- 24 - Phu nhân Coulter tại Geneva
Mẹ nào con nấy.
Ezekiel
Phu nhân Coulter đợi đến lúc trời sẩm tối trước khi tiến tới Học viện Thánh Jerome. Sau khi màn đêm phủ bóng, bà đưa chiếc phi cơ ý lực xuống qua lớp mây rồi chậm rãi di chuyển dọc theo bờ hồ ở độ cao ngang với ngọn cây. Học viện có hình dáng đặc biệt so với các tòa nhà cổ khác của Geneva, bà không mất nhiều thời gian để tìm thấy tòa tháp hình chóp, khoảng hõm tối của các dãy hành lang, tòa tháp to bè nơi Chủ tịch Tòa án Công giáo Kỉ luật sống. Trước đây bà đã từng tới thăm Học viện ba lần; bà biết rằng các chóp nhọn, đầu hồi và ống khói trên mái nhà che giấu vô vàn chỗ trốn, thậm chí cả cho một thứ lớn như chiếc phi cơ ý lực.
Chầm chậm bay trên lớp ngói lóng lánh với cơn mưa vừa dứt, bà lách cỗ máy vào một máng nước nhỏ nằm giữa một mái nhà lợp ngói dốc cao và bức tường dựng đứng của tòa tháp. Nơi này chỉ có thể nhìn thấy được từ tháp chuông của Nhà nguyện Sám Thánh gần đó; quả là một nơi lí tưởng.
Bà khéo léo hạ thấp chiếc phi cơ, để cho thân máy dài hai mét tự tìm điểm tựa và tự điều chỉnh để giữ cho buồng lái cân bằng. Bà bắt đầu thấy yêu thích cỗ máy này: Ngay khi bà vừa nghĩ về mệnh lệnh, nó đã lập tức thực hiện. Ngoài ra, cỗ máy còn rất yên lặng; nó có thể lơ lửng trên đầu ai đó đủ gần để họ có thể chạm vào, nhưng họ lại chẳng hề biết nó đang ở đó. Chỉ trong khoảng một ngày từ khi lấy cắp cỗ máy, Phu nhân Coulter đã làm chủ được bộ phận điều khiển, nhưng bà vẫn không hiểu nổi nó được cấp năng lượng như thế nào, và đó là điều duy nhất bà lo lắng; bà không có cách nào đoán được khi nào nhiên liệu hay pin bị cạn kiệt.
Sau khi chắc chắn rằng chiếc phi cơ đã đứng vững, và rằng mái nhà đủ vững chắc để đỡ lấy nó, bà cởi mũ bảo hiểm ra rồi trèo xuống.
Con linh thú của bà đã đang bẩy một trong những miếng ngói cũ nặng nề lên. Bà tham gia cùng nó, và chẳng mấy chốc họ đã nhấc ra được nửa tá, sau đó bà bẻ gãy lớp ván lót vốn đang được đóng vào, tạo ra một khoảng hở đủ lớn để chui qua.
“Vào kiểm tra xung quanh đi,” bà thì thầm, con linh thú liền thả người vào bóng tối phía dưới.
Bà có thể nghe thấy tiếng móng chân của con khỉ khi nó thận trọng đi lại trên sàn gác mái, và rồi khuôn mặt đen viền vàng của nó xuất hiện ở khoảng trống. Bà hiểu ra ngay lập tức và theo nó chui qua, chờ đợi để mắt điều tiết. Trong ánh sáng lờ mờ, bà dần dần nhìn thấy một gác mái dài nơi những hình dáng tối thẫm của các tủ chạn, bàn, giá sách, đồ đạc đủ loại được lưu giữ.
Việc đầu tiên bà làm là đẩy một cái tủ chạn cao ra trước khoảng trống nơi đã từng có ngói lợp. Rồi bà nhón chân bước tới cánh cửa trên bức tường phía đầu bên kia và thử xoay nắm đấm. Nó đã bị khóa, hẳn rồi, nhưng bà có sẵn một cái kẹp tóc, mà cái khóa lại khá đơn giản. Ba phút sau, bà và con linh thú của mình đang đứng cuối một hành lang dài, nơi một ô cửa sổ mái bụi bặm cho họ thấy một cầu thang hẹp dẫn xuống dưới ở đầu bên kia.
Và sau đó năm phút, họ đã mở được một ô cửa sổ trong phòng đựng thức ăn bên cạnh căn bếp dưới đó hai tầng gác, rồi trèo qua vào con hẻm nhỏ. Nhà gác của Học viện ở ngay cạnh đó. Như bà đã nói với con khỉ vàng, quan trọng là phải đến bằng cách chính thống, dù cho có định rời đi bằng cách nào đi chăng nữa.
•••
“Bỏ tay ra khỏi người ta,” bà điềm tĩnh nói với nhân viên bảo vệ, “và hãy tỏ ra lịch sự chút đi, nếu không ta sẽ lột da ngươi đấy. Nói với Chủ tịch rằng Phu nhân Coulter đã đến, và bà ấy muốn gặp ông ngay bây giờ.”
Người đàn ông giật lùi lại, con linh thú chó Pinscher của ông ta, vốn đang nhe răng về phía con khỉ vàng có vẻ mặt ôn hòa, lập tức co rúm lại và cụp đuôi xuống không thể thấp hơn.
Nhân viên bảo vệ quay tay cầm của chiếc điện thoại. Ngay phút sau, một linh mục trẻ với gương mặt lanh lợi vội vàng chạy vào nhà gác, chùi hai bàn tay vào áo choàng phòng trường hợp bà muốn bắt tay. Nhưng bà không làm vậy.
“Anh là ai?” Bà hỏi.
“Sư huynh Louis,” người đàn ông vừa nói vừa vỗ về con linh thú thỏ của mình, “nhân viên liên lạc thuộc Ban Bí thư Tòa án Công giáo. Nếu bà có thể…”
“Ta không đến đây để đàm phán với một kẻ quản lí giấy tờ,” bà nói. “Đưa ta đến gặp Cha MacPhail. Làm ngay đi.”
Người đàn ông bất lực cúi đầu rồi dẫn đường cho bà. Người bảo vệ đứng đằng sau liền thở phào nhẹ nhõm.
Sư huynh Louis, sau vài ba lần thử bắt chuyện, đã bỏ cuộc và lặng lẽ dẫn bà tới dãy phòng của Chủ tịch nằm trong tháp. Cha MacPhail đang trong giờ cầu kinh, khiến tay Sư huynh Louis run lên bần bật khi gõ cửa. Họ nghe thấy một tiếng thở dài và lầm bầm, rồi những tiếng bước chân nặng nề trên sàn nhà.
Đôi mắt Chủ tịch mở to khi thấy mặt vị khách, rồi ông nở một nụ cười hung ác.
“Phu nhân Coulter,” ông nói rồi chìa tay ra. “Rất mừng được gặp bà. Ta chỉ có căn phòng lạnh lẽo và lòng hiếu khách đơn sơ, nhưng xin chào mừng bà, mời vào.”
“Xin chào ông,” bà nói rồi theo ông vào trong căn phòng lát đá trống trải, để cho ông cuống quýt đôi chút rồi mời bà ngồi xuống ghế. “Cảm ơn anh,” bà nói với Sư huynh Louis vẫn đang đi lảng vảng xung quanh. “Ta sẽ dùng một cốc chocolatl.”
Vẫn chưa có thứ gì được đem ra mời, bà cũng biết rằng đối xử với anh ta như một người hầu chẳng khác gì một điều sỉ nhục, nhưng cái điệu bộ thấp hèn kia khiến anh ta xứng đáng với điều đó. Vị Chủ tịch gật đầu, và Sư huynh Louis đành phải đi giải quyết việc đó, dù anh ta đang cảm thấy cực kì tức tối.
“Hẳn nhiên rồi, bà đã bị bắt,” Chủ tịch nói, lấy một cái ghế khác rồi đẩy đèn hất lên cao.
“Ôi, chúng ta vừa mới bắt đầu mà ông đã phá hỏng không khí rồi,” Phu nhân Coulter nói. “Tôi tự nguyện tới đây ngay sau khi thoát được khỏi pháo đài của Asriel. Sự thật là, cha Chủ tịch ạ, tôi có một lượng lớn thông tin về các lực lượng của ông ta, cả về đứa bé nữa, tôi tới đây để cung cấp cho ông.”
“Vậy thì đứa bé. Bắt đầu với đứa bé đi.”
“Con gái tôi bây giờ đã sang tuổi mười hai. Chẳng mấy nữa mà nó sẽ tới đỉnh điểm của tuổi dậy thì, khi đó sẽ là quá muộn để bất cứ ai trong chúng ta ngăn chặn thảm họa đó; bản tính và thời cơ sẽ đến với nhau như tia lửa gặp bùi nhùi. Nhờ có sự chen ngang của ông, giờ thì sự việc dễ xảy ra hơn rất nhiều rồi. Hi vọng ông thấy thỏa mãn.”
“Nghĩa vụ của bà là phải mang nó đến đây cho chúng ta chăm lo. Nhưng thay vào đó, bà lại chọn lẩn trốn trong một hang núi - mặc dù làm sao một phụ nữ thông minh như bà lại hi vọng có thể ẩn trốn mãi quả thực là một điều bí ẩn đối với ta.”
“Có lẽ sẽ có rất nhiều thứ ông cảm thấy khó hiểu, thưa Ngài Chủ tịch, khởi đầu với những mối quan hệ giữa một người mẹ và con cái của cô ta. Nếu ông có ý nghĩ rằng tôi sẽ để con gái mình dưới sự chăm sóc - sự chăm sóc! - của một nhóm đàn ông bị ám ảnh nặng nề với tình dục, những kẻ có móng tay bẩn thỉu, bốc mùi mồ hôi từ tỉ năm trước, những kẻ với trí tưởng tượng lén lút sẽ lần mò lên cơ thể con bé như lũ gián - nếu ông cho rằng tôi sẽ đặt con gái mình vào tình thế đó, Ngài Chủ tịch ạ, thì ông còn ngờ nghệch hơn cả cách mà ông nghĩ về tôi đấy.”
Một tiếng gõ cửa vang lên trước khi ông ta kịp đáp lại, rồi Sư huynh Louis bước vào với hai li chocolatl trên một cái khay bằng gỗ. Anh ta đặt cái khay lên bàn rồi căng thẳng cúi đầu, mỉm cười với Chủ tịch với hi vọng sẽ được yêu cầu lưu lại; nhưng Cha MacPhail lại gật đầu về phía cửa, và người đàn ông trẻ tuổi đành miễn cưỡng rời đi.
“Vậy bà đã dự tính làm gì?” Chủ tịch hỏi.
“Tôi đã định đảm bảo cho nó được an toàn cho tới khi nguy hiểm qua đi.”
“Nguy hiểm đó là gì vậy?” Ông ta nói trong lúc trao cho bà li chocolatl.
“Ồ, tôi nghĩ ông biết ý tôi là gì. Đang có một kẻ cám dỗ ở đâu đó, một con rắn, có thể nói thế, và tôi phải ngăn không cho chúng gặp nhau.”
“Có một thằng bé đi cùng với nó.”
“Phải. Nếu ông không xen vào, cả hai đứa bọn chúng đã phải chịu kiểm soát của tôi rồi. Như thế này thì chúng có thể ở bất cứ đâu. Ít nhất thì chúng cũng không ở với Ngài Asriel.
“Ta không nghi ngờ vì việc ông ta sẽ đi tìm bọn chúng. Thằng bé sở hữu một con dao mang sức mạnh phi thường. Chỉ cần cái đó là đã đáng để đuổi theo chúng nó rồi.
“Tôi biết điều đó,” Phu nhân Coulter nói. “Tôi đã làm gãy được nó, nhưng thằng bé lại sửa được rồi.”
Bà đang mỉm cười. Chắc hẳn là bà không tán thành thằng bé đáng ghét này?
“Chúng ta biết,” ông ta nói ngắn gọn.
“Chà chà,” bà thốt lên. “Đan sĩ Pavel quả là đã trở nên nhanh nhẹn hơn rồi. Khi tôi mới quen biết, ông ta cần ít nhất là một tháng để đọc ra tất cả những điều đó.”
Bà nhấp một ngụm đồ uống, chocolatl gì mà vừa loãng vừa nhạt; chẳng khác gì những tu sĩ nhạt nhẽo này, bà nghĩ, khi áp đặt thứ tiết chế mà tự họ cho là đúng đắn lên cả khách khứa của mình.
“Hãy kể cho ta nghe về Ngài Asriel đi,” Chủ tịch nói. “Mọi điều về ông ta.”
Phu nhân Coulter ngả vào ghế một cách khoan khoái rồi bắt đầu kể - không phải mọi thứ, nhưng ông ta không mảy may nghi ngờ gì. Bà nói về pháo đài, về các đồng minh, các thiên thần, hầm mỏ và xưởng đúc.
Cha MacPhail ngồi không nhúc nhích đến một sợi cơ, con linh thú thằn lằn của ông tiếp thu và ghi nhớ từng chữ một.
“Vậy làm sao bà đến được đây?” Ông hỏi.
“Tôi đã đánh cắp một chiếc xa thăng. Nó bị cạn nhiên liệu nên tôi phải bỏ nó lại tại vùng đồng quê không cách đây xa. Tôi đã đi bộ cả quãng đường còn lại.”
“Ngài Asriel có đang tích cực tìm kiếm đứa con gái và thằng bé không?”
“Có chứ.”
“Ta cho là ông ta đang nhắm vào con dao. Bà có biết nó có tên gọi không? Lũ quỷ vực ở phương bắc gọi nó là Kẻ hủy diệt Chúa,” ông nói tiếp, bước tới bên cửa sổ và nhìn xuống những dãy hành lang nhà nguyện. “Đó là điều Asriel đang nhắm tới đúng không? Hủy diệt Đấng Quyền Năng? Có vài người tự cho là Chúa đã chết rồi. Có thể đoán được rằng Asriel không phải một trong số đó, nếu ông ta vẫn giữ ý định giết Đấng Quyền Năng.”
“Vậy, Chúa ở đâu,” Phu nhân Coulter nói, “nếu ông ta vẫn còn sống? Tại sao ông ta không lên tiếng nữa? Vào thuở khai thiên lập địa, Chúa dạo bước trong vườn, nói chuyện với Adam và Eve. Rồi ông ta bắt đầu rút đi, Moses chỉ còn có thể nghe thấy giọng ông ta. Sau đó, vào thời của Daniel, ông ta đã già đi - ông ta là Đấng Thượng Cổ. Giờ ông ta đang ở đâu? Có phải ông ta vẫn còn sống, ở một độ tuổi không thể tưởng tượng nổi, già yếu và loạn trí, không thể suy nghĩ, hành động, hay nói năng, mà lại chẳng thể chết nổi, một gã to xác vô dụng? Mà nếu đó quả thật là tình cảnh của ông ta, chẳng phải sẽ là từ bi nhất, bằng chứng đích thực nhất của tình yêu mà chúng ta dành cho Chúa, nếu tìm kiếm và trao tặng cho ông ta món quà của tử thần sao?”
Trong lúc nói, Phu nhân Coulter cảm nhận một niềm vui bình lặng trong mình. Bà không biết liệu mình có bao giờ sống sót mà thoát ra được không, nhưng việc nói chuyện theo cách đó với người đàn ông này khiến bà mê mẩn.
“Còn Bụi thì sao?” Ông hỏi. “Từ tận sâu trong tư tưởng dị giáo, quan điểm của bà về Bụi là gì?”
“Tôi không có quan điểm gì về Bụi,” bà nói. “Tôi không biết nó là gì hết. Chẳng ai biết cả.”
“Hiểu rồi. Ta đã bắt đầu bằng cách nhắc nhở bà rằng bà đã bị bắt. Có lẽ đã đến lúc phải tìm cho bà một chỗ để nghỉ ngơi rồi. Bà sẽ được thoải mái; không ai làm hại bà cả; nhưng bà sẽ không được đi đâu hết. Và chúng ta sẽ trao đổi nhiều hơn vào ngày mai.”
Ông rung chuông, Sư huynh Louis bước vào gần như ngay lập tức.
“Dẫn Phu nhân Coulter đến phòng khách đẹp nhất,” Chủ tịch nói. “Rồi khóa bà ấy ở trong.”
Phòng khách đẹp nhất hóa ra lại tồi tàn với vật dụng rẻ tiền, nhưng ít nhất thì nó cũng sạch sẽ. Sau khi ổ khóa xoay lại sau lưng, Phu nhân Coulter lập tức nhìn quanh để tìm máy vi âm, bà thấy một cái trong bộ đèn tinh xảo và một cái khác dưới khung giường. Bà ngắt nguồn của cả hai, rồi sau đó gặp một ngạc nhiên khủng khiếp.
Đang quan sát bà từ trên nóc tủ commode đằng sau cánh cửa là Ngài Roke.
Bà hét lên rồi tì một bàn tay lên tường để đỡ lấy người. Mật thám người Gallivespia đang ngồi vắt chân, hoàn toàn thoải mái, cả bà lẫn con khỉ vàng đều đã không nhìn thấy ông ta. Ngay khi nhịp tim đập dịu xuống, và hơi thở cũng chậm lại, bà cất tiếng: “Bao giờ ông mới định thực hiện phép lịch sự bằng cách cho tôi biết rằng ông đang ở đây vậy, thưa ông? Trước khi tôi thay đồ, hay là sau đó?”
“Trước,” ông ta đáp. “Bảo con linh thú của bà bình tĩnh lại đi, không tôi sẽ cho nó tàn tật luôn đấy.”
Con khỉ vàng đang nhe răng, lông trên người nó dựng đứng hết lên. Vẻ mặt hiểm độc thiêu đốt của nó đủ để khiến bất cứ người bình thường nào run sợ, nhưng Ngài Roke chỉ đơn thuần nở một nụ cười. Bộ cựa của ông ta lấp lánh trong ánh sáng mờ ảo.
Viên mật thám tí hon đứng dậy vươn người.
“Tôi vừa trao đổi với bộ hạ của mình tại pháo đài của Ngài Asriel,” ông nói tiếp. “Ngài Asriel gửi lời khen ngợi, và yêu cầu bà thông báo cho ông ấy biết ngay khi tìm hiểu được về dự định của những người này.”
Bà cảm thấy khó thở, như thể Ngài Asriel đã ném bà một cú thật mạnh trong lúc đấu vật vậy. Mắt mở to, bà từ từ ngồi xuống giường.
“Ông tới đây để do thám tôi hay để hỗ trợ vậy?” Bà hỏi.
“Cả hai, may cho bà là tôi ở đây đó. Ngay khi bà tới, họ đã thiết lập một hệ thống mạch gì đó bên dưới khu hầm. Tôi không biết nó là gì, nhưng có một đội các nhà khoa học đang lắp đặt vào lúc này. Có vẻ bà đã kích động họ rồi.
“Tôi không biết liệu mình nên thấy hãnh diện hay hoảng sợ nữa. Nhưng thật sự là tôi đã kiệt sức rồi, tôi phải đi ngủ đây. Nếu ông ở đây để giúp tôi thì ông có thể canh gác. Ông có thể bắt đầu bằng việc nhìn đi chỗ khác đấy.”
Ông ta cúi đầu rồi quay mặt vào tường cho tới khi bà đã rửa ráy trong cái bồn rửa bong tróc, lau người bằng một tấm khăn mỏng, cởi đồ và lên giường. Con linh thú của bà đi tuần tra trong phòng, kiểm tra tủ quần áo, giá để ảnh, rèm, quang cảnh khu hành lang tối om bên ngoài cửa sổ. Ngài Roke theo dõi từng bước đi của nó. Cuối cùng con khỉ vàng cũng tới bên Phu nhân Coulter, và họ lập tức thiếp đi.
Ngài Roke vẫn chưa kể hết cho bà những điều ông đã tìm hiểu được từ Ngài Asriel. Hội đồng minh đang theo dấu việc di chuyển của tất cả các sinh vật trong vùng không trung phía trên các biên giới của nước cộng hòa, và đã phát hiện ra sự tập trung của thứ có thể là các thiên thần, mà cũng có thể là một thứ gì đó hoàn toàn khác, ở hướng tây. Họ đã cử đội tuần vệ đi điều tra, nhưng cho đến giờ vẫn chưa tìm hiểu thêm được gì: Cái thứ đang lơ lửng ở đó đã tự bọc mình lại trong một màn sương bất khả xâm phạm.
Tuy nhiên, viên mật thám nghĩ rằng tốt hơn hết là không khiến Phu nhân Coulter phải lo lắng về điều đó; bà đã quá mệt rồi. Cứ để cho bà ngủ, ông quyết định, rồi ông lặng lẽ đi lại quanh phòng, lắng nghe nơi ngưỡng cửa, nhìn ra ngoài cửa sổ, tỉnh táo và đầy cảnh giác.
Một tiếng sau khi bà vào phòng, ông nghe thấy một tiếng động khe khẽ bên ngoài cửa: một tiếng nạo rất yếu ớt và một tiếng thì thầm. Cùng lúc đó, một luồng sáng lờ mờ chiếu rọi viền khung cửa. Ngài Roke lùi lại góc phòng xa nhất rồi đứng sau một cái chân của chiếc ghế mà bà đã lẳng quần áo lên.
Một phút trôi đi, rồi chìa khóa xoay rất nhẹ trong ổ. Cánh cửa hé ra một phân, không hơn, và rồi ánh sáng tắt lịm.
Ngài Roke có thể thấy đủ rõ trong ánh chiếu lờ mờ qua những tấm màn mỏng, nhưng kẻ đột nhập thì đang phải chờ cho mắt điều tiết. Cuối cùng cánh cửa cũng mở rộng hơn, rất từ tốn, và vị tu sĩ trẻ, Sư huynh Louis, bước vào.
Anh ta làm dấu thập giá rồi nhón chân đi tới giường. Ngài Roke đã sẵn sàng lao vào, nhưng vị linh mục chỉ đơn thuần lắng nghe tiếng thở đều đều của Phu nhân Coulter, kiểm tra thật kĩ xem bà đã ngủ thật chưa, rồi quay sang chiếc bàn cạnh giường.
Anh ta dùng tay che bóng đèn chạy pin rồi bật nó lên, để cho một tia sáng rất mảnh lọt qua kẽ ngón tay. Anh ta nhòm vào bàn sát tới mức mũi gần như chạm vào bề mặt, nhưng dù có đang tìm thứ gì thì anh ta cũng không thấy nó. Phu nhân Coulter đã đặt vài thứ lên đó trước khi leo vào giường: vài đồng xu, một chiếc nhẫn, đồng hồ đeo tay của bà; nhưng Sư huynh Louis không hứng thú với những thứ đó.
Anh ta quay lại nhìn bà, rồi thấy thứ mà mình đang tìm kiếm nên khẽ rít lên qua kẽ răng. Ngài Roke có thể thấy vẻ nhụt chí của anh ta: Thứ mà anh ta đang tìm kiếm là một tấm mề đay dạng hộp trên sợi dây chuyền vàng quanh cổ Phu nhân Coulter.
Ngài Roke lặng lẽ đi men theo dãy ván chân tường về phía cửa ra vào.
Vị linh mục lại làm dấu thập giá, vì anh ta sắp phải chạm vào người bà. Nín thở, anh ta cúi xuống giường - con khỉ vàng đột nhiên rùng mình.
Người đàn ông trẻ tuổi đóng băng, hai tay vẫn đang chìa ra. Con linh thú thỏ của anh ta run rẩy dưới chân chủ, hoàn toàn vô dụng: Ít nhất nó cũng có thể cảnh giới cho con người tội nghiệp này chứ, Ngài Roke nghĩ. Con khỉ trở mình trong giấc ngủ rồi lại nằm yên trở lại.
Sau một phút đứng như tượng sáp, Sư huynh Louis hạ thấp đôi tay run rẩy của mình xuống cổ Phu nhân Coulter. Anh ta rờ rẫm lâu đến mức Ngài Roke nghĩ khéo bình minh sẽ lên trước khi công việc lấy cắp này được hoàn thành, nhưng cuối cùng anh ta cũng nhẹ nhàng nâng cái mề đay lên và ngồi dậy.
Ngài Roke, nhanh nhạy và lặng lẽ như một con chuột, đã ra khỏi cửa trước khi vị linh mục kịp quay người lại. Ông đứng đợi trong khu hành lang tối thui, và khi người đàn ông trẻ rón rén bước ra rồi vặn khóa cửa, mật thám người Gallivespia liền bám theo sau.
Sư huynh Louis tiến đến tòa tháp. Khi vị Chủ tịch mở cửa phòng mình, Ngài Roke phóng vọt qua rồi hướng tới chiếc ghế cầu kinh nằm trong góc phòng. Rồi ông tìm thấy một gờ tường chìm trong bóng tối, nơi ông thu mình lắng nghe.
Cha MacPhail không chỉ có một mình: Chân Kế gia Đan sĩ Pavel đang bận rộn với đống sách vở của mình, và một dáng người khác đang căng thẳng đứng bên cửa sổ. Đó là Tiến sĩ Cooper, nhà thần học thực nghiệm đến từ Bolvangar. Cả hai đều ngẩng lên nhìn.
“Làm tốt lắm, Sư huynh Louis,” Chủ tịch nói. “Mang nó lại đây, ngồi xuống, cho ta xem, cho ta xem nào. Tốt lắm!”
Đan sĩ Pavel dịch chuyển vài cuốn sách, vị tu sĩ trẻ liền đặt sợi dây chuyền vàng lên bàn. Những người khác cúi xuống nhìn trong lúc Cha MacPhail hí hoáy với chiến lợi phẩm. Tiến sĩ Cooper đưa cho ông ta một con dao bỏ túi, và rồi một tiếng tách nhỏ vang lên.
“Hà!” Chủ tịch thở phào.
Ngài Roke trèo lên nóc bàn để có thể nhìn rõ. Trong ánh sáng đèn dầu lóe lên một ánh vàng thẫm: Đó là một lọn tóc, Chủ tịch đang vân vê nó giữa các kẽ ngón tay, xoay nó hết hướng này lại sang hướng kia.
“Chúng ta có chắc chắn rằng đây là tóc của đứa bé không?” Ông ta hỏi.
“Tôi xin đảm bảo,” giọng nói mệt mỏi của Đan sĩ Pavel vọng tới.
“Và thế này là đủ chứ, Tiến sĩ Cooper?”
Người đàn ông mặt tái nhợt cúi xuống thấp rồi cầm lấy lọn tóc từ những ngón tay của Cha MacPhail. Ông giơ nó lên ánh sáng.
“Ồ, vâng,” ông đáp. “Một sợi tóc cũng là đủ rồi. Thế này thì dư dả quá.”
“Ta rất vui khi nghe thấy như vậy,” Chủ tịch nói. “Bây giờ, Sư huynh Louis ạ, anh phải trả lại chiếc mề đay lên cổ của vị phu nhân tốt bụng.”
Vị linh mục hơi chùn xuống: Anh ta cứ hi vọng nhiệm vụ thế là đã xong. Chủ tịch đặt lọn tóc của Lyra vào một tấm phong bì rồi đóng chiếc mề đay lại, vừa ngước lên nhìn xung quanh vừa làm vậy, khiến Ngài Roke phải trốn đi.
“Thưa Cha Chủ tịch,” Sư huynh Louis nói, “tôi đương nhiên sẽ làm theo mệnh lệnh của ngài, nhưng liệu tôi có thể biết vì sao ngài lại cần tóc của đứa bé không?”
“Không, Sư huynh Louis ạ, vì điều đó sẽ khiến anh bị xáo trộn. Cứ để những vấn đề này cho chúng ta lo. Đi đi.”
Người đàn ông trẻ tuổi cầm lấy cái mề đay và bỏ đi, cơn phẫn uất bùng lên âm ỉ trong người. Ngài Roke nghĩ đến việc trở lại cùng với anh ta, rồi đánh thức Phu nhân Coulter dậy ngay khi anh ta định thay thế sợi dây, để xem bà sẽ làm gì; nhưng việc quan trọng hơn là phải tìm ra xem những người này dự tính làm gì.
Sau khi cửa đóng lại, mật thám người Gallivespia quay trở lại trong bóng tối và lắng nghe.
“Làm sao ông biết được bà ta cất giữ nó ở đâu?” Nhà khoa học hỏi.
“Cứ mỗi lần nhắc đến đứa trẻ,” Chủ tịch giải thích, “bà ta lại đưa tay lên chiếc mề đay. Giờ thì, bao giờ thì nó sẵn sàng được?”
“Chỉ vài giờ thôi,” Tiến sĩ Cooper đáp.
“Còn lọn tóc? Ông sẽ làm gì với nó?”
“Chúng tôi sẽ đặt nó vào buồng cộng hưởng. Ông biết đó, mỗi cá nhân đều rất đặc biệt, và sự sắp xếp của các hạt di truyền cũng rất khác nhau… Vâng, ngay sau khi được phân tích, thông tin sẽ được mã hóa thành một chuỗi xung mạch và được chuyển đến thiết bị đích. Nó sẽ định vị được nguồn gốc của vật liệu, của lọn tóc, dù cho con bé có ở đâu đi nữa. Quá trình này thật ra là tận dụng thuyết dị giáo Barnard-Stokes, ý tưởng về đa thế giới…”
“Đừng tự làm mình lo sợ, Tiến sĩ ạ. Đan sĩ Pavel đã cho ta biết rằng đứa trẻ đang ở trong một thế giới khác. Xin cứ nói tiếp. Sức mạnh của quả bom sẽ được định hướng nhờ những sợi tóc này?”
“Vâng. Từ từng sợi tóc của người mà chúng đã bị cắt rời ra. Đúng vậy.”
“Vậy khi nó nổ, đứa trẻ sẽ bị hủy diệt, dù cho nó có ở đâu đi nữa?”
Một tiếng hít nặng nề phát ra từ nhà khoa học, rồi tới câu trả lời miễn cưỡng “Vâng”. Ông nuốt nước miếng rồi nói tiếp: “Phải cần tới nguồn năng lượng khổng lồ. Năng lượng mạch. Cũng giống như một quả bom nguyên tử cần chất nổ có sức công phá lớn để ép uranium lại với nhau và khởi động chuỗi phản ứng, thiết bị này cần một dòng mạch vĩ đại để giải phóng một năng lượng lớn hơn nhiều của quá trình cắt đứt. Tôi đang tự hỏi…”
“Không quan trọng nó nổ chỗ nào, phải không?”
“Phải. Đó mới là điểm mấu chốt. Bất cứ đâu cũng được.”
“Vậy nó đã hoàn toàn sẵn sàng rồi chứ?”
“Giờ khi đã có lọn tóc, phải. Nhưng nguồn năng lượng, ông thấy đấy…”
“Ta đã cân nhắc điều đó rồi. Trạm phát thủy mạch tại Saint- Jean-les-Eaux đã được trưng dụng cho chúng ta dùng. Họ sản xuất ra đủ năng lượng ở đó, ông không nghĩ vậy sao?”
“Vâng,” nhà khoa học đáp.
“Vậy thì chúng ta nên bắt đầu ngay thôi. Ông hãy đi kiểm tra cỗ máy đi, Tiến sĩ Cooper. Hãy sẵn sàng để vận chuyển nó ngay khi có thể. Thời tiết trên núi thay đổi rất nhanh chóng, có một cơn bão lại đang ập tới nữa.”
Nhà khoa học nhận lấy tấm phong bì nhỏ đựng tóc của Lyra rồi căng thẳng cúi chào trước khi bỏ đi. Ngài Roke cũng đi cùng với ông ta, lặng lẽ như một cái bóng.
Ngay khi đã ra khỏi tầm nghe từ phòng của Chủ tịch, mật thám người Gallivespia liền xông tới. Tiến sĩ Cooper, đứng dưới viên mật thám trên cầu thang, cảm thấy một cú chích đau nhói trên vai mình, ông liền tóm lấy tay vịn: Nhưng với cánh tay yếu ớt đến kì lạ, ông ta trượt chân và lộn nhào xuống tận chân cầu thang, gần như bất tỉnh.
Ngài Roke gặp chút khó khăn khi giật tấm phong bì ra khỏi bàn tay đang co giật của người đàn ông, vì nó to bằng nửa người ông, rồi lẩn vào bóng tối, tiến về phía căn phòng nơi Phu nhân Coulter đang say ngủ.
Khe hở dưới chân cửa đủ rộng để cho ông luồn qua. Sư huynh Louis đã đến và đi, nhưng anh ta không dám thử cài sợi dây chuyền quanh cổ Phu nhân Coulter: Nó được đặt lại trên gối bên cạnh bà.
Ngài Roke ấn vào tay bà để đánh thức bà dậy. Phu nhân Coulter đã hoàn toàn kiệt sức, nhưng mắt bà tập trung vào ông ta ngay lập tức. Bà ngồi dậy và dụi mắt.
Ông giải thích chuyện xảy ra rồi đưa tấm phong bì cho bà.
“Bà nên hủy nó ngay lập tức đi,” ông nói, “một sợi tóc cũng là đủ, người đàn ông đã nói vậy.”
Bà nhìn lọn tóc nhỏ màu vàng thẫm rồi lắc đầu.
“Quá muộn để làm vậy rồi,” bà nói. “Đây chỉ là một nửa lọn tóc tôi cắt từ Lyra. Ông ta hẳn đã giữ lại một ít.”
Ngài Roke liền tức tối rít lên.
“Khi hắn nhìn xung quanh!” Ông kêu lên. “A - tôi đã phải di chuyển để ra khỏi tầm mắt của hắn - chắc hẳn lúc đó hắn đã để nó sang một bên…”
“Mà chẳng có cách nào biết được ông ta đã để nó ở đâu,” Phu nhân Coulter nói. “Nhưng nếu chúng ta có thể tìm thấy quả bom…”
“Suỵt!”
Đó là tiếng của con khỉ vàng. Nó đang thu người nghe ngóng bên cửa ra vào, và rồi họ cũng nghe thấy: Những tiếng bước chân nặng nề, vội vã chạy về phía căn phòng.
Phu nhân Coulter dúi chiếc phong bì và lọn tóc cho Ngài Roke, ông ta vội cầm lấy rồi nhảy lên nóc tủ quần áo. Sau đó bà nằm xuống cạnh con linh thú của mình đúng lúc chìa khóa vặn ầm ĩ trên cửa.
“Nó đâu rồi? Bà đã làm gì với nó? Bà đã tấn công Tiến sĩ Cooper như thế nào?” Giọng nói khàn đặc của vị Chủ tịch cất lên khi ánh sáng hắt lên giường.
Phu nhân Coulter hất một cánh tay lên để che mắt rồi vất vả ngồi dậy.
“Ông quả là rất thích giúp cho khách khứa giải trí,” bà ngái ngủ nói. “Đây là một trò chơi mới à? Tôi phải làm gì đây? Mà Tiến sĩ Cooper là ai thế?”
Nhân viên bảo vệ ở nhà gác bước vào cùng với Cha MacPhail, rọi đèn pin vào các góc phòng rồi dưới gầm giường, Chủ tịch cảm thấy hơi bối rối: Mắt Phu nhân Coulter nặng trĩu vì ngái ngủ, bà gần như không thể nhìn nổi trong ánh đèn hắt vào từ ngoài hành lang. Rõ ràng là bà chưa hề rời khỏi giường.
“Bà có đồng phạm,” ông nói. “Có kẻ nào đó đã tấn công một vị khách của học viện. Đó là ai? Ai đã đến đây cùng với bà? Hắn ta đang ở đâu?”
“Tôi hoàn toàn không hiểu nổi ông đang nói về chuyện gì. Mà cái gì thế này…?”
Bàn tay bà vừa chống xuống để đỡ người ngồi dậy đã đặt trúng vào chiếc mề đay nằm trên gối. Bà dừng lại, cầm nó lên, nhìn về phía Chủ tịch với đôi mắt ngái ngủ đang mở to, và Ngài Roke thấy được một màn diễn kịch xuất sắc khi bà nói vẻ bối rối: “Nhưng đây là… sao nó lại ở đây? Cha MacPhail, ai đã ở đây vậy? Có kẻ nào đó đã lấy thứ này từ cổ tôi ra. Mà - tóc của Lyra đâu rồi? Có một lọn tóc của con gái tôi ở trong này. Ai đã lấy nó đi? Tại sao? Chuyện gì đang diễn ra thế này?”
Và giờ bà đã đứng dậy, tóc rối bời, giọng nói sôi sục - rõ ràng bà cũng hoang mang không kém gì chính ông Chủ tịch.
Cha MacPhail lùi lại một bước rồi chống tay lên đầu.
“Chắc chắn một kẻ nào khác đã đến cùng với bà. Chắc chắn phải có một kẻ đồng phạm,” ông ta nói bằng một giọng the thé. “Hắn đang trốn ở đâu?”
“Tôi không có đồng phạm nào hết,” bà giận dữ nói. “Nếu có một kẻ ám sát vô hình tại nơi này, tôi chỉ có thể hình dung ra đó chính là Quỷ dữ thôi. Tôi dám chắc rằng hắn đang thấy thoải mái như ở nhà mình vậy.”
Cha MacPhail nói với nhân viên bảo vệ: “Đưa bà ta xuống hầm. Xích bà ta lại. Ta biết chính xác điều chúng ta có thể làm với người đàn bà này; đáng ra ta nên nghĩ tới việc đó ngay khi bà ta xuất hiện.”
Bà điên cuồng nhìn xung quanh và bắt gặp ánh mắt của Ngài Roke, long lanh trong bóng tối gần trần nhà, trong một tích tắc. Ông lập tức bắt được biểu cảm của bà, và hiểu ra chính xác việc bà muốn mình thực hiện.