← Quay lại trang sách

- 21 - Nhân điểu

Tôi ghét những thứ hoàn toàn là hư cấu… Một nền tảng

dựa trên sự thật luôn luôn là cần thiết.

Byron

Cả Lyra và Will đều tỉnh giấc với một nỗi kinh hoàng đè nặng: Cảm giác giống như một tên tù bị buộc tội vào buổi sáng ngày hành quyết vậy. Tialys và Salmakia đang chăm sóc hai con chuồn chuồn của mình, mang đến cho chúng nào là bướm đêm bị buộc dây gần bóng đèn mạch trên thùng dầu phía bên ngoài, ruồi cắt ra từ mạng nhện, rồi đến nước trong một cái đĩa thiếc. Khi thấy biểu hiện trên gương mặt của Lyra và cái cách mà Pantalaimon trong dạng chuột ép sát vào ngực áo cô, Công nương Salmakia bỏ dở công việc mình đang làm để tới nói chuyện với cô bé. Trong lúc đó, Will rời khỏi căn lều để đi lang thang ngoài trời.

“Cô vẫn còn có thể quyết định khác đi mà,” Salmakia nói.

“Không, chúng tôi không thể. Chúng tôi đã quyết rồi,” Lyra nói, cùng lúc vừa bướng bỉnh vừa sợ hãi.

“Nếu chúng ta không trở về được thì sao?”

“Các vị không cần phải đi mà,” Lyra nhấn mạnh.

“Chúng tôi sẽ không bỏ rơi hai người đâu.”

“Vậy nếu các vị không trở về được thì sao?”

“Vậy thì chúng tôi đã hi sinh vì một điều gì đó quan trọng.”

Lyra không nói gì. Cô bé chưa từng thực sự để ý đến vị công nương; nhưng giờ thì cô có thể thấy bà rất rõ trong ánh sáng ám khói của cây đèn dầu đặt trên chiếc bàn cách đó chỉ một sải tay. Gương mặt bà điềm đạm và hiền hòa, không xinh đẹp, nhưng lại chính là gương mặt mà ta sẽ mừng rỡ khi được thấy nếu đang bị ốm hay bất hạnh hoặc sợ hãi. Giọng bà trầm ấm và đầy biểu cảm, với dòng chảy cười vui và hạnh phúc bên dưới bề mặt trong trẻo. Trong suốt cả cuộc đời mà cô có thể nhớ được, Lyra chưa từng được đọc truyện cho trước khi đi ngủ; chưa từng có ai kể chuyện cho cô hay hát cho cô nghe những khúc hát ru trước khi hôn cô rồi tắt đèn đi. Nhưng lúc này, cô đột nhiên nghĩ rằng, nếu có một giọng nói nào có thể bao bọc ta trong an yên và sưởi ấm ta bằng tình yêu, đó sẽ là một giọng nói giống như của Công nương Salmakia, và cô thấy tim mình thầm ước có được một đứa trẻ của riêng mình, để rồi một ngày nào đó được ru, được dỗ dành, được hát cho nó nghe bằng một chất giọng như thế.

“Vâng,” Lyra nói, thấy cổ mình như nghẹn lại, nên cô nuốt nước miếng rồi nhún vai.

“Rồi ta sẽ biết,” công nương nói rồi quay lại với công việc.

Sau khi đã ăn xong lát bánh mì khô mỏng dính và uống thứ trà đắng ngắt vốn là tất cả những gì người ta có để cung cấp, họ cảm ơn các vị chủ nhà, lấy hành lí rồi lên đường băng qua thị trấn tồi tàn để đến bờ hồ. Lyra nhìn quanh tìm tử thần của mình, và quả thật, ông ta đang ở đó, lịch sự bước đi trước đó không xa; ông ta không muốn lại gần, nhưng vẫn luôn quay lại nhìn để xem họ có đi theo hay không.

Ngày hôm đó bị bao phủ bởi một màn sương u ám. Trông nó giống lúc sẩm tối hơn là ban ngày, những bóng ma và cột sáng của sương mù dâng lên đầy u sầu từ những vũng nước nhỏ trên đường đi, hay bám riết lấy những sợi cáp mạch lơ lửng trên đầu như những kẻ si tình tuyệt vọng. Họ không thấy một bóng người nào, có vài tử thần, nhưng những con chuồn chuồn bay lướt qua bầu không khí ẩm ướt như thể đang khâu mọi thứ lại với nhau bằng những sợi chỉ vô hình, và ngắm nhìn những sắc màu tươi sáng của chúng vụt qua vụt lại cũng trở thành một niềm vui thích.

Không lâu sau họ đã tới rìa của khu định cư, rồi men theo một dòng suối chảy lờ đờ qua những bụi cây cằn cỗi trơ ra toàn cành non. Thỉnh thoảng họ sẽ nghe thấy một tiếng ồm ộp gay gắt, hay một tiếng té nước khi loài lưỡng cư nào đó bị làm phiền, nhưng sinh vật duy nhất mà họ thấy được là một con cóc to bằng bàn chân Will, con vật chỉ có thể lạch bạch nhảy theo từng đợt nghiêng ngả đầy đau đớn, như thể đang bị thương chí mạng. Nó nằm giữa lối đi, cố gắng tránh đường trong lúc nhìn họ như thể họ muốn làm hại nó vậy.

“Sẽ nhân từ hơn nếu hóa kiếp cho nó,” Tialys nói.

“Làm sao ông biết được?” Lyra hỏi. “Có khi nó vẫn muốn sống bất chấp mọi thứ.”

“Nếu giết nó, chúng ta sẽ phải đưa nó đi cùng mình,” Will nói. “Nó muốn ở lại đây. Tôi đã giết quá đủ những sinh vật sống rồi. Đến cả một cái ao tù đọng có khi cũng còn tốt hơn là bị chết.”

“Nhưng nếu nó đang phải chịu đau đớn thì sao?” Tialys nói.

“Nếu nó có thể nói thì chúng ta sẽ biết. Nhưng bởi vì nó không thể nên tôi sẽ không giết nó đâu. Như thế sẽ là suy nghĩ cho cảm xúc của chúng ta hơn là cảm xúc của con cóc.”

Họ tiếp tục lên đường. Không lâu sau, âm thanh biến đổi từ những bước chân cho họ biết rằng gần đó có một khoảng trống, dẫu cho sương mù ngày một dày thêm. Pantalaimon đã biến thành một con vượn cáo, với đôi mắt lớn nhất mà nó có thể biến ra, bấu lấy vai của Lyra, ép mình vào mái tóc lấm tấm sương của cô, nhòm ngó khắp xung quanh nhưng chẳng thấy gì nhiều hơn cô bé cả. Và nó vẫn không ngừng run rẩy.

Đột nhiên cả nhóm đều nghe thấy một tiếng sóng xô, rất khẽ, nhưng lại rất gần. Hai con chuồn chuồn cùng với người cưỡi quay lại với đám trẻ, Pantalaimon luồn vào ngực áo Lyra trong lúc cô bé và Will đứng sát lại với nhau, thận trọng bước đi theo con đường lầy lội.

Và rồi họ đã đến bờ hồ. Thứ nước nổi đầy váng dầu nằm lặng im trước mặt họ, một gợn sóng hiếm hoi uể oải xô lên lớp đá cuội.

Con đường ngoặt sang bên trái. Sau đó một đoạn, giống sương mù cô đặc hơn là một vật thể rắn chắc, có một cầu tàu bằng gỗ xiêu vẹo đứng trên làn nước. Các cột chống đã mục ruỗng còn ván lắp thì xanh lét đầy nhớt nhầy, ngoài ra chẳng có gì cả; chẳng có gì phía sau nó; con đường kết thúc nơi cầu tàu bắt đầu, và khi cầu tàu kết thúc thì đến sự khởi đầu của màn sương. Sau khi đã dẫn họ tới đó, tử thần của Lyra cúi chào cô bé rồi bước vào màn sương và biến mất trước khi cô kịp hỏi hắn phải làm gì tiếp theo.

“Nghe kìa,” Will nói.

Một âm thanh trầm trầm vọng lại từ phía mặt nước vô hình: Tiếng gỗ kêu cọt kẹt và tiếng nước bắn khe khẽ, đều đặn. Will đặt tay lên con dao ở thắt lưng rồi thận trọng tiến về phía trước, lên những tấm ván mục nát. Lyra theo sát phía sau. Hai con chuồn chuồn đậu lên hai cột neo thuyền bị cỏ dại che phủ, trông như các hộ vệ trên một tấm phù hiệu, còn hai đứa trẻ đứng cuối cầu tàu, mắt mở to, dí sát vào màn sương, phải gạt đi những hạt nước đọng trên lông mi. Âm thanh duy nhất là tiếng cọt kẹt chầm chậm và tiếng sóng đánh đang ngày một tiến lại gần hơn.

“Đừng đi mà!” Pantalaimon thì thào.

“Phải đi chứ,” Lyra thì thầm đáp lại.

Cô quay sang nhìn Will. Nét mặt cậu đầy cứng rắn, quyết liệt và thiết tha: Cậu sẽ không đổi ý đâu. Còn về những người Gallivespia, Tialys trên vai Will, Salmakia trên vai Lyra, họ rất điềm tĩnh và cảnh giác. Cánh của hai con chuồn chuồn lấm tấm những hạt sương, giống như mạng nhện, cứ thỉnh thoảng chúng lại đập cánh thật nhanh để giũ sương, vì những hạt nước hẳn đang đè nặng lên người chúng, Lyra nghĩ. Cô hi vọng ở vùng đất của người chết sẽ có thức ăn cho chúng.

Rồi đột nhiên xuất hiện một con thuyền.

Đó là một con thuyền chèo cổ lỗ sĩ, nát bươm, chắp vá, mục ruỗng; hình dáng đang lái nó còn già cỗi hơn cả thời gian, lùng thùng trong chiếc áo choàng làm từ bao tải được buộc lại bằng dây, tàn tật và gù cong, đôi tay xương xẩu ôm chắc lấy tay cầm mái chèo, còn đôi mắt ươn ướt nhạt màu nằm sâu hoắm giữa những nếp gấp nhăn nheo của lớp da xám ngoét.

Hắn thả một mái chèo ra rồi vươn bàn tay co quắp của mình lên vòng tròn sắt tại cột neo ở góc cầu tàu. Với bàn tay còn lại, hắn quạt mái chèo để đưa con thuyền lên thẳng lớp ván ghép.

Chẳng cần phải nói gì. Will đi vào trước, rồi đến Lyra cũng tiến tới để bước xuống.

Nhưng người lái thuyền lại giơ tay lên.

“Nó thì không,” hắn nói bằng một giọng thì thào gay gắt.

“Nó nào?”

“Nó.”

Hắn vươn một ngón tay xám vàng, chỉ thẳng vào Pantalaimon, từ dạng chồn ermine màu nâu đỏ, nó lập tức chuyển sang màu trắng.

“Nhưng cậu ấy là tôi mà!” Lyra nói.

“Nếu cô đi thì nó phải ở lại.”

“Nhưng chúng tôi không thể! Chúng tôi sẽ chết mất.”

“Chẳng phải đó là điều cô muốn sao?”

Đó là lần đầu tiên Lyra thực sự nhận ra việc mình đang làm. Đây là hậu quả thật sự. Cô bé đứng đó kinh hãi, run rẩy, ghì chặt lấy con linh thú thân thương đến mức khiến nó phải rên lên vì đau đớn.

“Họ..” Lyra tuyệt vọng nói, rồi ngừng lại: Thật không công bằng khi chỉ ra rằng ba người còn lại không phải từ bỏ thứ gì cả.

Will đang lo lắng nhìn cô. Cô nhìn khắp xung quanh, về phía hồ, phía cầu tàu, phía con đường gập ghềnh, phía những vũng nước tù đọng, những bụi cây ngập nước đã chết từ lâu… Pan của cô, ở đây một mình: Làm sao nó có thể sống nổi mà không có cô cơ chứ? Nó đang run rẩy trong ngực áo, trên lớp da trần của cô, bộ lông tìm kiếm hơi ấm của cô. Không thể được! Không bao giờ!

“Nó phải ở đây nếu cô muốn đi,” người lái thuyền nhắc lại.

Phu nhân Salmakia quất cương, con chuồn chuồn của bà lập tức rời khỏi vai Lyra để đậu lên mép thuyền, Tialys cũng bay xuống bên cạnh bà. Họ nói gì đó với người lái thuyền. Lyra quan sát như một kẻ tù tội quan sát sự huyên náo ở phía cuối phòng xử án mà có thể là một người đưa tin mang theo lệnh ân xá.

Người lái thuyền cúi xuống để lắng nghe, rồi lắc đầu.

“Không,” hắn nói. “Nếu đứa bé đi thì con vật phải ở lại.”

Will nói: “Như thế không được. Chúng tôi đâu có phải bỏ lại một phần của bản thân mình phía sau. Tại sao Lyra thì phải thế?”

“Ồ, vậy mà có đấy,” người lái thuyền nói. “Đứa trẻ không may vì có thể thấy và nói chuyện được với phần mà nó phải bỏ lại. Các vị sẽ không nhận ra cho tới khi rời bến, mà lúc đấy thì đã quá muộn rồi. Nhưng tất cả đều sẽ phải bỏ lại phần đó của bản thân ở đây. Không có lối đi nào đến vùng đất của người chết cho những kiểu như nó cả.”

Không, Lyra nghĩ, và Pantalaimon nghĩ cùng với cô: Chúng ta không vượt qua Bolvangar để nhận lấy điều này, không; làm sao chúng ta có thể tìm lại được nhau đây?

Khi cô quay lại nhìn bờ nước bẩn thỉu và đáng ghê sợ, hoang vắng và bị nguyền rủa bởi bệnh tật và độc chất, rồi nghĩ đến việc Pan yêu quý của cô phải đợi ở đó một mình, người bạn đồng hành của trái tim cô, nhìn cô biến mất vào màn sương, những điều ấy khiến cô khóc nức nở không ngừng. Những tiếng thổn thức mãnh liệt của cô không vang vọng nổi vì bị sương mù bóp nghẹt, nhưng suốt dọc bờ hồ, trong vô vàn những ao và vũng nước cạn, trong những gốc cây tan tác thảm hại, những sinh vật bị tổn thương ẩn náu ở đó khi nghe thấy tiếng khóc thảm thiết của cô bèn thu người sát thêm xuống đất một chút, kinh sợ trước nguồn cảm xúc mạnh mẽ đó.

“Nếu cậu ấy có thể đi…” Will hét lên, tha thiết muốn chấm dứt nỗi đau buồn của cô, nhưng người lái thuyền lắc đầu.

“Nó có thể vào trong thuyền, nhưng nếu làm thế thì con thuyền sẽ ở lại đây,” hắn nói.

“Nhưng làm sao hai bọn họ tìm lại nhau được?”

“Ta không biết.”

“Khi rời khỏi, liệu chúng tôi có quay lại hướng này không?”

“Rời khỏi?”

“Chúng tôi sẽ quay lại. Chúng tôi sẽ đến vùng đất của người chết và chúng tôi sẽ trở về.”

“Không phải đường này.”

“Vậy thì một đường nào đó khác, nhưng chúng tôi sẽ về!”

“Ta đã chở hàng triệu người rồi, nhưng không có ai quay lại cả.”

“Vậy thì chúng tôi sẽ là những người đầu tiên, chúng tôi sẽ tìm cách ra khỏi đó. Và bởi vì chúng tôi sẽ làm thế, nên hãy làm ơn đi, người lái thuyền, hãy rủ lòng thương, cho cô ấy đem theo linh thú của mình đi!”

“Không,” hắn nói rồi lắc cái đầu già cỗi của mình. “Đó không phải luật mà cậu có thể phá được. Luật đó cũng giống như thế này…” Hắn ngả người sang bên rồi múc lấy một tay đầy nước, sau đó nghiêng bàn tay để nó chảy ra. “Luật khiến cho nước chảy trở lại vào hồ, đó là một quy luật như thế. Ta không thể nào nghiêng bàn tay và khiến nước bay lên trên. Ta không thể đưa linh thú của cô bé đi xa hơn vào vùng đất của người chết. Dù cô bé có đi hay không thì nó cũng phải ở lại.”

Lyra không nhìn thấy gì: Khuôn mặt cô đang vùi vào bộ lông mèo của Pantalaimon. Nhưng Will thấy Tialys đã xuống khỏi con chuồn chuồn và chuẩn bị lao vào chích người lái thuyền, cậu cũng có phần đồng ý với ý định của viên mật thám: Nhưng lão già đã nhìn thấy ông ta, và quay cái đầu nhăn nheo lại nói:

“Ông nghĩ ta đã chở người sang vùng đất chết bao nhiêu thế kỉ rồi? Ông có nghĩ nếu thứ gì đó có thể làm hại được ta thì nó hẳn đã xảy ra rồi không? Ông có cho là những người ta đưa đi cũng vui vẻ đi với ta không? Họ vật vã khóc lóc, họ thử hối lộ ta, họ đe dọa và gây sự với ta; nhưng chẳng có gì hiệu quả cả. Các người không thể làm đau ta dù có chích đến cả đời đi nữa. Tốt hơn là nên an ủi đứa bé đi; nó sẽ đi; đừng bận tâm đến ta.”

Will không thể tiếp tục theo dõi. Lyra đang làm điều tàn nhẫn nhất từ trước đến giờ, ghét bỏ bản thân, ghét bỏ việc mình làm, chịu đau đớn vì Pan, với Pan và bởi Pan; cố gắng đặt con linh thú xuống con đường lạnh lẽo, gỡ những cái vuốt mèo của nó ra khỏi quần áo, rồi khóc và khóc mãi. Will bịt tai lại: Âm thanh đó bất hạnh quá sức chịu đựng. Cô bé liên tục đẩy con linh thú đi, nhưng nó vẫn gào khóc và cố gắng bám lại.

Cô có thể quay lại.

Cô có thể nói không, đây là một ý tưởng tồi tệ, chúng ta không nên làm thế.

Cô có thể thành thật với mối ràng buộc sâu thẳm trong lòng, xuyên suốt cả cuộc đời, gắn kết cô và Pantalaimon, cô có thể đặt nó lên trước nhất, có thể đẩy tất cả những thứ còn lại ra khỏi đầu…

Nhưng cô không thể.

“Pan, trước đây chưa từng có ai thực hiện điều này,” cô bé run rẩy thì thầm, “nhưng Will nói chúng tớ sẽ quay trở lại và tớ thề, Pan ạ, tớ yêu cậu, tớ thề chúng tớ sẽ quay lại - tớ sẽ - bảo trọng nhé, bạn yêu quý - cậu sẽ an toàn thôi - chúng tớ sẽ quay lại, và nếu có phải dành từng giây từng phút cuộc đời mình để tìm lại cậu, tớ cũng sẽ làm, tớ sẽ không dừng lại, sẽ không ngơi nghỉ, tớ sẽ không - ôi Pan - Pan yêu dấu - tớ phải, tớ phải…”

Rồi cô đẩy con linh thú đi, khiến nó nép mình đầy cay đắng, lạnh lẽo và hoảng sợ trên mặt đất lấm bùn.

Lúc này nó đang có dạng động vật gì thì Will khó có thể đoán được. Nó có vẻ như còn quá nhỏ, một con thú con, một con cún, một thứ bất lực và kiệt quệ, một sinh vật chìm sâu trong khổ đau đến mức nó là chính sự khổ đau nhiều hơn là một sinh vật. Đôi mắt nó không hề rời khỏi gương mặt của Lyra. Will có thể thấy cô bé ép mình không được nhìn đi chỗ khác, không được né tránh cảm giác tội lỗi, cậu vừa nể phục sự trung thực và dũng cảm của cô, vừa đau đớn trước cú sốc của việc chúng phải chia lìa. Có quá nhiều luồng cảm xúc mạnh mẽ tuôn chảy giữa chúng, khiến Will thấy như chính không khí cũng đang tích điện.

Pantalaimon đã không hỏi “Tại sao?” bởi vì nó hiểu; nó cũng không hỏi liệu có phải Lyra yêu mến Roger hơn nó, vì nó biết câu trả lời thực sự. Nó cũng hiểu rằng nếu nó lên tiếng, cô bé sẽ không thể cưỡng lại được; vậy là con linh thú buộc mình phải giữ im lặng để không làm con người đang bỏ rơi nó phải khổ sở, và giờ thì cả hai đang giả vờ như điều này không đau đớn, sẽ không lâu trước khi chúng lại có thể ở bên nhau, đây là cách tốt nhất. Nhưng Will biết rằng cô gái nhỏ đang giằng xé trái tim ra khỏi lồng ngực mình.

Rồi cô bước xuống thuyền. Cô bé nhẹ đến mức gần như không làm thuyền lung lay. Cô ngồi xuống cạnh Will, đôi mắt không hề rời khỏi Pantalaimon, sinh vật đang đứng run rẩy trên bờ phía cuối cầu tàu; nhưng khi người lái thuyền thả tay khỏi vòng tròn sắt rồi quạt chèo ra phía ngoài để kéo thuyền đi, con linh thú chó nhỏ xíu bất lực lao ra tới tận cuối cầu, móng khẽ gõ lạch cạch trên lớp ván mềm, rồi đứng nhìn, chỉ nhìn thôi, trong lúc con thuyền rời xa còn cầu tàu thì mờ dần rồi biến mất trong màn sương.

Rồi Lyra thốt lên một tiếng khóc dữ dội tới mức ngay cả trong cái thế giới ngột ngạt đầy sương giăng đó cũng dâng lên một tiếng vọng, nhưng đương nhiên đó chẳng phải là tiếng vọng, đó là phần còn lại trong cô đang kêu khóc từ miền đất của người sống khi Lyra rời xa vào vùng đất của kẻ đã chết.

“Tim tớ, Will…” Cô rên rỉ rồi bám chặt vào cậu, gương mặt ướt đẫm méo mó vì đau đớn.

Như vậy là lời tiên tri mà Hiệu trưởng Học viện Jordan đã nói với viên Thủ thư, rằng Lyra sẽ thực hiện một sự phản bội khủng khiếp và điều đó sẽ khiến cô đau đớn khôn cùng, đã linh ứng.

Nhưng bản thân Will cũng cảm thấy một cơn quặn thắt đang dâng lên trong người mình. Trong cơn đau, cậu thấy hai người Gallivespia, đang ghì chặt lấy nhau hệt như cậu và Lyra đang làm, cũng bị cùng một nỗi thống khổ làm cho lay động.

Một phần trong đó là về thể xác. Cảm giác như thể một bàn tay sắt đã tóm chặt lấy trái tim cậu rồi kéo nó ra ngoài qua các giẻ xương sườn, cậu bèn đè hai tay lên vị trí đó và cố gắng trong vô ích để giữ nó lại. Nó sâu hoắm và tồi tệ hơn nhiều so với cơn đau khi bị mất những ngón tay của cậu. Nhưng nó còn liên quan đến tinh thần nữa: Vài thứ bí mật và riêng tư đang bị kéo ra ngoài, nơi chúng không hề muốn đến, và Will đã gần như bị khuất phục bởi một mớ hỗn độn của nỗi đau, tủi hổ, sợ hãi và tự trách cứ bản thân, vì chính cậu đã gây ra điều này.

Nhưng còn tồi tệ hơn thế. Cứ như thể cậu đã nói: “Không, đừng giết tôi, tôi sợ lắm; hãy giết mẹ tôi ấy; bà ấy chẳng quan trọng, tôi không yêu bà ấy,” như thể bà đã nghe thấy cậu nói vậy và vờ như không biết để không làm tổn thương đến cảm xúc của cậu, và tự thế mình vào chỗ cậu bởi tình yêu của bà dành cho cậu. Cậu cảm thấy tội lỗi như vậy. Chẳng có cảm xúc nào tồi tệ hơn thế.

Vậy là Will hiểu ra rằng toàn bộ những thứ đó là một phần của việc có linh thú, và rằng dù cho linh thú của cậu có là gì thì nó cũng đã bị bỏ lại phía sau, cùng với Pantalaimon, trên cái bến bờ độc hại và tan hoang đó. Ý nghĩ đó đến với Will và Lyra vào cùng một lúc, khiến chúng liếc nhìn nhau bằng đôi mắt đầy ậc nước. Lần thứ hai trong cuộc đời của chúng, nhưng không phải lần cuối, mỗi đứa lại thấy biểu cảm của chính mình trên gương mặt của người còn lại.

Chỉ riêng người lái thuyền và hai con chuồn chuồn là có vẻ dửng dưng với cuộc hành trình mà họ đang thực hiện. Hai con côn trùng khổng lồ vẫn hoàn toàn sống động và rực rỡ sắc đẹp kể cả trong sương mù dày đặc, vẫy đôi cánh mỏng để hất những hạt nước đọng đi; còn ông già trong bộ áo choàng vải lanh cứ ngả tới trước rồi lại về sau, tới trước rồi về sau, chống đôi chân trần lên sàn thuyền lõng bõng chất nhầy.

Cuộc hành trình kéo dài hơn thời gian mà Lyra muốn đo đếm. Dù cho một phần trong cô đang nhức nhối vì đau khổ, tưởng tượng ra cảnh Pantalaimon bị bỏ rơi trên bờ hồ, phần khác lại đang điều chỉnh để chịu đựng cơn đau, tính toán sức lực của bản thân, tò mò muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra và họ sẽ cập bến vào đâu.

Cánh tay vững chắc của Will đang ôm lấy cô, nhưng cậu cũng đang nhìn về phía trước, cố gắng nhòm qua màn xám u ám ướt rượt và nghe ngóng bất cứ tiếng động nào ngoài tiếng ì oạp nặng nề của những cái mái chèo. Ngay lập tức, có thứ gì đó đã thay đổi: Một vách núi hoặc một hòn đảo đang nằm trước mặt họ. Họ nghe thấy những âm thanh bủa vây trước khi nhìn thấy sương mù trở nên tối sầm lại.

Người lái thuyền quạt một bên mái chèo để xoay thuyền sang trái đôi chút.

“Chúng tôi đang ở đâu đây?” Giọng của Hiệp sĩ Tialys vang lên, nhỏ nhưng vẫn khỏe khoắn như mọi khi, dù cho nó có vẻ gì đó gay gắt như thể ông cũng đang phải chịu đau đớn vậy.

“Gần hòn đảo,” người lái thuyền đáp. “Còn năm phút nữa, chúng ta sẽ đến bục cập bến.”

“Đảo gì vậy?” Will hỏi. Cậu thấy rằng giọng mình cũng đang gượng ép, nghe căng thẳng tới mức chẳng giống giọng cậu chút nào.

“Cánh cổng vào vùng đất của người chết nằm trên hòn đảo này,” người lái thuyền nói. “Tất cả mọi người đều đến đây, vua, hoàng hậu, kẻ sát nhân, nhà thơ, trẻ con; mọi người đều đi theo lối này, và không có ai trở lại cả.”

“Chúng tôi sẽ trở lại,” Lyra gằn giọng thì thào.

Hắn không nói không rằng, nhưng đôi mắt già nua tràn ngập sự thương hại.

Khi tiến lại gần hơn, họ có thể thấy những cành cây bách và thủy tùng rủ là là trên mặt nước, xanh thẫm, rậm rạp và u uất. Mặt đất dốc lên khá gấp, cây cối mọc dày đến mức một con chồn sương cũng khó lòng luồn nổi qua giữa chúng. Khi nghĩ như vậy, Lyra kêu lên một tiếng nửa nấc nửa thổn thức, vì Pan hẳn sẽ cho cô thấy nó có thể làm tốt đến thế nào; nhưng không phải bây giờ, có khi là chẳng bao giờ nữa.

“Giờ chúng tôi đã chết rồi à?” Will hỏi người lái thuyền.

“Chẳng có gì khác cả,” hắn đáp. “Có những kẻ tới đây mà chẳng chịu tin mình đã chết. Chúng cứ một mực khăng khăng rằng chúng vẫn còn sống, đây là một sự nhầm lẫn, một kẻ nào đó sẽ phải trả giá; chẳng khác gì. Những kẻ khác thì lại thèm khát được chết khi vẫn còn sống, những linh hồn tội nghiệp; sống cuộc đời đầy rẫy đau đớn và buồn khổ; tự sát cho một cơ hội được nghỉ ngơi trong hạnh phúc, và nhận ra rằng chẳng có gì thay đổi, chỉ có tồi tệ hơn, và lần này thì không có đường thoát nữa rồi; các vị sẽ chẳng thể làm mình sống lại được nữa. Ngoài ra còn có những kẻ yếu ớt và bệnh tật, đôi khi là những đứa trẻ sơ sinh, khi vừa mới được sinh ra vào thế giới của người sống thì đã bị đẩy xuống với người chết rồi. Ta chèo con thuyền này cùng với một đứa bé sơ sinh gào khóc trong lòng mình đã nhiều, nhiều lần lắm, những kẻ không bao giờ biết được sự khác biệt giữa trên đó và dưới này. Và cả người già nữa, lũ giàu có là những kẻ tồi tệ nhất, chúng càu nhàu, cáu kỉnh, nguyền rủa ta, chửi bới, gào thét với ta: Ta nghĩ mình là ai? Chúng đã kịp tập hợp và cất giữ toàn bộ số vàng có thể lưu kho chưa? Liệu ta có chịu nhận lấy một ít rồi chở chúng lại vào bờ không? Chúng sẽ kiện ta, chúng có những người bạn quyền lực, chúng quen biết Giáo hoàng, Vua chỗ này rồi Công tước chỗ kia, chúng ở vị thế của kẻ sẽ đánh đập, trừng phạt ta… Nhưng chúng biết rốt cuộc thì sự thật là gì: Vị thế duy nhất mà chúng có được là trên con thuyền của ta hướng về vùng đất của người chết. Còn về đám vua với giáo hoàng kia, rồi cũng sẽ đến lượt chúng ở đây thôi, sớm hơn là chúng muốn. Ta cứ để chúng gào thét, giận dữ; chúng chẳng thể làm hại ta; rốt cuộc chúng cũng phải câm miệng.

“Vậy nên nếu các người không biết liệu mình đã chết hay chưa, còn cô gái nhỏ thì thề thốt một cách mù quáng rằng mình sẽ thoát ra để trở lại thế giới của người sống, thì ta sẽ không nói gì để phủ định. Bản thân là gì thì các người sẽ sớm tìm ra thôi.”

Suốt thời gian đó, hắn vẫn đều đặn chèo dọc theo bờ hồ. Giờ thì hắn lắp mái chèo lên thành, đẩy hai tay cầm vào trong thuyền rồi vươn người sang bên phải để với lấy cái cọc gỗ đầu tiên mọc chòi lên mặt hồ.

Hắn kéo con thuyền đi dọc theo bến tàu hẹp rồi giữ nó đứng yên cho họ. Lyra không muốn rời khỏi đó: Chừng nào cô vẫn còn ở gần con thuyền, Pantalaimon vẫn sẽ có thể nghĩ về cô một cách rõ ràng, bởi vì lần cuối Pan đã thấy cô như thế, nhưng một khi cô đã rời xa khỏi nó, con linh thú sẽ không biết phải hình dung ra cô thế nào. Vậy là cô bé lưỡng lự, nhưng hai con chuồn chuồn đã bay lên, Will cũng đã bước ra, mặt tái mét, tay ôm lấy ngực; nên cô cũng phải làm theo.

“Cảm ơn ông,” cô bé nói với người lái thuyền. “Khi quay về, nếu ông thấy linh thú của tôi, hãy nói với cậu ấy rằng tôi yêu cậu ấy hơn tất thảy mọi thứ tại vùng đất của người sống hay là người chết, và tôi thề sẽ trở lại với cậu ấy, kể cả chưa từng có ai làm việc đó trước đây, tôi thề mình sẽ làm.”

“Được, ta sẽ nói với nó điều đó,” người lái thuyền già nua nói.

Hắn đẩy thuyền đi, những tiếng quạt chèo chầm chậm chìm dần vào màn sương.

Hai người Gallivespia quay trở lại sau khi đã bay trước một đoạn rồi đậu lên vai hai đứa trẻ giống như trước đó, công nương trên vai Lyra, hiệp sĩ trên vai Will. Vậy là họ, những lữ khách, đứng bên rìa vùng đất của người chết, chẳng có gì trước mặt ngoài sương mù, dù họ có thể nhìn thấy từ mảng tối một bức tường khổng lồ dựng lên trước mặt.

Lyra rùng mình. Cô có cảm giác như da mình đã biến thành đăng-ten nên không khí ẩm ướt và rét buốt có thể thổi ra thổi vào tận lồng ngực, lạnh đến tê tái trên vết thương chưa lành nơi Pantalaimon đã từng ở. Vậy nhưng, cô nghĩ, Roger hẳn cũng cảm thấy như vậy khi cậu lao mình xuống sườn núi, cố gắng bấu víu vào những ngón tay tuyệt vọng của cô bé.

Họ đứng yên nghe ngóng. Âm thanh duy nhất là tiếng tong-tong-tong không ngớt của nước nhỏ xuống từ lá cây rồi khi nhìn lên, họ cảm thấy vài giọt nước lạnh toát đập vào má mình.

“Không thể ở đây được,” Lyra nói.

Họ rời khỏi bến tàu, đi sát bên nhau, rồi tiến về phía bức tường. Những khối đá vĩ đại, xanh rì một màu bùn nhớt cổ xưa, đâm sâu vào màn sương hơn họ có thể thấy. Giờ khi đã tới gần hơn, họ có thể nghe thấy tiếng kêu khóc phía sau, dù cho không thể đoán được liệu đó có phải tiếng khóc của con người hay không: Những tiếng rít chói tai đầy tang tóc và tiếng khóc than lững lờ trong không khí như những sợi tua trôi dạt của một con sứa, cứ chạm vào đâu là gây đau đớn ở đó.

“Có một cánh cửa kìa,” Will nói bằng giọng khàn đặc đầy căng thẳng.

Đó là một cánh cửa hậu méo mó bằng gỗ bên dưới một phiến đá mỏng. Trước khi Will có thể nhấc tay lên để mở nó ra, một trong những tiếng khóc cao vút chói tai kia vọng lại từ rất gần, khiến tai họ đau nhức và hoảng loạn.

Ngay lập tức những người Gallivespia lao lên không trung, lũ chuồn chuồn như những con ngựa chiến nhỏ xíu hào hứng muốn xung trận. Nhưng cái thứ đó đã bay xuống gạt chúng sang một bên bằng một cú đập cánh tàn bạo, rồi nặng nề đáp lên gờ tường ngay phía trên đầu hai đứa trẻ. Tialys và Salmakia trấn tĩnh lại rồi vỗ về hai con vật cưỡi đang run rẩy.

Thứ đó là một con chim khổng lồ lớn cỡ kền kền, với khuôn mặt và bộ ngực của một người đàn bà. Will đã từng thấy ảnh chụp những sinh vật giống như vậy, và từ nhân điểu lập tức hiện ra khi cậu nhìn rõ được ả. Gương mặt ả mịn màng, không hề có nếp nhăn, nhưng lại già hơn cả tuổi của các phù thuỷ: Ả đã chứng kiến hàng ngàn năm trôi qua, sự tàn nhẫn và khổ đau của toàn bộ những năm tháng đó đã hình thành nên biểu cảm đầy căm hờn trên nét mặt ả. Nhưng khi các lữ khách nhìn được rõ hơn, ả còn trở nên gớm guốc bội phần. Hai hố mắt của ả vón đầy thứ nhớt cáu bẩn, còn màu đỏ trên môi đóng dày cứng như thể ả đã ói ra thứ máu cổ xưa của mình cả nghìn tỉ lần. Mái tóc đen bù xù, bẩn thỉu của ả rủ xuống hai vai; bộ vuốt nhọn hoắt bấu chặt lên mặt đá; đôi cánh đen hùng mạnh được gấp lại dọc theo lưng, và một mùi hôi thối kinh tởm cứ xộc tới mỗi khi ả cử động.

Cả Will và Lyra đều mệt mỏi và đau nhức khắp người, nhưng vẫn cố đứng thẳng để đối diện với ả.

“Các người vẫn còn sống kìa!” Ả nhân điểu lên tiếng, thứ giọng khàn đặc mỉa mai họ.

Will thấy mình căm ghét và kinh sợ ả hơn bất cứ con người nào mà cậu từng biết tới.

“Bà là ai?” Lyra, cũng ghê tởm ả không kém gì Will, cất tiếng hỏi.

Để trả lời, ả nhân điểu bèn hét lên. Ả mở miệng rồi hướng chùm tiếng ồn thẳng vào mặt chúng, khiến đầu chúng ong lên và suýt nữa ngã ngửa ra phía sau. Will ôm chặt Lyra, cả hai bám lấy nhau khi tiếng hét chuyển thành những tràng cười mỉa mai hoang dại, âm thanh được những giọng nhân điểu khác đáp lại trong sương mù trải dài trên bờ. Thứ âm thanh nhạo báng đầy căm hờn gợi cho Will nhớ lại sự tàn nhẫn vô nhân đạo của đám trẻ trong sân chơi, nhưng ở đây chẳng có giáo viên nào để chỉnh đốn chúng, không có ai để nhờ cậy, chẳng có chỗ nào để trốn.

Cậu đặt tay lên con dao ở thắt lưng rồi nhìn vào mắt cô, dù cho đầu cậu đang ong lên và chỉ cần áp lực từ tiếng hét của ả đã đủ khiến cậu xây xẩm mặt mày.

“Nếu định ngăn chúng tôi,” cậu nói, “bà nên sẵn sàng chiến đấu thay vì chỉ gào thét thôi. Bởi vì chúng tôi sẽ đi qua cánh cửa đó.”

Cái mồm đỏ đến phát khiếp của con nhân điểu lại cử động, nhưng lần này là để chu môi thành một nụ hôn nhạo báng.

Rồi ả nói: “Mẹ của ngươi đang ở một mình. Chúng ta sẽ gửi ác mộng đến cho mụ ta. Chúng ta sẽ gào thét khi mụ ta đang ngủ!”

Will không cử động, vì từ khóe mắt cậu có thể thấy Phu nhân Salmakia đang nhẹ nhàng di chuyển dọc theo cành cây nơi ả nhân điểu đang đậu. Con chuồn chuồn của bà, cánh rung lên, đang được Tialys giữ lại dưới mặt đất, và rồi xảy ra hai việc: Công nương nhảy tới con nhân điểu rồi quay người để cắm sâu cựa vào cái chân cáu bẩn của sinh vật đó, còn Tialys thì cho con chuồn chuồn phóng vụt lên trên. Chỉ trong chưa đầy một giây, Salmakia đã quay đi và nhảy ra khỏi cành cây, rơi thẳng lên lưng con vật cưỡi màu xanh ánh điện của mình rồi lao vào không trung.

Ảnh hưởng lên con nhân điểu xảy ra ngay tức khắc. Thêm một tiếng hét nữa phá vỡ sự im lặng, to hơn trước rất nhiều, ả đập đôi cánh đen cuồng loạn tới mức cả Will và Lyra đều cảm nhận được luồng gió khiến chúng lảo đảo. Nhưng ả vẫn quặp chặt móng vào đá, gương mặt tím tái lại vì giận dữ, mái tóc dựng đứng lên như một cái mào đầy rắn rết.

Will kéo tay Lyra rồi cả hai cố gắng chạy về phía cánh cửa, nhưng con nhân điểu đã đâm bổ vào chúng trong cơn cuồng nộ, và chỉ chịu ngừng lại khi Will xoay người, đẩy Lyra ra sau lưng rồi giơ con dao lên.

Hai người Gallivespia lập tức lao vào con nhân điểu, phóng sát mặt ả rồi lại vụt bay đi, không đánh trúng được cái nào nhưng cũng làm ả mất tập trung, khiến ả đập cánh vụng về rồi chới với ngã xuống mặt đất.

Lyra gọi lớn: “Tialys! Salmakia! Dừng lại, dừng lại!”

Hai mật thám ghì cương chuồn chuồn của mình rồi lượn cao trên đầu bọn trẻ. Những hình dáng đen thẫm khác đang túm tụm lại trong sương mù, những tiếng hét giễu cợt của cả trăm con nhân điểu khác vọng lại từ xa tít trên bờ. Con đầu tiên đang giũ cánh, lắc đầu, duỗi từng bên chân một rồi gập móng lại. Ả không hề bị thương, đó là điều Lyra đã để ý thấy.

Hai người Gallivespia lượn lờ rồi chúi xuống bay về phía Lyra, cô bé đang chìa cả hai tay ra để họ đáp lên. Salmakia nhận ra điều Lyra ám chỉ, và nói với Tialys: “Cô bé nói đúng. Chúng ta không thể làm đau ả, vì một lí do nào đó.”

Lyra nói: “Này tên bà là gì?”

Con nhân điểu dang rộng cánh ra giũ, khiến các lữ khách suýt ngất vì những thứ mùi mục ruỗng, thối rữa ghê tởm tỏa ra từ ả.

“Vô Danh!” Ả hét lên.

“Bà muốn gì ở chúng tôi?” Lyra hỏi.

“Các người có thể cho ta thứ gì?”

“Chúng tôi có thể kể cho bà nghe về nơi mình đã ở, có lẽ bà sẽ thấy hứng thú, tôi không biết nữa. Chúng tôi đã chứng kiến đủ thứ điều kì quặc trên đường tới đây.”

“Ồ, ngươi đề nghị được kể chuyện cho ta nghe sao?”

“Nếu bà muốn.”

“Có lẽ. Rồi sau đó thì sao?”

“Bà có thể cho chúng tôi đi qua cánh cửa đó để tìm hồn ma mà chúng tôi tới đây để gặp, dù sao tôi cũng hi vọng bà sẽ làm vậy. Nếu bà có thể tốt bụng, làm ơn.”

“Vậy thì thử đi,” Vô Danh nói.

Ngay cả trong cơn ốm yếu và đau đớn, Lyra vẫn cảm thấy rằng mình vừa mới được chia cho quân át chủ bài.

“Ôi, cẩn thận đấy,” Salmakia thì thầm, nhưng tâm trí Lyra đã lao thẳng tới câu chuyện mà cô kể đêm trước đó, định hình, cắt bỏ, cải tiến và thêm thắt: cha mẹ chết; báu vật gia đình; tàu đắm; chạy trốn…

“Ờm,” cô nói, chuyển tâm trí sang trạng thái kể chuyện, “mọi việc bắt đầu khi tôi còn là một đứa trẻ sơ sinh, thật đấy. Cha mẹ tôi là Công tước và Nữ công tước xứ Abingdon, vậy đấy, họ giàu có không kém ai cả. Cha tôi là một trong những cố vấn của đức vua, bản thân đức vua cũng thường tới ở lại với chúng tôi, ôi, suốt ngày ấy mà. Họ sẽ đi săn bắn trong cánh rừng của nhà tôi. Dinh thự ở đó, nơi tôi đã sinh ra, nó là căn nhà lớn nhất trong toàn bộ vùng phía nam nước Anh. Nó có tên…”

Không buồn hét lên cảnh báo, con nhân điểu lao bổ vào Lyra, móng vuốt xòe ra. Lyra vừa đủ thời gian để né, nhưng một trong những cái móng vẫn sượt qua đầu cô và kéo đứt một búi tóc.

“Điêu trá! Điêu trá!” Con nhân điểu gào thét. “Điêu trá!”

Ả lại bay vòng tới, nhắm thẳng vào mặt Lyra; nhưng Will đã rút con dao ra rồi nhảy bổ vào ngáng đường. Vô Danh vừa kịp đổi hướng ra ngoài tầm với của cậu, Will vội đẩy Lyra về phía cánh cửa, do cô bé đang đờ người vì sốc và mờ mắt vì máu tuôn chảy xuống mặt. Will không biết những người Gallivespia đang ở đâu, nhưng con nhân điểu lại đang lao về phía chúng, liên mồm hét lên đầy giận dữ và căm phẫn:

“Điêu trá! Điêu trá! Điêu trá!”

Nghe như thể giọng của ả đang vọng tới từ khắp nơi, âm thanh bị dội lại từ bức tường sừng sững ẩn trong sương, bị bóp nghẹt và biến đổi, khiến cho ả dường như đang hét lên tên của Lyra, thế là Lyra và điêu trá trở thành một.

Will ép sát người cô bé vào ngực mình, khum vai lại để bảo vệ cô. Cậu cảm thấy cô đang run lên và thổn thức khóc trên người mình; nhưng rồi cậu thọc dao vào lớp gỗ đã mục ruỗng của cánh cửa và cắt cái khóa ra bằng một cú rạch chớp nhoáng.

Rồi cậu và Lyra, cùng với hai mật thám bay trên hai con chuồn chuồn bên cạnh, đổ nhào vào vương quốc của các hồn ma khi tiếng gào của con nhân điểu được nhân lên gấp đôi, rồi lại gấp đôi nữa bởi những con khác trên bờ hồ phủ sương phía sau lưng họ.