← Quay lại trang sách

- 23 - Không lối thoát

Rồi ngươi sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ cho ngươi tự do.

Phúc Âm Thánh John

“Will” Lyra gọi, “cậu nghĩ lũ nhân điểu sẽ làm gì khi chúng ta thả các hồn ma ra?”

Vì đám sinh vật kia đang ngày một ầm ĩ và bay lại gần hơn, càng lúc càng đông, cứ như không gian u ám đang tự tập hợp lại thành những khối ác tâm nhỏ xíu rồi lắp cánh cho chúng. Những hồn ma không ngừng nhìn lên đầy sợ hãi.

“Chúng ta sắp tới nơi chưa?” Lyra gọi Công nương Salmakia.

“Không còn xa nữa đâu,” bà nói vọng xuống trong lúc bay lượn phía trên. “Nếu trèo lên tảng đá kia cô sẽ thấy được cậu bé.”

Nhưng Lyra không muốn phí thời gian. Cô bé đang cố gắng hết sức để nặn ra một bộ mặt tươi tỉnh cho Roger. Nhưng trước ánh mắt của tâm trí cô, mọi khoảnh khắc đều là hình ảnh khủng khiếp của chú chó Pan nhỏ xíu bị bỏ rơi trên cầu tàu trong lúc sương mù bủa vây xung quanh, cô cố gắng lắm mới ngăn được mình không gào lên khóc. Thế nhưng, cô phải làm vậy, cô phải tỏ ra tràn trề hi vọng vì Roger; cô vẫn luôn như vậy.

Khi hai đứa trẻ tới đối mặt với nhau, chuyện đó xảy ra khá đột ngột. Cậu bé ở đó, giữa đám đông gồm tất cả các hồn ma, những đường nét quen thuộc của cậu đã mờ nhạt đi, nhưng biểu hiện của cậu là toàn bộ sự vui sướng mà một con ma có thể thể hiện. Cậu lao tới ôm lấy cô.

Nhưng cậu đi xuyên qua như một màn khói lạnh toát trên hai tay cô, dù cô cảm thấy bàn tay nhỏ bé của cậu giữ chặt lấy tim mình, nó không còn chút sức lực nào để bấu víu. Chúng không bao giờ có thể thật sự chạm vào nhau nữa.

Nhưng cậu bé có thể thì thầm, giọng của cậu cất lên: “Lyra, tớ không bao giờ dám nghĩ mình lại có thể gặp lại cậu - tớ cứ nghĩ kể cả có xuống đây sau khi chết đi thì cậu cũng đã già đi rất nhiều, cậu sẽ thành người lớn, và cậu sẽ không muốn nói chuyện với tớ…”

“Tại sao lại không chứ?”

“Bởi vì tớ đã không làm đúng khi Pan đưa linh thú của tớ chạy xa khỏi linh thú của Ngài Asriel! Chúng tớ đáng ra nên bỏ chạy, đáng ra không nên cố gắng chiến đấu với nó! Đáng ra chúng tớ nên chạy đến chỗ cậu! Như thế thì nó sẽ không bắt được linh thú của tớ nữa và khi vách núi lở, cậu ấy vẫn sẽ ở bên tớ!”

“Nhưng đó đâu phải lỗi của cậu, đồ ngốc!” Lyra nói. “Ngay từ đầu chính tớ là kẻ đã đưa cậu tới đó, đáng ra tớ nên để cậu trở về cùng với những đứa trẻ khác và những người du mục. Đó là lỗi của tớ. Tớ rất xin lỗi, Roger ạ, thật đấy, đó là lỗi của tớ, nếu không cậu đã chẳng phải đến đây…”

“Chà,” cậu nói, “tớ không biết nữa. Có khi tớ lại phải chết theo một cách nào đó khác. Nhưng đó không phải là lỗi của cậu, Lyra ạ, vậy đấy.”

Cô cảm thấy mình cũng đang bắt đầu tin vào điều đó; nhưng dù sao vẫn thật đau lòng khi thấy đứa bé lạnh lẽo tội nghiệp, rất gần nhưng lại rất xa. Cô cố gắng nắm lấy cổ tay nó, nhưng những ngón tay lại quặp vào không khí trống rỗng. Cậu bé hiểu ra điều đó và ngồi xuống bên cạnh cô.

Những hồn ma khác lùi lại đôi chút, để cho chúng ở riêng với nhau, cả Will cũng tránh đi rồi ngồi xuống chăm sóc cho bàn tay của mình. Nó lại đang rỉ máu. Trong lúc Tialys bay tới tấp vào những hồn ma để đẩy họ đi, Salmakia giúp Will chăm lo cho vết thương.

Nhưng Lyra và Roger không chú ý đến điều đó.

“Cậu vẫn chưa chết,” cậu bé nói. “Làm sao cậu tới được đây nếu vẫn còn đang sống? Mà Pan đâu rồi?”

“Ôi, Roger - tớ phải để cậu ấy lại bên bờ hồ - đó là điều tồi tệ nhất tớ từng phải làm, đau đớn lắm - cậu biết nó đau đến thế nào rồi đấy - cậu ấy cứ đứng đó nhìn. Ôi, tớ cảm thấy như một kẻ sát nhân vậy, Roger ạ - nhưng tớ phải làm, nếu không tớ không thể tới đây được!”

“Tớ vẫn luôn giả vờ nói chuyện với cậu suốt từ khi chết đi,” cậu bé nói. “Tớ cứ khao khát mình có thể, khao khát rất mãnh liệt… Khao khát rằng mình có thể thoát ra, tớ và tất cả những người đã chết khác, bởi vì đây là một nơi tồi tệ, Lyra ạ, không có hi vọng, chẳng có gì thay đổi sau khi chết đi, lại thêm lũ chim chóc kia nữa… Cậu biết chúng làm gì không? Chúng đợi cho tới khi người ta nghỉ ngơi - không bao giờ có thể ngủ hẳn hoi ở đây được, chỉ kiểu như gà gật thôi - rồi chúng sẽ lặng lẽ tới bên cạnh, thì thầm tất cả những điều xấu xa mà ta đã từng làm khi còn sống, để ta không thể quên nổi những điều ấy. Chúng biết tất cả những điều tồi tệ nhất về ta. Chúng biết cách làm người khác cảm thấy kinh khủng, chỉ cần nghĩ đến tất cả những điều ngu ngốc và xấu xa mình từng làm. Tất cả những suy nghĩ tham lam và tàn nhẫn mà ta từng có, chúng biết hết, chúng khiến ta tủi hổ và cảm thấy ghê tởm chính bản thân mình… Nhưng ta không thể thoát khỏi chúng được.”

“Này,” cô nói, “nghe tớ này.”

Hạ giọng và ngả gần hơn vào hồn ma bé nhỏ, giống hệt như cô vẫn thường làm khi chúng lên kế hoạch cho một trò đùa tinh quái ở Jordan, cô bé nói tiếp:

“Có lẽ cậu không biết, nhưng các phù thủy - cậu nhớ Serafina Pekkala chứ - các phù thủy có một lời tiên tri về tớ. Họ không biết là tớ biết - không ai biết cả. Tớ chưa từng nói với bất cứ ai về nó. Nhưng khi còn ở Trollesund, ông du mục Farder Coram đã dẫn tớ đến gặp viên lãnh sự của các phù thủy, Tiến sĩ Lanselius, ông ấy đã dạng như kiểm tra tớ. Ông ấy bảo tớ phải đi ra ngoài và chọn lấy đúng mẩu thông mây trong số các mẩu khác để thể hiện rằng tớ thật sự có thể đọc được Chân Kế.

“Thì, tớ đã làm theo, sau đó tớ vội quay vào vì trời đang rất lạnh mà công việc đó thì chỉ tốn có một giây, dễ lắm. Ông lãnh sự đang nói chuyện với Farder Coram, họ không biết là tớ có nghe thấy. Ông ấy nói rằng các phù thủy có một lời tiên tri về tớ, rằng tớ sẽ làm một việc vĩ đại và quan trọng, và nó sẽ diễn ra tại một thế giới khác…

“Chỉ là tớ chưa bao giờ nhắc đến nó, và tớ nghĩ chắc hẳn mình cũng đã quên bẵng mất nó, có quá nhiều chuyện khác đã xảy đến nên nó tuột khỏi kí ức của tớ. Tớ thậm chí còn chưa từng nói về nó với Pan, vì cậu ấy chắc chắn sẽ cười, tớ nghĩ thế.

“Nhưng rồi sau đó, Phu nhân Coulter bắt được tớ và khiến tớ hôn mê suốt, tớ đã mơ, mơ về chuyện đó, mơ về cả cậu nữa. Rồi tớ nhớ đến bà mẹ chủ thuyền người du mục, Má Costa - cậu nhớ không - chúng ta đã leo lên con thuyền của họ, ở Jericho, cùng với Simon, Hugh và cả lũ…”

“Có chứ! Suýt nữa thì bọn mình đã lái nó đến Abingdon rồi! Đó là điều tuyệt vời nhất chúng ta từng làm, Lyra ạ! Tớ sẽ không bao giờ quên điều đó, dù cho có chết ở dưới này cả nghìn năm đi nữa…”

“Ừ, nhưng nghe này - khi lần đầu tiên chạy trốn khỏi Phu nhân Coulter, phải, tớ đã tìm lại được những người du mục và họ đã chăm sóc tớ… Ôi, Roger ạ, có quá nhiều thứ tớ đã khám phá ra, cậu sẽ ngạc nhiên cho xem - nhưng đây là điều quan trọng nhất: Má Costa nói với tớ, bà ấy bảo rằng tớ có dầu phù thủy trong tâm hồn mình, bà ấy nói dân du mục là những con người của sông nước nhưng tớ lại là con người của lửa.

“Tớ cho rằng điều đó có nghĩa là bà ấy kiểu như đang chuẩn bị cho tớ đối mặt với lời tiên tri phù thủy kia. Tớ biết mình có việc quan trọng cần làm, vị lãnh sự Tiến sĩ Lanselius nói rằng quan trọng là tớ không bao giờ được biết vận mệnh của mình là gì cho tới khi nó xảy đến, vậy đó - tớ không bao giờ được hỏi về nó… Nên tớ chưa từng làm. Thậm chí tớ còn chẳng nghĩ đến liệu nó có thể là gì. Không cả hỏi Chân Kế luôn.

“Nhưng giờ thì tớ nghĩ mình đã biết rồi. Và việc tìm lại được cậu cũng là một trong những bằng chứng chứng thực. Việc tớ phải làm, Roger ạ, định mệnh của tớ là, là tớ phải giúp tất cả các hồn ma ra khỏi vùng đất của người chết mãi mãi. Tớ và Will - chúng tớ phải cứu thoát tất cả các cậu. Tớ dám chắc là chuyện đó. Phải là nó. Và bởi vì Ngài Asriel, vì một thứ cha tớ đã nói… Cái chết sẽ lụi tàn, ông ấy đã nói vậy. Nhưng tớ không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Cậu chưa được nói với họ đâu đấy, hứa đi. Ý tớ là ở trên đó có khi cậu cũng không tồn tại được. Nhưng mà…”

Cậu bé đang háo hức muốn lên tiếng nên cô dừng lại.

“Đó chính là thứ tớ muốn nói với cậu!” Cậu nói. “Tớ đã bảo họ rồi, tất cả những người chết khác ấy, tớ bảo rằng cậu sẽ tới! Giống như cậu đã tới giải cứu đám trẻ ở Bolvangar! Tớ nói, nếu có ai đó có thể làm được thì sẽ là Lyra. Họ mong điều đó là thật, họ muốn tin tưởng tớ, nhưng lại chưa từng thật sự tin, tớ có thể đoán được.

“Lấy một ví dụ,” cậu nói tiếp, “mọi đứa trẻ từng đến đây, không chừa một đứa nào, đều bắt đầu bằng cách nói tớ dám chắc cha mình sẽ tới đón, hoặc tớ dám chắc ngay khi mẹ biết được tớ đang ở đâu, bà ấy sẽ đến đưa tớ về nhà. Nếu không phải là cha hay mẹ thì sẽ là bạn bè của họ, hoặc ông bà, nhưng sẽ có ai đó đến giải cứu cho họ. Chỉ là chẳng có ai đến cả. Vậy nên chẳng ai tin tớ khi tớ nói với họ rằng cậu sẽ đến. Nhưng tớ đã nói đúng!

“Ừ,” cô nói, “nhưng tớ chẳng thể làm được việc đó mà không có Will. Là Will ở đằng kia kìa, còn kia là Hiệp sĩ Tialys và Công nương Salmakia. Có quá nhiều chuyện tớ muốn kể với cậu, Roger ạ…”

“Will là ai thế? Cậu ấy từ đâu tới?”

Lyra bắt đầu giải thích, không chú ý lắm đến sự thay đổi trong giọng nói của mình, về việc mình đã ngồi thẳng dậy ra sao, và ánh mắt cô thậm chí cũng đổi khác khi kể lại câu chuyện về cuộc gặp gỡ với Will và cuộc chiến giành lấy con dao kì ảo. Làm sao cô biết được chứ? Nhưng Roger thì nhận ra, trong lòng cậu dấy lên cảm giác ghen tị buồn bã không nên lời của kẻ đã chết, không thể thay đổi.

Trong lúc đó, Will và hai người Gallivespia đang nói chuyện lặng lẽ ở cách đó không xa.

“Hai người định làm gì, cậu và cô bé ấy?” Tialys hỏi.

“Mở thông thế giới này rồi thả các hồn ma ra. Đó là lí do tôi sở hữu con dao.”

Cậu chưa từng thấy vẻ kinh ngạc nào như vậy trên bất cứ khuôn mặt nào, đây còn lại là những người có ý kiến mà cậu coi trọng. Cậu mang lòng kính trọng vô bờ đối với hai con người này. Họ ngồi lặng lẽ trong một lúc, rồi Tialys lên tiếng:

“Việc này sẽ xóa bỏ mọi thứ. Đây là cú đánh khủng khiếp nhất có thể thực hiện. Sau vụ này, Đấng Quyền Năng sẽ mất hoàn toàn quyền lực.”

“Họ làm sao mà nghi ngờ được chứ?” Công nương nói. “Họ sẽ bị một cú bất ngờ!”

“Còn sau đó thì sao?” Tialys hỏi Will.

“Sau đó thì sao ấy à? Thì, bản thân chúng ta cũng sẽ phải thoát ra, rồi tìm linh thú của chúng ta, tôi nghĩ thế. Đừng nghĩ đến sau đó. Nghĩ đến lúc này đã đủ rồi. Tôi vẫn chưa nói gì với các hồn ma, phòng trường hợp… phòng trường hợp không thành công. Nên các vị cũng đừng nói gì nhé. Giờ tôi sẽ tìm một thế giới mà mình có thể mở thông, nhưng đám nhân điểu đó vẫn đang quan sát. Nên nếu muốn giúp đỡ, các vị có thể đi đánh lạc hướng chúng trong lúc tôi làm việc.”

Hai người Gallivespia lập tức thúc chuồn chuồn bay lên không gian u tối phía trên đầu, nơi lũ nhân điểu đang bu dày như nhặng. Will nhìn những con côn trùng khổng lồ ngạo nghễ phóng lên phía chúng, chẳng khác nào lũ nhân điểu to xác chỉ là đám ruồi nhặng và hai con chuồn chuồn có thể tợp gọn bọn chúng trong bộ hàm của mình. Cậu thoáng nghĩ tới việc những sinh vật rực rỡ này sẽ sung sướng đến nhường nào nếu bầu trời được mở ra và chúng lại có thể được lướt đi trên mặt nước sáng ngời.

Rồi cậu cầm con dao lên. Lập tức, những từ ngữ mà lũ nhân điểu đã hét vào cậu lại quay về - những lời quở trách về mẹ cậu - khiến cậu đành ngừng lại. Cậu đặt con dao xuống, cố gắng gột sạch tâm trí.

Cậu thử lại, nhưng kết quả vẫn như cũ. Cậu có thể nghe thấy tiếng chúng la hét phía trên, bất chấp sự dữ tợn của những người Gallivespia; bọn chúng đông đến nỗi chỉ hai người thì khó có thể làm được gì để ngăn chúng lại.

Mà mọi việc vẫn sẽ diễn ra như thế này thôi. Sẽ chẳng dễ dàng hơn chút nào đâu. Nên Will để thả lỏng đầu óc và không còn vướng bận, cậu cứ ngồi đó với con dao nắm hờ cho tới khi cảm thấy sẵn sàng trở lại.

Lần này con dao cắt thẳng vào trong không khí - và gặp đá. Cậu đã mở ra một ô cửa sổ từ thế giới này vào lòng đất của một thế giới khác. Cậu đóng nó lại rồi thử một lần nữa.

Sự việc tương tự lặp lại, dù cậu biết rằng đó là một thế giới khác. Trước đó cậu đã từng mở ra những cánh cửa và thấy mình đang lơ lửng trên mặt đất của một thế giới mới, nên thay vào đó có mở ra dưới lòng đất đi nữa thì đáng lẽ cậu cũng không nên thấy ngạc nhiên, nhưng việc này lại khiến cậu bối rối.

Lần tiếp theo, cậu lần tìm cẩn trọng hơn theo cách mình đã học được, để cho đầu mũi dao tìm kiếm sự cộng hưởng thể hiện một thế giới có mặt đất nằm cùng vị trí. Nhưng dù có lần mò thế nào thì cậu cũng vẫn thất bại. Chẳng có bất cứ thế giới nào, ở bất cứ đâu mà cậu có thể mở ra được; bất cứ chỗ nào cậu chạm vào cũng là đất đá cứng.

Cảm nhận thấy có điều gì không ổn, Lyra nhảy bật dậy từ cuộc trò chuyện gần gũi với hồn ma của Roger để vội vã đến bên Will.

“Sao thế?” Cô khẽ hỏi.

Cậu bé thuật lại rồi nói thêm: “Chúng ta sẽ phải đến một chỗ khác để tớ có thể tìm được một thế giới mà chúng ta có thể mở thông. Nhưng đám nhân điểu kia sẽ không cho phép ta làm thế đâu. Cậu đã kể với các hồn ma việc chúng ta đang dự tính chưa?” “Chưa. Chỉ riêng Roger thôi, tớ cũng bảo cậu ấy giữ yên lặng rồi. Cậu ấy sẽ làm theo mọi điều tớ nói. Ôi, Will, tớ sợ, sợ quá. Có khi chúng ta không bao giờ thoát ra được mất. Nếu chúng ta bị kẹt ở đây vĩnh viễn thì sao?”

“Con dao có thể cắt xuyên qua đá. Nếu buộc phải làm, chúng ta chỉ cần cắt thông một đường hầm là được. Sẽ tốn nhiều thời gian và tớ hi vọng mình sẽ không phải làm vậy, nhưng việc đó là khả thi. Đừng lo.”

“Ừ. Cậu nói phải. Đương nhiên là khả thi rồi.”

Nhưng cô nghĩ trông cậu ốm yếu quá, nét mặt chau lại vì đau đớn, những quầng thâm hằn rõ quanh mắt cậu, tay cậu run rẩy còn những ngón tay lại đang rỉ máu; trông cậu cũng tồi tệ y như cảm giác của cô lúc bấy giờ. Chúng không thể tiếp tục được lâu mà thiếu linh thú. Cô bé cảm thấy hồn ma của chính mình đang run sợ bên trong cơ thể, cô liền ôm chặt lấy hai tay, nhức nhối muốn có Pan ở bên.

Nhưng trong lúc đó, các hồn ma vẫn đang xúm lại gần, những linh hồn đáng thương, đặc biệt là lũ trẻ không chịu để cho Lyra yên.

“Làm ơn,” một đứa con gái nói, “các cậu sẽ không quên chúng tôi sau khi trở về chứ?”

“Không đâu,” Lyra đáp, “không bao giờ.”

“Cậu sẽ kể với họ về chúng tôi chứ?”

“Tôi hứa. Tên cậu là gì?”

Nhưng cô bé tội nghiệp tỏ ra lúng túng và ngượng ngập: Cô đã quên mất rồi. Cô quay đi, che lấy mặt, rồi một cậu bé lên tiếng:

“Tôi nghĩ tốt hơn hết là quên đi. Tôi đã quên tên của mình rồi. Có một vài người ở đây chưa lâu nên vẫn biết được mình là ai. Có những đứa trẻ đã ở đây được hàng nghìn năm. Họ không già hơn chúng tôi, và đã quên đi rất nhiều rồi. Trừ ánh nắng. Chẳng ai quên nó cả. Cả gió nữa.”

“Phải,” một đứa khác nói, “đúng đấy!”

Càng ngày càng có nhiều đứa ầm ĩ kêu lên đòi Lyra kể cho chúng nghe về những thứ chúng còn nhớ, về mặt trời, gió và bầu trời, và cả những thứ chúng đã quên, ví dụ như chơi đùa như thế nào. Cô bé bèn quay sang Will thì thầm: “Tớ nên làm gì đây, Will?”

“Nói cho họ biết đi.”

“Tớ sợ lắm. Sau những chuyện xảy ra ở đó - lũ nhân điểu…”

“Nói cho họ sự thật đi. Chúng tớ sẽ đuổi lũ nhân điểu đi.”

Cô bé ngờ vực nhìn Will. Trên thực tế, nỗi sợ hãi đang khiến cô hoa mắt chóng mặt. Cô quay lại phía những hồn ma đang túm tụm lại ngày càng gần.

“Làm ơn!” Chúng thì thầm. “Cậu mới đến từ thế giới bên ngoài mà! Hãy kể cho chúng tôi nghe đi! Kể cho chúng tôi về thế giới đi!”

Có một cái cây cách đó không xa - chỉ là một thân cây đã chết với những cành trắng hếu như xương đang thọc vào bầu không khí xám xịt lạnh lẽo - vì Lyra đang cảm thấy yếu đuối, và vì cô không nghĩ mình có thể đi lại và nói chuyện cùng một lúc, cô tiến tới phía cái cây để kiếm chỗ ngồi xuống. Đám đông những hồn ma xô đẩy và xáo trộn sang một bên để tránh đường.

Khi họ đã gần đến chỗ thân cây Tialys đáp lên tay Will và ra hiệu để Will cúi đầu xuống lắng nghe.

“Chúng đang quay lại,” ông nói khẽ, “đám nhân điểu đó. Càng ngày càng đông. Chuẩn bị sẵn sàng con dao đi. Công nương và tôi sẽ ngăn chúng lại lâu nhất có thể, nhưng có thể cậu sẽ cần phải chiến đấu đó.”

Vừa không khiến Lyra lo lắng, Will vừa nới lỏng con dao trong bao đựng và đặt tay gần đó. Tialys lại bay lên, sau đó Lyra tới được chỗ cái cây và ngồi lên một trong những cái rễ to bè của nó.

Có quá nhiều người chết tụ tập lại xung quanh, túm tụm trong hi vọng, mắt mở to, đến mức Will khiến họ lùi lại để tạo khoảng không; nhưng cậu để cho Roger đến gần, vì cậu bé đang chăm chú nhìn Lyra, say sưa lắng nghe.

Và Lyra bắt đầu nói về thế giới mà mình biết.

Cô kể cho họ nghe câu chuyện mình và Roger trèo qua mái của Học viện Jordan và tìm thấy một con quạ bị gãy chân ra sao, chúng đã chăm sóc cho tới khi nó sẵn sàng bay trở lại như thế nào; rồi câu chuyện chúng đã khám phá các hầm rượu dày bụi và mạng nhện, uống rượu vang Canary, mà có khi lại là Tokay cũng nên, cô không đoán được, rồi bị say bí tỉ như thế nào. Hồn ma của Roger lắng nghe, tự hào và tha thiết, gật đầu rồi thì thầm: “Phải, phải! Đó chính là chuyện đã xảy ra, đúng vậy, thật đấy!”

Rồi cô kể cho tất cả nghe về trận chiến vĩ đại giữa dân Oxford và đám thợ nung đất sét.

Đầu tiên cô bé miêu tả Claybeds, đảm bảo là mình nhắc đến mọi thứ có thể nhớ được, các hồ rửa lớn màu đất son, dây kéo, lò nung giống như những tổ ong khổng lồ bằng gạch. Cô kể với chúng về hàng liễu dọc bờ sông, với những cái lá có mặt dưới óng ánh bạc; rồi cô kể lại khi nắng chiếu dài hơn vài ngày, đất sét bắt đầu tách ra thành những phiến lớn, với các vết nứt sâu ở giữa, và về cảm giác khi đút ngón tay vào trong vết nứt rồi từ từ kéo lên một miếng bùn khô, cố gắng giữ cho nó lớn nhất có thể mà không làm vỡ. Bên dưới vẫn còn ướt, rất lí tưởng để ném vào người khác.

Rồi cô miêu tả những thứ mùi xung quanh nơi đó: mùi khói bốc ra từ lò nung, mùi đất mùn mục nát từ dòng sông khi gió thổi theo hướng tây nam, thứ mùi ấm áp của các củ khoai tây nướng mà những người thợ nung đất vẫn thường ăn; rồi tiếng nước mượt mà chảy qua các ống máng để vào hồ rửa; cảm giác bị hút xuống bởi một thứ chất đặc quánh khi cố gắng rút chân ra lên khỏi nền đất; cú đập nặng nề ướt át trong thứ nước dày đặc đất sét của những cánh cửa đập.

Trong lúc cô nói, tận dụng tất cả các giác quan của chúng, đám hồn ma kéo lại gần hơn, nuốt lấy từng lời của cô bé, nhớ lại cái thời vẫn còn da thịt, dây thần kinh và các giác quan, và muốn cô không bao giờ dừng lại.

Rồi cô kể về việc lũ trẻ của những người thợ nung đất luôn luôn gây chiến với đám trẻ thị trấn, nhưng chúng lại chậm chạp và đần độn, với đất sét nhồi trong não, trong khi đám trẻ thị trấn thì ngược lại, rất thông minh và nhanh nhẹn; rồi việc một ngày tất cả lũ nhóc thị trấn đã gạt bỏ những khác biệt và bày mưu tính kế để tấn công đám Claybeds từ ba phía, dồn đám trẻ của những người thợ nung đất trở lại mép sông rồi ném từng nắm, từng nắm đất nhão nhoẹt vào nhau, đổ xô vào thành trì lầy bùn của chúng để phá sập nó, biến các công sự thành tên lửa cho tới khi không khí, mặt đất và nước đều bị trộn lẫn đến mức không thể gỡ ra nổi, và mọi đứa trẻ đều trông giống hệt nhau, bùn dính từ đầu đến chân, chưa đứa nào từng có một ngày nào vui hơn hôm đó trong suốt cả cuộc đời chúng.

Sau khi nói xong, cô nhìn sang Will, kiệt sức. Nhưng cảnh tượng lại khiến cô choáng váng.

Ngoài những hồn ma, yên lặng trải rộng khắp xung quanh, cùng những người bạn của cô, ở gần bên và vẫn còn sống, còn có các khán giả khác; các cành cây đều đang chật kín những dáng hình chim tối thẫm, những gương mặt phụ nữ của chúng nhìn xuống cô bé, nghiêm trang và say sưa.

Cô đứng bật dậy vì nỗi sợ đột ngột ập tới, nhưng chúng không hề nhúc nhích.

“Các người,” cô bé giận dữ nói, “lúc trước các người đã lao vào tôi khi tôi đang cố gắng kể chuyện. Giờ sao lại đứng yên thế? Tới đi, dùng móng của các người mà xé xác tôi ra rồi biến tôi thành hồn ma đi!”

“Đó là việc tối thiểu mà chúng ta sẽ làm,” ả nhân điểu đứng giữa, chính là Vô Danh, lên tiếng. “Nghe ta nói đây. Hàng ngàn năm trước, khi những hồn ma đầu tiên xuống đây, Đấng Quyền Năng đã ban cho chúng ta năng lực nhìn thấy những điều tồi tệ nhất trong tất cả mọi người, và kể từ đó chúng ta đã sống nhờ những điều tồi tệ nhất, cho tới khi máu ôi thiu vì chúng còn trái tim trở nên mục ruỗng.

“Nhưng đó vẫn là tất cả những gì chúng ta có để sống sót. Đó là tất cả những gì chúng ta có. Và giờ chúng ta đã biết được rằng các ngươi đang dự tính mở một lối đi lên thế giới phía trên và dẫn tất cả các hồn ma thoát ra…”

Cái giọng the thé của ả bị nhấn chìm bởi cả triệu tiếng thì thầm, khi những hồn ma có thể nghe thấy đều hét lên trong sung sướng và hi vọng; nhưng lũ nhân điểu đồng loạt gào lên và đập cánh cho tới khi các hồn ma im lặng trở lại.

“Phải,” Vô Danh gào lên, “để dẫn chúng thoát ra! Chúng ta sẽ làm gì đây? Ta sẽ cho ngươi biết chúng ta sẽ làm gì: Từ giờ trở đi, chúng ta sẽ không kiềm chế gì nữa. Bất cứ hồn ma nào dám đi qua, chúng ta sẽ giày vò, hành hạ, xé xác chúng, chúng ta sẽ khiến chúng phát điên vì sợ hãi, hối hận và căm ghét bản thân. Nơi này hiện đang là vùng đất hoang; chúng ta sẽ biến nó thành địa ngục!”

Tất cả lũ nhân điểu đều rít lên đầy giễu cợt, nhiều con trong số chúng bay lên khỏi thân cây và lao thẳng vào các hồn ma, khiến họ hốt hoảng tản ra. Lyra ôm chặt lấy cánh tay Will và nói: “Họ đã để lộ mất rồi, giờ thì ta không thể thực hiện việc đó nữa - họ sẽ ghét chúng ta - họ sẽ nghĩ chúng ta phản bội họ! Chúng ta chỉ khiến mọi việc xấu đi chứ chẳng cải thiện được chút nào!”

“Yên lặng nào,” Tialys nói. “Đừng có thất vọng chứ. Gọi họ lại và khiến họ lắng nghe chúng ta đi.”

Vậy là Will hét lên: “Quay lại! Quay lại đi, tất cả mọi người! Quay lại nghe chúng tôi nói này!”

Từng con một, lũ nhân điểu với vẻ mặt hau háu, thèm khát và đầy ham muốn sự khổ đau, quay người bay lại phía thân cây, các hồn ma nhờ vậy cũng dạt trở lại. Hiệp sĩ để con chuồn chuồn của mình lại cho Salmakia chăm sóc, trong lúc hình dáng nhỏ xíu căng tràn của ông, với bộ quần áo màu xanh lá và mái tóc đen, nhảy lên một tảng đá nơi tất cả có thể nhìn thấy.

“Hỡi các nhân điểu,” ông cất tiếng, “chúng ta có thể cho các người một thứ còn tốt hơn thế. Hãy thành thật trả lời những câu hỏi của ta và nghe ta nói, rồi hẵng phán xét. Khi Lyra nói chuyện với các người bên ngoài bức tường, các người đã lao vào cô bé. Tại sao các người lại làm vậy?”

“Điêu trá!” Tất cả lũ nhân điểu gào lên. “Điêu trá và ảo tưởng!”

“Thế nhưng vừa rồi khi cô bé nói, các người lại lắng nghe, tất cả đều giữ im lặng và đứng yên. Một lần nữa hãy cho ta biết tại sao?”

“Bởi vì đó là sự thật,” Vô Danh đáp. “Bởi vì nó nói sự thật. Bởi vì câu chuyện rất bổ dưỡng. Bởi vì nó nuôi dưỡng chúng ta. Bởi vì chúng ta không thể làm khác được. Bởi vì đó là sự thật. Bởi vì chúng ta không hề biết rằng lại có thứ gì khác ngoài sự độc ác. Bởi vì nó đem đến cho chúng ta tin tức về thế giới, về mặt trời, gió và mưa. Bởi vì nó là thật.”

“Vậy thì,” Tialys nói, “hãy lập một thỏa thuận. Thay vì chứng kiến duy nhất sự độc ác, tàn bạo và tham lam của những hồn ma xuống đây, từ giờ trở đi các người sẽ có quyền yêu cầu mọi hồn ma kể cho nghe câu chuyện về cuộc đời của họ, và họ sẽ phải nói thật về những gì mình đã thấy, đã chạm vào, đã nghe được, đã yêu mến và hiểu biết tại thế giới đó. Mọi hồn ma ở đây đều có một câu chuyện; mọi hồn ma sắp tới trong tương lai cũng sẽ có những điều trung thực để kể với các người về thế giới. Các người sẽ có quyền được lắng nghe họ, và họ sẽ phải kể cho các người nghe.”

Lyra kinh ngạc trước sự táo bạo của viên mật thám tí hon. Làm sao ông dám nói chuyện với những sinh vật này như thể đang mang trong mình năng lực có thể trao cho chúng các quyền lợi vậy? Bất cứ ả nào trong số chúng đều có thể tợp lấy ông chỉ trong thoáng chốc, dùng móng vuốt giật đứt người ông ra, hoặc đem lên cao rồi lẳng xuống đất khiến ông nát tan thành từng mảnh. Thế nhưng ông vẫn đứng đó, kiêu hãnh và táo gan, thương lượng với chúng! Chúng lắng nghe rồi bàn bạc, quay mặt lại với nhau, giọng hạ thấp xuống.

Tất cả đám hồn ma đứng nhìn, im lặng và sợ sệt.

Rồi Vô Danh quay lại.

“Như thế không đủ,” ả nói. “Chúng ta muốn nhiều hơn thế. Chúng ta có một nhiệm vụ dưới sự sắp đặt trước đây. Chúng ta có vị trí và nghĩa vụ. Chúng ta cần cù hoàn thành những yêu cầu của Đấng Quyền Năng, và nhờ vậy chúng ta đã được trọng vọng. Bị ghét bỏ và sợ hãi, nhưng cũng được kính trọng nữa. Giờ thì chuyện gì sẽ xảy ra với sự tôn kính đối với chúng ta đây? Tại sao đám hồn ma lại phải để ý đến chúng ta nếu chúng có thể cứ đơn thuần bước ra thế giới trên kia cơ chứ? Chúng ta có lòng kiêu hãnh của bản thân, đừng có lờ nó đi. Chúng ta cần một vị trí danh dự! Chúng ta cần một nghĩa vụ và nhiệm vụ để thực hiện, điều đó đem đến sự tôn trọng mà chúng ta xứng đáng có được!”

Chúng ngó ngoáy trên các cành cây, lầm bầm và giương cánh lên. Nhưng một lúc sau Salmakia nhảy lên đứng cạnh hiệp sĩ và gọi lớn:

“Các người nói đúng. Mọi người đều nên có một nhiệm vụ để làm, việc đó rất quan trọng, một nhiệm vụ có thể đem đến danh dự cho người ta, một nhiệm vụ họ có thể thực hiện một cách hãnh diện. Vậy nên đây là nhiệm vụ của các người, một nhiệm vụ mà chỉ các người mới làm được, vì các người là những giám hộ và quản lí của nơi này. Nhiệm vụ của các người sẽ là dẫn lối cho các hồn ma từ điểm cập bến bên hồ, xuyên qua vùng đất của người chết để tới lối thông mới mở vào thế giới. Đổi lại, họ sẽ kể cho các người nghe câu chuyện của mình như một thù lao công bằng và thích đáng cho sự hướng dẫn này. Như thế có được không?”

Vô Danh nhìn sang các chị em của mình, rồi chúng gật đầu. Ả nói:

“Chúng ta có quyền từ chối dẫn đường nếu chúng nói dối, hoặc nếu chúng giấu giếm bất cứ điều gì, hay không có gì để kể cho chúng ta nghe. Nếu sống trong thế giới đó, chúng phải nhìn được, chạm vào, nghe thấy, yêu mến và học hỏi nhiều thứ. Chúng ta sẽ đặt ngoại lệ cho những đứa bé sơ sinh không có thời gian để học hỏi bất cứ điều gì, nhưng ngoài ra, nếu chúng tới đây mà không mang theo gì, chúng ta sẽ không dẫn đường cho chúng thoát ra.”

“Rất công bằng,” Salmakia nói, các lữ khách khác cũng đồng tình.

Vậy là họ lập một thỏa thuận. Để đổi lấy câu chuyện của Lyra mà chúng đã nghe, đám nhân điểu đề nghị đưa các lữ khách và con dao của họ tới một nơi trong vùng đất của người chết nằm gần với thế giới bên trên. Đó là một quãng đường dài, qua các đường hầm và hang động, nhưng chúng vẫn một mực dẫn đường, và mọi hồn ma đều có thể đi theo.

Nhưng trước khi họ kịp bắt đầu, một giọng nói vang lên, lớn hết mức một tiếng thì thầm có thể phát ra. Đó là hồn ma của một người đàn ông gầy guộc với gương mặt cau có, giận dữ, ông ta hét lên:

“Chuyện gì sẽ xảy ra? Sau khi rời khỏi thế giới của người chết, liệu chúng ta có sống lại không? Hay chúng ta sẽ tan biến như các linh thú của mình? Các anh chị em, chúng ta không nên đi theo đứa trẻ này đến bất cứ đâu chừng nào chưa biết được chuyện gì sẽ xảy đến với mình!”

Những người khác nối tiếp câu hỏi đó: “Phải đấy, cho chúng tôi biết mình sẽ đi đâu đi! Cho chúng tôi biết phải đón chờ điều gì! Chúng tôi sẽ không đi trừ khi biết được chuyện gì sẽ xảy đến!”

Lyra tuyệt vọng nhìn sang Will, nhưng cậu nói: “Cho họ biết sự thật đi. Hỏi Chân Kế rồi cho họ biết nó nói gì.”

“Được rồi,” cô nói.

Cô lấy chiếc máy bằng vàng ra. Câu trả lời tới ngay lập tức. Cô cất nó đi rồi đứng dậy.

“Đây là điều sẽ xảy ra,” cô nói, “và nó là sự thật, hoàn toàn thật. Khi thoát ra khỏi đây, tất cả các hạt vật chất cấu tạo nên các vị sẽ rời ra và trôi đi riêng rẽ, giống như linh thú của các vị vậy. Nếu đã từng thấy người khác chết đi, các vị sẽ biết trông nó như thế nào. Nhưng giờ linh thú của các vị không phải chỉ là hư vô; chúng đã hòa vào vạn vật. Tất cả những nguyên tử đã từng là chúng tan ra vào không khí, gió, cây cối, đất đai và toàn bộ các sinh vật sống. Chúng sẽ không bao giờ biến mất. Chỉ là một phần của mọi thứ. Và đó chính xác là điều sẽ xảy đến với các vị, tôi xin thề, tôi xin hứa trên danh dự của mình. Các vị sẽ trôi giạt đi, quả thật là vậy, nhưng các vị sẽ được ở ngoài không gian thoáng đãng, lại trở thành một phần của mạch sống đang tuôn chảy trong vạn vật.”

Không ai nói gì. Những người đã từng thấy linh thú tan biến đang nhớ lại cảnh tượng đó, còn những ai chưa từng thấy thì đang cố tưởng tượng ra, không ai nói gì cho tới khi một phụ nữ trẻ bước tới trước. Cô là một người tử vì đạo đã hi sinh trước đó rất nhiều thế kỉ. Cô nhìn quanh và nói:

“Khi chúng tôi còn sống, người ta nói với chúng tôi rằng khi nào chết đi, chúng tôi sẽ được lên thiên đường. Họ còn nói thiên đường là một chốn bồng lai tiên cảnh tràn ngập niềm vui, chúng tôi sẽ mãi mãi được ở bên các vị thánh và thiên thần, cùng nhau ca tụng Đấng Tối Cao trong hạnh phúc vĩnh hằng. Đó là những gì họ nói. Và đó cũng là thứ khiến cho vài người trong số chúng tôi hiến dâng mạng sống, còn những người khác thì dành hàng năm trời cầu nguyện trong cô độc, trong khi tất cả niềm hân hoan của cuộc sống đang bị lãng phí xung quanh mà chúng tôi không hề hay biết.

“Bởi vì vùng đất của người chết không phải là một nơi để tặng thưởng hay trừng phạt. Nó là một nơi của hư vô. Người tốt cũng tới đây như kẻ xấu, tất cả đều héo mòn trong cái sự u ám này mãi mãi, không có chút hi vọng tự do hay niềm vui, không được ngủ, nghỉ ngơi, hay yên bình.

“Nhưng giờ đứa trẻ này đã tới đề nghị giúp chúng ta thoát ra và tôi sẽ đi theo cô bé. Cho dù điều đó đồng nghĩa với sự lãng quên, các bạn ạ, tôi sẽ đón nhận nó, bởi vì đó không còn là hư vô nữa, chúng ta sẽ lại được sống trong hàng ngàn lưỡi cỏ, hàng triệu chiếc lá, chúng ta sẽ rơi xuống cùng nước mưa và thổi cùng gió mát, chúng ta sẽ lấp lánh trong sương đọng dưới những vì sao và mặt trăng ở ngoài kia, trong thế giới vật chất vẫn luôn là quê hương thật sự của chúng ta.

“Vậy nên tôi xin thúc giục các bạn: Hãy đi cùng với đứa trẻ này ra bầu trời rộng mở ngoài kia!”

Nhưng hồn ma của cô lại bị đẩy sang một bên bởi hồn ma của một người đàn ông trông như một thầy tu: gầy guộc, nhợt nhạt kể cả khi đã chết, với đôi mắt đen đầy nhiệt huyết. Ông ta làm dấu chữ thập rôi lầm rầm đọc kinh, sau đó nói:

“Đây là một thông điệp cay đắng, một trò đùa đáng buồn và tàn nhẫn. Các vị không thấy sự thật sao? Đây không phải là một đứa trẻ. Đây chính là tay sai của Kẻ Quỷ Quyệt! Thế giới mà chúng ta từng sống là một nơi tập trung toàn những thối nát và nước mắt. Chẳng có gì ở đó có thể thỏa mãn được chúng ta. Nhưng Đấng Tối Cao đã ban cho chúng ta nơi thiêng liêng này cho sự vĩnh hằng, miền cực lạc này, nơi mà đối với linh hồn tội lỗi có vẻ hoang vắng và cằn cỗi, nhưng trong mắt những kẻ trung thực lại hiện ra đúng như nó vốn có, chan chứa sữa mát và mật ngọt, vang vọng những khúc thánh ca du dương của các thiên thần. Đây thật sự là thiên đường! Những điều mà đứa con gái ác quỷ này hứa hẹn chẳng là gì khác ngoài dối trá cả. Nó muốn dẫn mọi người đến địa ngục đấy! Đi với nó là đâm đầu vào nguy hiểm đó. Các bạn của tôi và tôi, những người thực sự chân thật, sẽ ở lại đây trong miền cực linh thiêng này, đời đời hát những khúc ca ngợi Đấng Tối Cao, người đã ban cho chúng tôi khả năng phán xét thật giả.”

Ông ta lại làm dấu thánh giá lần nữa, rồi cùng với bạn bè mình bỏ đi trong căm ghét và ghê tởm.

Lyra cảm thấy hoang mang. Liệu cô đã nhầm chăng? Có phải cô đã mắc một sai lầm trầm trọng không? Cô nhìn quanh: Sự ảm đạm và tan hoang ở khắp mọi nơi. Nhưng trước đây cô vẫn thường nhầm lẫn khi đánh giá vẻ ngoài của sự vật, tin tưởng Phu nhân Coulter vì nụ cười tuyệt đẹp và sức quyến rũ đượm mùi hương ngọt ngào của bà. Thật dễ để đánh giá sai lầm một thứ; và khi không có linh thú để dẫn đường, có lẽ lần này cô cũng nhầm chăng.

Nhưng rồi Will lay tay cô. Cậu đặt hai bàn tay lên mặt cô rồi giữ nó thật chặt.

“Cậu biết là không phải vậy mà,” cậu nói, “cũng giống như cậu có thể cảm nhận được điều đó. Đừng để ý! Tất cả bọn họ cũng đều thấy được rằng ông ta nói dối. Họ đang dựa vào chúng ta đấy. Đi nào, bắt đầu thôi.”

Cô bé gật đầu. Cô phải tin tưởng cơ thể mình và sự thật về những điều mà các giác quan chỉ bảo cho cô; cô biết Pan hẳn cũng sẽ làm thế.

Vậy là họ lên đường, nối theo sau là hằng hà sa số các hồn ma. Phía sau, quá xa nên hai đứa trẻ không thể nhìn thấy được, những cư dân khác thuộc thế giới của người chết đã nghe tin về việc đang xảy ra, và đang đến để gia nhập vào cuộc hành quân khổng lồ. Tialys và Salmakia bay ngược lại để quan sát, họ vui mừng khôn tả khi thấy đồng bào của mình cũng ở đó, và tất cả các giống loài sinh vật có ý thức khác đã từng bị Đấng Quyền Năng trừng phạt bằng đầy ải và tử hình. Trong số họ có những sinh vật trông không giống người chút nào, những sinh vật giống như người mulefa, những người mà Mary Malone hẳn sẽ nhận ra, và cả những hồn ma kì lạ nữa.

Nhưng Will và Lyra thì không có sức lực nào mà ngoái lại nhìn; tất cả những gì chúng có thể làm là tiến bước theo sau đám nhân điểu, và hi vọng.

“Có phải chúng ta sắp hoàn thành rồi không, Will?” Lyra thì thầm. “Có phải mọi việc sắp kết thúc không?”

Cậu không đoán nổi. Nhưng chúng đang yếu ớt và mệt mỏi đến mức cậu đành nói: “Phải, gần kết thúc rồi, chúng ta sắp làm xong rồi. Chúng ta sẽ được ra ngoài sớm thôi.”