đang nói. “Nhưng đây không phải là trang trại mà tôi từng biết. Không đúng chút nào. Tôi phải đi thôi…”
“Ông đi đâu vậy, ông Jansen?” Lyra hỏi.
“Xuống dưới đường. Không biết. Phải đi thôi. Không ở lại đây được…”
Salmakia hạ xuống rồi đậu lên bàn tay Lyra. Những cái vuốt nhỏ xíu của con chuồn chuồn cắm vào da cô khi vị công nương lên tiếng: “Có người đang đi ra từ phía làng - những người giống như người đàn ông này - tất cả đều đi về cùng một hướng.”
“Vậy thì chúng ta sẽ đi với họ,” Will nói rồi quăng balô lên vai.
Dirk Jansen đi qua cái xác của mình, cố gắng nhìn đi chỗ khác. Trông ông không khác gì người say, cứ dừng lại rồi lại đi tiếp, thơ thẩn sang trái rồi lại phải, vấp vào ổ gà và sỏi đá trên con đường mà đôi chân thời còn sống của ông đã thuộc nằm lòng.
Lyra bám theo Will, trong khi Pantalaimon biến thành một con chim cắt rồi vút bay lên cao nhất có thể, khiến Lyra sững sờ vì lo lắng.
“Họ nói đúng,” nó nói khi bay xuống. “Các dòng người đều đang đổ dồn ra từ ngôi làng. Những kẻ đã chết…”
Không lâu sau chính chúng cũng nhìn thấy họ: Khoảng hai mươi người đàn ông, phụ nữ và trẻ nhỏ, tất cả đều đang di chuyển giống như Dirk Jansen, do dự và hoảng hốt. Ngôi làng nằm cách đó nửa dặm, và đoàn người đang tiến về phía họ, líu ríu lại với nhau ở giữa con đường. Khi Dirk Jansen nhìn thấy những hồn ma khác, ông loạng choạng lao đi, còn họ thì dang rộng vòng tay chào đón ông.
“Dù không biết mình đang đi đâu nhưng tất cả bọn họ đều đang tới đó cùng nhau,” Lyra nói. “Chúng ta nên đi theo họ.”
“Cậu có nghĩ người ta có linh thú ở thế giới này không?” Will hỏi.
“Tớ chịu. Nếu nhìn thấy một trong số họ tại thế giới của mình, liệu cậu có biết người đó là ma không?”
“Cái đó khó nói lắm. Chính xác thì trông họ không bình thường… Có một người đàn ông tớ thường nhìn thấy ở thị trấn của mình, ông ta hay lởn vởn bên ngoài các cửa hiệu, lúc nào cũng mang theo cùng một cái túi nilon cũ rích, và chẳng bao giờ nói chuyện với ai hay bước vào trong cả. Cũng chẳng có ai buồn nhìn ông ta. Tớ thường coi như ông ta là một hồn ma. Trông họ hơi giống ông ta. Có lẽ thế giới của tớ tràn ngập ma quỷ mà tớ không hề biết.”
“Tớ thì không nghĩ thế giới của mình giống như vậy,” Lyra hoài nghi nói.
“Dù sao thì đây cũng hẳn phải là thế giới của người chết. Những người này vừa mới bị giết - đám binh sĩ hẳn đã làm điều đó - và thế là họ ở đây, và nó giống hệt như thế giới mà họ đã từng sống. Tớ cứ nghĩ nó sẽ khác lắm cơ…”
“À, nó đang mờ dần,” cô bé nói. “Nhìn kìa!”
Cô tóm chặt lấy tay cậu. Cậu bé dừng lại nhìn quanh và thấy rằng cô nói đúng. Không lâu trước khi cậu tìm thấy ô cửa tại Oxford và bước qua để vào thế giới của Cittàgazze, nhật thực đã xảy ra, và cũng giống như hàng triệu người khác, Will đã ra ngoài đứng giữa ban ngày để nhìn ngắm ánh sáng rực rỡ buổi trưa nhạt dần cho tới khi một thứ ánh chạng vạng ma quái bao phủ lấy những ngôi nhà, cây cối, công viên. Mọi thứ vẫn rõ như ban ngày, nhưng có ít ánh sáng hơn để nhìn, như thể toàn bộ sức lực đã bị rút kiệt khỏi vầng mặt trời đang tàn lụi.
Điều đang diễn ra lúc này cũng giống như vậy, nhưng kì quặc hơn, bởi vì đường viền của mọi vật đang mất dần sự rõ nét và nhòa đi.
“Thậm chí còn không giống như bị mù nữa,” Lyra hoảng sợ nói, “vì không phải là chúng ta không nhìn được mà là mọi thứ cứ tự mờ dần đi…”
Màu sắc dần dần rỉ ra khỏi thế giới. Một màu xanh xám lờ nhờ thay thế cho màu lục tươi sáng của cây cỏ, màu cát xám xịt thế chỗ cho sắc vàng rực rỡ của cánh đồng ngô, màu máu xám ngoét thay cho những viên gạch đỏ của căn nhà trại gọn gàng…
Bản thân đoàn người, lúc này đã đến gần hơn, cũng bắt đầu nhận ra, họ đang chỉ trỏ và bám lấy tay nhau để trấn tĩnh lại.
Những thứ sáng sủa duy nhất trong toàn bộ cảnh vật là màu đỏ vàng tươi tắn và màu xanh ánh điện của hai con chuồn chuồn, những kị sĩ tí hon, Will và Lyra, cùng Pantalaimon trong dạng chim cắt đang lượn bay gần đó.
Giờ họ đang đứng gần với những người đi đầu, rõ ràng tất cả những người này đều là hồn ma. Will và Lyra bước một bước lại gần nhau, nhưng chẳng có gì phải sợ cả, vì những hồn ma còn e sợ chúng hơn nhiều, họ chùn bước, không muốn tới gần.
Will gọi lớn: “Đừng sợ. Chúng tôi không làm hại các vị đâu. Các vị đang đi đâu vậy?”
Họ nhìn sang người đàn ông lớn tuổi nhất trong đoàn, như thể ông ta là người dẫn đường cho họ.
“Chúng tôi đang tới nơi tất cả những người khác hướng đến,” ông trả lời. “Dường như tôi biết điều đó nhưng lại không thể nhớ nổi vì sao. Có vẻ như nó ở trên con đường này. Chúng tôi sẽ nhận ra khi tới được đó thôi.”
“Mẹ ơi,” một đứa trẻ kêu lên, “sao giữa ban ngày mà trời lại tối đi vậy?”
“Suỵt, con yêu, đừng lo,” người mẹ nói. “Có lo lắng cũng không thay đổi được gì đâu. Chúng ta chết rồi, mẹ nghĩ vậy.”
“Nhưng chúng ta đang đi đâu đây?” Đứa trẻ hỏi. “Con không muốn chết đâu, mẹ!”
“Chúng ta sẽ đi gặp ông,” người mẹ tuyệt vọng nói.
Nhưng câu nói đó không xoa dịu được đứa trẻ, nó tỉ tê khóc đầy chua xót. Những người khác trong nhóm nhìn người mẹ với vẻ cảm thông hoặc bực mình, nhưng chẳng có gì họ có thể làm để trợ giúp, tất cả đều chán nản bước qua khung cảnh đang nhòa dần trong lúc tiếng khóc yếu ớt của đứa trẻ cứ thế dai dẳng.
Hiệp sĩ Tialys trao đổi với Salmakia trước khi lướt bay đi về phía trước, để cho Will và Lyra dõi theo con chuồn chuồn với ánh mắt thèm khát sự tươi sáng và mãnh liệt của nó khi bóng hình nó trở nên nhỏ, nhỏ dần. Công nương bay xuống rồi đáp con côn trùng của mình lên tay Will.
“Hiệp sĩ đã đi xem có gì ở phía trước,” bà thông báo. “Chúng tôi cho rằng quang cảnh bị mờ đi là bởi những người này đang quên lãng nó. Họ càng đi xa khỏi nhà của mình thì mọi vật càng trở nên tối tăm.”
“Nhưng bà nghĩ tại sao họ lại phải di chuyển?” Lyra hỏi. “Nếu tôi là ma, tôi sẽ muốn ở lại những nơi mà mình biết, chứ không đi lang thang để rồi bị lạc đâu.”
“Ở đó họ cảm thấy không vui,” Will đoán. “Đó là nơi họ vừa mới chết. Họ sợ nó.”
“Không, họ đang bị kéo đi bởi một thứ gì đó,” công nương nói. “Một thứ bản năng nào đó đang kéo họ xuống đường.”
Quả vậy, những hồn ma lúc này đang di chuyển có chủ đích hơn khi ngôi làng của họ đã khuất khỏi tầm mắt. Trời tối sầm như thể một cơn cuồng phong đang chực ập tới, chỉ khác là không có sự phóng điện giống như trước một cơn bão. Những hồn ma bước đi đều đều, con đường chạy thẳng về phía trước qua một quang cảnh gần như vô vị.
Cứ thỉnh thoảng một trong số họ sẽ lại quay sang nhìn Will hay Lyra, hoặc nhìn con chuồn chuồn lộng lẫy và người cưỡi nó, như thể họ kì quặc lắm. Cuối cùng người đàn ông lớn tuổi nhất lên tiếng:
“Các cháu, cậu bé và cô bé. Các cháu chưa chết. Các cháu không phải là ma. Các cháu đi theo đến đây làm gì vậy?”
“Chúng cháu đến đây do tình cờ thôi,” Lyra nói với ông trước khi Will kịp cất tiếng. “Cháu không biết chuyện đó xảy ra thế nào. Chúng cháu đang cố gắng chạy trốn khỏi những kẻ kia thì đùng một cái đã đang ở đây rồi.”
“Làm sao các ông biết được khi nào mình tới được nơi cần phải tới?” Will hỏi.
“Ta đoán là chúng ta sẽ được thông báo,” hồn ma đáp đầy tự tin. “Người ta sẽ tách biệt những kẻ tội đồ và những người chính trực ra, ta dám đảm bảo như vậy. Giờ thì cầu nguyện chẳng có ích gì nữa. Đã quá muộn để làm vậy rồi. Việc đó đáng ra phải làm khi còn sống. Giờ thì vô ích thôi.”
Khá dễ để thấy ông ta kì vọng được vào nhóm nào, và cũng khá rõ ràng rằng ông ta nghĩ nhóm đó sẽ không đông. Những hồn ma khác lắng nghe vẻ bồn chồn, nhưng ông ta là sự dẫn lối duy nhất mà họ có, vậy nên họ cứ đi theo mà không tranh cãi gì.
Cứ như vậy họ bước tiếp, lê chân trong câm lặng dưới một bầu trời cuối cùng cũng sẫm lại thành màu xám sắt mờ xỉn và cứ giữ nguyên như thế mà không tối thêm. Những kẻ còn sống thấy mình nhìn trái nhìn phải, hết trên lại dưới, tìm kiếm bất cứ thứ gì tươi sáng, sinh động và vui vẻ, nhưng họ luôn phải thất vọng cho đến khi một tia sáng nhỏ xíu xuất hiện từ phía trước rồi lao đi trong không khí về phía họ. Đó là vị hiệp sĩ, Salmakia liền thúc con chuồn chuồn của mình lao tới để gặp ông, kèm theo một tiếng kêu đầy vui mừng.
Họ hội ý rồi bay trở lại với lũ trẻ.
“Phía trước có một thị trấn,” Tialys nói. “Trông giống như một trại tị nạn, nhưng rõ ràng là nó đã ở đó ít nhất là vài thế kỉ rồi. Tôi nghĩ bên kia thị trấn có biển hay hồ gì đó, nhưng nó đang bị sương mù che kín. Tôi có thể nghe thấy tiếng chim kêu. Cứ mỗi phút lại có hàng trăm người đến đó, từ đủ mọi hướng, những con người như thế này - những hồn ma…”
Chính những hồn ma cũng lắng nghe ông nói, nhưng không tỏ ra hứng thú lắm. Dường như họ đã yên vị trong một cơn hôn mê đờ đẫn, khiến Lyra muốn lay họ, thúc giục họ đấu tranh để tỉnh dậy mà tìm lấy một con đường thoát.
“Chúng ta làm thế nào để giúp những người này bây giờ, hả Will?” Cô bé hỏi.
Cậu chẳng thể đoán nổi. Trong lúc tiến lên, họ có thể thấy những chuyển động trên đường chân trời về phía trái và phải, còn phía trước mặt, một màn khói mờ xỉn đang chậm rãi dâng lên, càng tăng thêm sự tối tăm cho bầu không khí thê lương. Chuyển động đó là của con người, hoặc là hồn ma: thành hàng, theo đôi hoặc nhóm, hoặc đơn độc, nhưng tất cả đều đi tay không, hàng trăm hàng ngàn người đàn ông, phụ nữ và trẻ em đang dạt lên vùng đồng bằng về nơi màn khói bốc lên.
Mặt đất lúc này đang dốc xuống, càng ngày càng giống một đống rác thải. Không khí nặng nề đầy ngập khói, và có mùi khác ngoài những mùi hóa chất cay xè, rau củ thối rữa, nước thải. Càng xuống sâu nó càng trở nên tồi tệ. Trong suốt tầm mắt không hề có lấy một mảng đất sạch nào, và thứ thực vật duy nhất mọc lên ở bất cứ đâu là đám cỏ dại xum xuê và lũ cỏ thô màu xám xịt.
Phía trước mặt họ, trên mặt nước, là sương mù. Sương dựng lên như một vách núi và hòa lẫn vào nền trời u ám, từ đâu đó phía trong vọng lại những tiếng chim kêu mà Tialys đã nhắc tới.
Nằm giữa những đống rác rưởi và màn sương là thị trấn đầu tiên của người chết.