← Quay lại trang sách

- 25 - Saint-Jean-les-Eaux

Chiếc vòng tay làm từ tóc sáng bên khung xương

John Donne

Thác nước lớn của Saint-Jean-les-Eaux đổ xuống giữa những chóp đá nhọn hoắt tại đầu phía đông của một mũi núi thuộc dãy Alps, còn trạm phát thì bám ở sườn núi phía trên đó. Đây là một vùng đất hoang dại, trống trải và méo mó, đáng ra đã chẳng có ai xây dựng bất cứ thứ gì ở đây, nếu không phải vì triển vọng vận hành những cỗ máy phát mạch khổng lồ nhờ sức của hàng ngàn tấn nước đang ầm ào chảy qua hẻm núi.

Lúc đó là buổi đêm sau cái ngày Phu nhân Coulter bị bắt, bão tố bắt đầu nổi lên. Gần tảng đá dựng đứng nằm trước trạm phát, một chiếc zeppelin bay chậm dần rồi lơ lửng trong gió táp dữ dội. Những ngọn đèn dò đường bên dưới chiếc phi cơ khiến nó trông như thể đang đứng trên vài cái chân làm từ ánh sáng và đang dần dần hạ thấp người để nằm xuống.

Nhưng viên phi công không cảm thấy thỏa mãn; các sống núi đã biến gió thành lốc xoáy và gió tạt ngang. Bên cạnh đó, các dây cáp, cột tháp, máy biến thế lại ở quá gần: Một chiếc zeppelin chứa đầy khí cháy mà bị tạt vào giữa những thứ đó thì sẽ gây ra thảm họa tức thì. Mưa tuyết đập xiên vào lớp vỏ cứng vĩ đại của chiếc phi cơ, tạo ra tiếng ồn gần như nhấn chìm tiếng lạch cạch gầm rú của các động cơ đang bị quá tải, và che lấp tầm nhìn xuống mặt đất.

“Không phải ở đây,” viên phi công hét lên át tiếng ồn. “Chúng ta sẽ vòng qua mũi núi.”

Cha MacPhail hừng hực quan sát khi viên phi công đẩy van tiết lưu lên trước và điều chỉnh trọng tải của các động cơ. Chiếc zeppelin tròng trành dâng lên rồi bay qua gờ núi. Những cái chân bằng ánh sáng đột ngột kéo dài ra, rồi dường như đang lần tìm đường đi xuống khỏi đỉnh núi, đầu dưới thấp của chúng biến mất trong cơn lốc xoáy của bão tuyết và mưa.

“Ông không thể đến gần trạm hơn thế này à?” Chủ tịch hỏi, ngả người về phía trước để giọng của mình tới được chỗ phi công.

“Không, nếu ông muốn hạ cánh,” viên phi công đáp.

“Phải, chúng tôi muốn hạ cánh. Hiểu rồi, cho chúng tôi xuống chỗ bên dưới đỉnh núi đi.”

Phi công ra lệnh cho phi hành đoàn chuẩn bị dây neo. Do thiết bị mà họ sắp dỡ xuống vừa nặng lại vừa dễ vỡ, việc buộc chắc chiếc phi cơ là rất quan trọng. Chủ tịch ngả người ra sau, gõ gõ các ngón tay lên tay vịn của ghế ngồi, gặm môi, nhưng không nói gì và để yên cho người phi công làm việc.

Từ chỗ trốn của mình trong những vách ngăn nằm ngang ở đằng sau buồng lái, Ngài Roke đứng quan sát. Vài lần trong suốt chuyến bay, hình dạng mờ ảo nhỏ xíu của ông đã chạy qua đằng sau lớp lưới kim loại, hiện rõ mồn một nếu có ai đó đang nhìn, chỉ cần họ quay đầu lại; nhưng để nghe được chuyện gì đang diễn ra, ông phải tới nơi mà họ có thể thấy được ông. Rủi ro là điều không thể tránh khỏi.

Ông lách người lên phía trước, căng tai ra lắng nghe trong tiếng rống của động cơ, tiếng ầm ầm của mưa đá và bão tuyết, tiếng ca chói tai của gió trong các ống dây, và tiếng lạch cạch của những bàn chân đi giày bốt trên các cầu ván bằng kim loại. Viên kĩ sư hàng không gọi vài người đến trước phi công, ông ta xác nhận họ, và Ngài Roke lùi lại vào trong bóng tối, bám chặt vào các thanh chống và xà trong lúc chiếc khí cầu lao xuống rồi nghiêng đi.

Cuối cùng, cảm nhận được từ chuyển động của con tàu rằng nó đã gần như được neo chắc, ông trở về qua lớp vỏ của buồng lái để tới dãy ghế bên phía mạn phải.

Các thành viên của phi hành đoàn, kĩ thuật viên, tu sĩ, tất cả đều đang rầm rập qua lại ở cả hai hướng. Đa phần linh thú của họ đều là chó, vẻ mặt đầy hiếu kì. Ở phía bên kia của lối đi, Phu nhân Coulter ngồi thao thức và im lặng, con khỉ vàng của bà quan sát mọi thứ từ trên lòng chủ nhân, cả người tỏa ra đầy ác tâm.

Ngài Roke chờ đợi thời cơ rồi lao vút sang ghế của Phu nhân Coulter, ông đứng trong bóng tối do vai bà tạo ra trong một lúc.

“Họ đang làm gì vậy?” Bà lầm rầm.

“Đáp khí cầu. Chúng ta đang ở gần trạm phát rồi.”

“Ông có định ở lại với tôi không, hay sẽ tự làm việc của mình?” Bà thì thầm.

“Tôi sẽ ở lại với bà. Tôi sẽ phải trốn dưới áo khoác của bà.”

Bà đang mặc một chiếc áo choàng nặng trịch bằng da cừu, nóng đến bức bí trong căn buồng bật sưởi, nhưng với đôi tay bị cùm, bà không thể cởi nó ra được.

“Vào luôn đi,” bà nói trong lúc nhìn quanh, ông liền phóng vào trong ngực bà, tìm thấy một cái túi viền lông nơi ông có thể ngồi một cách an toàn. Con khỉ vàng nhét cái cổ áo bằng lụa của Phu nhân Coulter vào phía trong một cách đầy quan tâm, hệt như một nhà thiết kế trang phục khó tính chăm chút cho người mẫu ưa thích của mình, trong suốt lúc đó đảm bảo rằng Ngài Roke đã hoàn toàn được giấu kín giữa những nếp gấp của cái áo khoác.

Nó hành động vừa kịp lúc. Chưa đầy một phút sau, một binh sĩ trang bị súng trường bước tới ra lệnh cho Phu nhân Coulter ra khỏi khí cầu.

“Tôi bắt buộc phải đeo mấy cái cùm tay này à?” Bà hỏi.

“Tôi chưa được lệnh gỡ chúng ra,” anh ta nói. “Làm ơn đứng dậy”

“Nhưng nếu không thể bám vào đâu, tôi sẽ rất khó di chuyển. Cả người tôi cứng đờ rồi - tôi đã ngồi đây gần như cả ngày mà không nhúc nhích - với lại anh cũng biết là tôi không có bất cứ thứ vũ khí nào, vì anh đã khám xét tôi rồi. Hãy đi hỏi Chủ tịch xem có thật sự cần thiết phải còng tôi lại không. Chẳng lẽ tôi lại thử chạy trốn tại cái nơi khỉ ho cò gáy này?”

Ngài Roke không chịu tác động bởi sức cuốn hút của bà, nhưng lại hứng thú với ảnh hưởng của nó lên những người khác. Viên vệ binh là một thanh niên trẻ tuổi: đáng ra họ nên cử một chiến binh già tóc hoa râm mới phải.

“Vâng,” viên vệ binh nói, “tôi dám chắc là bà sẽ không làm vậy, thưa bà, nhưng tôi không thể tuỳ tiện làm khi chưa nhận được mệnh lệnh. Bà thấy đấy, tôi dám chắc là như vậy. Xin hãy đứng dậy, thưa bà, nếu bà có bị sẩy chân, tôi sẽ giữ lấy tay bà.”

Phu nhân Coulter đứng dậy, Ngài Roke cảm nhận được rằng bà đang vụng về tiến về phía trước. Bà là con người thanh nhã nhất mà mật thám người Gallivespia này từng gặp: Sự vụng về chỉ là giả vờ. Khi họ tới đầu cầu tàu, Ngài Roke cảm thấy bà vấp ngã rồi hét lên hoảng hốt, sau đó là chấn động khi viên vệ binh tóm lấy tay bà. Ông cũng nghe thấy sự thay đổi từ những âm thanh quanh họ; tiếng gió hú, tiếng các động cơ đều đều quay để sản sinh năng lượng thắp sáng, nhũng tiếng ra lệnh vọng tới từ đâu đây.

Họ bước xuống cầu tàu, Phu nhân Coulter tì hẳn vào người viên vệ binh. Bà đang nói rất khẽ, và câu trả lời của anh ta cũng vừa đủ to để Ngài Roke nghe được.

“Trung sĩ, thưa bà - ở đằng kia bên cạnh cái thùng gỗ lớn - ông ấy có chìa khóa. Nhưng tôi không dám hỏi ông ấy, thưa bà, tôi rất tiếc.”

“Ồ vậy à,” bà nói rồi thở dài thườn thượt đầy tiếc nuối. “Dù sao cũng cảm ơn anh.”

Ngài Roke nghe thấy tiếng bước chân mang giày bốt bỏ đi trên nền đá, và rồi bà thì thầm:

“Ông nghe về chùm chìa khóa rồi chứ?”

“Cho tôi biết viên trung sĩ ở đâu. Tôi cần biết địa điểm và khoảng cách.”

“Cách khoảng mười bước chân của tôi. Bên phải. Một người đàn ông to béo. Tôi có thể thấy đống chìa khóa được xâu thành chùm ở thắt lưng ông ta.”

“Tôi mà không biết là cái nào thì không được đâu. Bà có thấy lúc họ khóa còng chứ?”

“Có. Một cái chìa khóa ngắn ngủn và dày cộp với băng dính đen quấn quanh.”

Ngài Roke chầm chậm trèo xuống, tay đổi tay, trong lớp lông dày của cái áo choàng, cho tới khi ông đến được viền áo ở tầm đầu gối của bà. Rồi ông bám chắc và nhìn quanh.

Một cây đèn pha đã được lắp đặt và đang phả ánh sáng chói lọi trên những tảng đá ướt. Nhưng khi nhìn xuống, kiểm tra khắp nơi để tìm chỗ bóng đổ, ông thấy ánh đèn bắt đầu bị tạt sang một bên bởi một luồng gió mạnh. Ông nghe thấy một tiếng hét, rồi ánh sáng đột ngột tắt phụt đi.

Ông lập tức nhảy xuống đất rồi lao qua màn mưa tuyết vùn vụt quất, hướng tới chỗ viên trung sĩ, người đang lảo đảo ngả về phía trước, cố gắng bắt lấy cây đèn pha đang đổ xuống.

Trong cơn hỗn loạn, Ngài Roke nhảy tới chân của gã đàn ông to lớn vào lúc nó xoay qua người ông, tóm lấy lớp vải bông ngụy trang trên quần hắn - nặng trĩu đầy nước mưa - rồi thọc một bên cựa vào phần thịt ngay phía trên ống giày.

Viên trung sĩ gầm lên một tiếng rồi vụng về ngã vật xuống, ôm chặt lấy chân, cố gắng thở, cố gắng hét lên. Ngài Roke rút cựa ra rồi nhảy bắn ra khỏi cơ thể đang gục xuống.

Chẳng có ai để ý thấy: Tiếng ồn từ gió, động cơ, tiếng mưa đá đập bồm bộp đã bịt lấy tiếng kêu của người đàn ông, và trong bóng tối, không ai thấy được cơ thể của hắn. Nhưng còn có những người khác đang đứng gần đó nên Ngài Roke phải thực hiện khẩn trương. Ông nhảy lên sườn của gã đàn ông vừa ngã xuống, nơi chùm chìa khóa nằm trong một vũng nước lạnh cóng, rồi lôi sang một bên những tấm sắt lớn, chu vi to bằng cánh tay và dài bằng nửa người ông, cho tới khi tìm thấy cái có bọc băng dính đen. Ngoài ra, ông còn phải vật lộn với cái móc của vòng đeo chìa khóa và rủi ro không ngừng tới từ mưa đá, một thứ nguy hiểm chết người đối với người Gallivespia: Những khối băng to như hai nắm đấm của ông cộng lại.

Rồi một giọng nói phía trên ông vang lên: “Ông ổn chứ, Trung sĩ?”

Linh thú của người lính đang gầm gừ và sục sạo ngửi viên trung sĩ, giờ đã rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê. Ngài Roke không thể đợi được: Một cú nhảy và một cú đá, rồi người kia đổ xuống bên cạnh viên trung sĩ.

Vừa kéo, vừa bẻ, vừa nâng, Ngài Roke cuối cùng cũng mở được vòng treo chìa khóa ra, rồi ông phải nâng sáu chiếc chìa khác ra trước khi lấy được chiếc có băng dính đen. Họ có thể bật đèn lên lại bất cứ lúc nào, nhưng kể cả trong cảnh tranh tối tranh sáng, họ cũng khó có thể bỏ qua hai người đàn ông đang nằm bất tỉnh…

Trong lúc ông đang nâng chiếc chìa khóa ra thì một tiếng hét vọng tới. Ông bèn dùng hết sức bình sinh kéo miếng sắt đồ sộ lên, giật, lôi, nâng, lết, kéo, rồi trốn vào bên hông một tảng đá nhỏ vừa lúc tiếng bước chân rầm rập kéo tới và tiếng ra lệnh thắp sáng vang lên.

“Bị bắn à?”

“Chẳng nghe thấy gì cả…”

“Họ còn thở không?”

Rồi cây đèn pha, sau khi được cố định lại, liền được bật lên một lần nữa. Ánh sáng rọi thẳng vào chỗ Ngài Roke đang trốn, rõ như một con cáo trước ánh đèn pha xe hơi. Ông đứng im như tượng, mắt đảo hết sang trái rồi lại sang phải, và khi đã biết chắc rằng mọi người đang dồn sự chú ý lên hai người đàn ông vừa ngã xuống một cách bí ẩn, ông nâng chiếc chìa khóa lên vai rồi chạy vòng qua những vũng nước mưa và đá cuội cho tới khi đến được chỗ Phu nhân Coulter.

Chỉ một giây sau, bà đã mở được khóa còng và nhẹ nhàng thả nó xuống mặt đất. Ngài Roke nhảy lên vạt áo khoác rồi chạy lên vai bà.

“Quả bom ở đâu?” Ông hỏi sát ngay tai bà.

“Họ vừa mới bắt đầu dỡ nó xuống. Chính là cái thùng gỗ lớn trên mặt đất đằng kia. Tôi không thể làm gì cho tới khi họ dỡ nó ra, mà ngay cả khi đó…”

“Được rồi,” ông nói, “đi đi. Trốn đi. Tôi sẽ ở lại đây quan sát. Đi đi!”

Ông nhảy xuống đến tay áo bà rồi vụt lao đi. Không gây ra một tiếng động nào, bà lẩn khỏi ánh đèn, ban đầu thật chậm rãi để không gây chú ý đến viên vệ binh, rồi bà thu mình chạy vào bóng tối bị mưa quật phía cao trên con dốc, con khỉ vàng lao đi trước để nhìn đường.

Phía sau, bà vẫn nghe thấy tiếng gầm không ngớt của các động cơ, những tiếng hét đầy lúng túng, giọng nói quyền lực của Chủ tịch đang cố gắng ra chỉ thị ngay tại chỗ. Bà nhớ lại cơn đau và ảo giác dai dẳng khủng khiếp mà mình phải chịu do cựa của Hiệp sĩ Tialys, bà chẳng ham muốn gì quá trình hồi tỉnh của hai người đàn ông đâu.

Nhưng chẳng bao lâu sau bà đã ở trên cao, leo qua những tảng đá ướt đẫm, và tất cả những gì bà có thể nhìn thấy phía sau là ánh sáng bập bùng của cây đèn pha phản chiếu ngược trở lại từ cái bụng căng tròn của chiếc zeppelin; nhưng ngay lúc đó nó lại phụt tắt, và tất cả những gì bà có thể nghe thấy là tiếng gầm động cơ, gắng sức một cách vô ích trước gió và thác nước lớn đang ầm ào đổ xuống.

Các kĩ sư từ trạm thủy mạch đang vật lộn trên rìa hẻm núi để đem cáp phát động đến chỗ quả bom.

Vấn đề của Phu nhân Coulter không phải là làm thế nào để sống sót thoát ra khỏi tình huống này: Đó chỉ là vấn đề thứ yếu. Vấn đề là làm sao lấy được tóc của Lyra ra khỏi quả bom trước khi người ta khởi động nó. Ngài Roke đã đốt chỗ tóc trong phong bì sau khi bà bị bắt đi, để cho gió mang tàn tro vào bầu trời đêm; sau đó ông tìm đường đến phòng thí nghiệm và quan sát họ đặt phần còn lại của lọn tóc màu vàng sẫm vào buồng cộng hưởng để chuẩn bị. Ông biết chính xác nó ở đâu, và làm cách nào để mở được căn phòng, nhưng thứ ánh sáng rực rỡ và các bề mặt lấp lánh bên trong phòng thí nghiệm, chưa nói đến việc các kĩ thuật viên cứ liên tục đến và đi, khiến ông không thể can thiệp vào bất cứ việc gì ở đó.

Vì vậy họ sẽ phải gỡ lọn tóc ra sau khi quả bom đã được thiết lập.

Nhưng việc đó sẽ còn khó khăn hơn, vì điều mà Chủ tịch định làm với Phu nhân Coulter. Năng lượng cho quả bom tới từ việc cắt rời mối liên kết giữa con người và linh thú, đồng nghĩa với quá trình cắt đứt đáng ghê tởm: những cái lồng bằng lưới, máy chém bằng bạc. Ông ta định chia tách mối liên kết cả đời giữa bà và con khỉ vàng, rồi sử dụng năng lượng giải phóng ra từ đó để hủy diệt con gái của bà. Bà và Lyra sẽ phải bỏ mạng bằng chính phương pháp mà bà đã sáng chế ra. Ít nhất thì nó cũng nhanh gọn, bà nghĩ.

Hi vọng duy nhất của bà là Ngài Roke. Nhưng trong những lần thì thầm trao đổi trên chiếc zeppelin, ông đã giải thích về sức mạnh của những cái cựa tẩm độc của mình: Ông không thể liên tục sử dụng chúng, bởi vì sau mỗi lần chích, nọc độc sẽ bị yếu đi. Phải mất một ngày để hiệu lực được hồi phục đầy đủ. Chẳng mấy chốc, vũ khí chủ chốt của ông sẽ mất tác dụng, và họ sẽ chỉ còn lại trí thông minh của mình.

Bà tìm thấy một tảng đá nhô ra bên cạnh bộ rễ của một cây vân sam bám trên sườn của hẻm núi, rồi ngồi xuống bên dưới để nhìn ra xung quanh.

Ở đằng sau và phía trên bà, qua miệng của khe núi và trong áp lực mãnh liệt của gió, tọa lạc trạm phát mạch. Các kĩ sư đang lắp đặt một loạt đèn chiếu để hỗ trợ việc chuyển dây cáp đến chỗ quả bom: Bà có thể nghe thấy giọng họ ở cách đó không xa, hét lên các mệnh lệnh, và thấy ánh sáng chập chờn qua những tán cây. Bản thân sợi dây cáp, dày như cánh tay một người đàn ông, đang được kéo ra từ một ống dây khổng lồ trên chiếc xe tải ở đỉnh dốc. Nếu đi lách xuống qua những tảng đá, họ sẽ tới được chỗ quả bom trong vòng năm phút hoặc ít hơn.

Bên chiếc zeppelin, Cha MacPhail đã tập hợp binh sĩ lại. Vài người đứng gác, phóng tầm mắt ra bóng tối dày đặc mưa tuyết với súng trường sẵn sàng trong tay, trong lúc những người khác mở cái thùng gỗ chứa quả bom và chuẩn bị cho nó sẵn sàng tiếp nhận sợi cáp. Phu nhân Coulter có thể thấy quả bom rõ mồn một trong ánh đèn pha sáng rực, tuôn chảy cùng với mưa, một đống máy móc và dây nhợ cồng kềnh nằm hơi nghiêng trên nền đá. Bà nghe thấy tiếng lách tách và o o đầy căng thẳng phát ra từ mấy cây đèn, nơi những sợi cáp đu đưa trong gió, làm tung rắc nước mưa, hắt bóng lên những tảng đá rồi lại hạ xuống, như một sợi dây nhảy kì cục.

Phu nhân Coulter thấy quen thuộc một cách khó chịu với một phần của cấu trúc này: Những cái lồng bằng lưới, với lưỡi dao bạc treo bên trên, chúng đứng ở một đầu của cỗ máy. Phần còn lại của nó lại xa lạ với bà; bà không thể hiểu nổi chút nguyên lí nào đằng sau những cuộn dây, chai lọ, những đống chất cách điện, lưới mắt cáo trên hệ thống ống. Dù thế nào thì đâu đó trong toàn bộ sự rối rắm phức tạp này là một lọn tóc nhỏ mà mọi thứ đều dựa vào đó.

Ở bên trái bà, con dốc đâm thẳng xuống bóng tối đen đặc, ở tít sâu bên dưới ánh lên một màu trắng le lói, cùng với tiếng ầm ầm của nước đổ từ ngọn thác của Saint-Jean-les-Eaux.

Có tiếng hét vọng tới. Một binh sĩ thả rơi khẩu súng trường rồi ngã chúi về phía trước, hắn đổ ụp xuống đất, quẫy đạp và rên rỉ vì đau đớn. Thấy vậy, Chủ tịch liền nhìn lên trời, chụm hai tay vào miệng rồi hét lên một tiếng chói tai.

Ông ta đang làm gì vậy?

Một lúc sau, Phu nhân Coulter đã hiểu ra. Trong số tất cả những thứ khó xảy ra nhất, một phù thủy bay tới rồi đáp xuống bên cạnh Chủ tịch trong khi ông ta hét lên át tiếng gió:

“Lục soát xung quanh đi! Có thứ sinh vật nào đó đang giúp đỡ mụ đàn bà. Nó đã tấn công vài người của tôi rồi. Ngươi có thể nhìn xuyên qua màn đêm. Tìm rồi giết nó đi!”

“Có thứ gì đó đang tới,” ả phù thủy nói bằng một chất giọng truyền đi rõ rệt tới nơi trú ẩn của Phu nhân Coulter. “Tôi có thể thấy nó ở hướng bắc.”

“Mặc kệ nó. Tìm sinh vật kia rồi tiêu diệt nó đi,” Chủ tịch kêu lên. “Nó không thể đi xa được. Tìm cả mụ đàn bà nữa. Đi đi!”

Ả phù thủy lại lao lên không trung.

Đột nhiên con khỉ siết chặt lấy tay Phu nhân Coulter rồi chỉ trỏ.

Ngài Roke đang ở đó, nằm trơ trọi trên một mảng rêu. Sao họ lại không nhìn thấy ông ta nhỉ? Nhưng có chuyện gì đó đã xảy ra, vì ông không hề cử động.

“Đi mang ông ấy về đây,” bà nói. Con khỉ liền cúi người thật thấp, lao từ tảng đá này sang tảng đá khác, hướng tới mảng màu xanh nhỏ xíu giữa những khối đá. Bộ lông vàng óng của nó đã nhanh chóng thẫm lại vì nước mưa và dính chặt vào người, khiến nó trở nên nhỏ hơn và khó bị phát hiện hơn, nhưng dù sao thì nó vẫn cực kì lộ liễu.

Trong lúc đó, Cha MacPhail quay lại với quả bom. Các kĩ sư từ trạm phát đã đem dây cáp xuống thẳng chỗ nó, còn các kĩ thuật viên thì đang bận rộn đóng các bàn kẹp và chuẩn bị sẵn sàng các cực dẫn.

Phu nhân Coulter thắc mắc không biết ông ta định làm gì khi nạn nhân của mình đã trốn thoát. Rồi Chủ tịch quay lại để nhìn qua vai, và bà thấy được biểu hiện của ông ta. Nhìn bất động và dữ dội tới mức trông ông ta giống một cái mặt nạ hơn là một con người. Môi lẩm bẩm cầu nguyện, mắt mở to để mặc cho mưa đập vào, tổng thể nhìn ông ta chẳng khác gì một bức họa Tây Ban Nha u ám nào đó về một vị thánh đang mê mẩn trong sự nghiệp tử vì đạo của mình. Phu nhân Coulter đột ngột cảm thấy một nỗi sợ dâng trào, bởi vì bà biết chính xác ông ta dự định làm gì: Ông ta sẽ hi sinh bản thân. Quả bom sẽ vẫn được kích hoạt dù có sự tham gia của bà hay không.

Nhảy từ tảng đá này sang tảng đá kia, con khỉ vàng tới được chỗ Ngài Roke.

“Chân trái của tôi bị gãy rồi,” mật thám người Gallivespia điềm tĩnh nói. “Tên cuối cùng đã giẫm lên tôi. Nghe cho kĩ này…”

Trong lúc con khỉ nâng ông ra khỏi vùng sáng, Ngài Roke giải thích chính xác vị trí của buồng cộng hưởng và làm thế nào để mở nó ra. Họ gần như đang ở ngay dưới tầm mắt của các binh sĩ, nhưng từng bước một, từ khoảng tối này sang khoảng tối khác, con linh thú lẻn đi với gánh nặng nhỏ xíu trên tay.

Phu nhân Coulter, vừa nhìn vừa cắn môi, nghe thấy một tiếng gió rít và cảm thấy một cú va chạm mạnh - không phải vào người bà mà là vào thân cây. Một mũi tên rung rinh đang cắm ở đó, cách không đầy một gang tay từ cánh tay trái của bà. Lập tức bà lộn người đi, trước khi ả phù thủy có thể bắn một mũi khác, rồi đổ nhào xuống con dốc về phía con khỉ.

Và rồi mọi thứ xảy đến cùng một lúc, quá nhanh chóng: Một loạt đạn nổ ra, một đám khói cay xè cuồn cuộn bốc qua con dốc, dù bà không thấy có ngọn lửa nào. Con khỉ vàng, thấy rằng Phu nhân Coulter đang bị tấn công, liền đặt Ngài Roke xuống và lao tới bảo vệ bà, ngay khi ả phù thủy lao xuống với con dao cầm sẵn trong tay. Ngài Roke ép mình vào tảng đá gần nhất, trong lúc Phu nhân Coulter tay bo đánh vật với ả phù thủy. Họ điên cuồng vật lộn giữa đám đá lởm chởm, trong lúc con khỉ vàng chạy xung quanh, bẻ gãy tất cả gai trên cành thông mây của ả phù thủy.

Cùng lúc đó, Chủ tịch đẩy con linh thú thằn lằn của mình vào bên lồng bằng lưới bạc nhỏ hơn. Nó oằn người, gào thét, quẫy đạp rồi cắn, nhưng ông ta lấy tay đập nó rồi vội vàng đóng sập cửa lại. Các kĩ thuật viên đang thực hiện những điều chỉnh cuối cùng, kiểm tra đồng hồ và các thước đo.

Không hiểu từ đâu, một con mòng biển lao xuống với một tiếng kêu hoang dại, rồi quặp chặt lấy mật thám người Gallivespia trong bộ móng của mình. Đó là linh thú của ả phù thủy. Ngài Roke chống cự quyết liệt, nhưng con chim giữ rất chắc, sau đó ả phù thủy giằng thoát khỏi bàn tay của Phu nhân Coulter, vớ lấy cành thông mây tả tơi, rồi lao lên không trung để nhập hội với con linh thú.

Phu nhân Coulter lao người về phía quả bom, cảm thấy màn khói tấn công mũi và cổ họng mình như những cái vuốt sắc: Hơi cay. Các binh sĩ, phần lớn đều đã gục xuống hoặc ngã ra đất ho hắng (Cái thứ khí này từ đâu tới vậy, bà tự hỏi?) nhưng giờ, khi gió đã phát tán nó đi, họ đang bắt đầu trấn tĩnh lại. Cái bụng lắp gọng khổng lồ của chiếc zeppelin sừng sững phía trên quả bom, kéo căng sợi dây cáp trong gió, hai bên thành màu bạc đầm đìa hơi ẩm.

Nhưng đúng lúc đó một âm thanh từ trên cao khiến tai Phu nhân Coulter ong lên: Một tiếng hét chói tai và khiếp đảm đến mức cả con khỉ vàng cũng phải tóm chặt lấy bà vì sợ. Rồi chỉ một giây sau, lao xuống trong vòng xoáy của những cánh tay và cẳng chân trắng muốt, lớp lụa đen, và những cành non xanh biếc, ả phù thủy rơi xuống ngay dưới chân của Cha MacPhail, xương cốt kêu răng rắc trên nền đá.

Phu nhân Coulter lao tới để xem liệu Ngài Roke có sống sót nổi sau cú rơi không. Nhưng mật thám người Gallivespia đã qua đời. Cái cựa phải của ông đang cắm ngập vào cổ của ả phù thủy.

Bản thân ả phù thủy cũng chỉ đang thoi thóp, miệng ả run rẩy kêu lên: “Có thứ gì đó đang tới - một thứ gì đó khác - đang tới…”

Nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Chủ tịch đã bước qua người ả để tới cái lồng lớn hơn. Linh thú của ông ta đang chạy lên chạy xuống các thành của cái lồng còn lại, bộ móng nhỏ xíu của nó khiến lớp lưới bạc ngân lên, nó hét lên tìm sự thương hại.

Con khỉ vàng nhảy vọt lên người Cha MacPhail, nhưng không phải để tấn công: Nó trèo lên rồi lao qua vai của người đàn ông để đến được phần trung tâm phức tạp toàn những dây nối và ống dẫn, căn buồng cộng hưởng. Chủ tịch cố gắng bắt lấy nó, nhưng Phu nhân Coulter đã tóm được tay người đàn ông và cố lôi ông ta lại. Bà không thể thấy được gì: Mưa đang chảy xối xả vào mắt bà, và trong không khí vẫn còn vương lại hơi cay.

Khắp nơi xung quanh lại còn có tiếng súng nổ: Chuyện gì đang xảy ra vậy?

Những cây đèn pha lắc lư trong gió khiến cho dường như chẳng có thứ gì đứng vững, kể cả những tảng đá đen ngòm của sườn núi. Chủ tịch và Phu nhân Coulter đấu tay đôi với nhau, cào, đấm, xé, kéo, cắn, mà bà thì đã mệt trong khi ông ta vẫn còn rất khoẻ; nhưng bà cũng rất liều lĩnh, đáng ra bà có thể đã lôi được ông ta đi, nhưng một phần tâm trí lại đang theo dõi con linh thú của mình khi nó vặn nấm đấm cửa, hai bàn tay màu đen dữ dội bẻ cái máy theo hướng này rồi lại vặn theo hướng kia, vừa kéo vừa xoay, rồi với vào trong…

Đột nhiên bà bị dộng một cú vào thái dương. Bà ngã xuống choáng váng, để cho Chủ tịch, đã bị thương, vùng thoát rồi lao mình vào lồng, kéo cửa đóng lại phía sau.

Rồi con khỉ mở được cửa buồng ra - một cánh cửa bằng kính trên bản lề nặng trịch, rồi với tay vào bên trong - lọn tóc đang ở đó: bị kẹp giữa những miếng cao su trong một cái kẹp bằng sắt! Vẫn còn có thứ phải tháo gỡ. Phu nhân Coulter dựng người dậy bằng đôi tay run rẩy. Bà dùng hết sức bình sinh lắc tấm lưới bạc, nhìn lên lưỡi dao, các cực đang bắn tia lửa, người đàn ông phía trong. Con khỉ đang nới cái kẹp ra, còn vị Chủ tịch, vẻ mặt như một tấm mặt nạ của niềm hân hoan không gì xoay chuyển được, đang quấn các sợi cáp lại với nhau.

Một tia chớp trắng xóa dữ dội lóe lên, nối theo bởi một tiếng rắc, rồi hình dáng của con khỉ bị hất tung lên không trung. Cùng với nó là một đám mây màu vàng óng: Là tóc của Lyra chăng? Hay là lông của chính con khỉ? Dù cho có là cái gì thì nó cũng lập tức bị thổi bạt vào trong bóng đêm. Bàn tay phải của Phu nhân Coulter bị chấn động mạnh đến mức nó dính chặt vào lớp lưới, khiến bà nửa nằm, nửa bị treo, trong khi đầu bà ong lên còn tim đập thình thịch.

Nhưng có một thứ đã xảy đến với tầm nhìn của bà. Một sự rõ nét khủng khiếp đập vào mắt bà, năng lực để nhìn thấy được những chi tiết nhỏ bé nhất, và chúng tập trung vào một chi tiết duy nhất quan trọng trong cả vũ trụ: Bị mắc lại trong một miếng đệm của cái kẹp trong buồng cộng hưởng là một sợi tóc vàng thẫm đơn độc.

Bà rên lên một tiếng đầy đau đớn rồi liên tục lắc cái lồng, cố gắng làm bật sợi tóc ra bằng chút sức lực ít ỏi còn lại. Chủ tịch đưa hai tay lên mặt để vuốt nước mưa đi. Miệng ông ta cử động như đang nói gì đó, nhưng bà chẳng thể nghe được một từ nào. Bà tuyệt vọng giật mạnh lớp lưới, rồi dồn toàn bộ sức nặng cơ thể để lao vào cỗ máy trong khi ông ta chập hai sợi cáp vào với nhau, làm lóe lên một tia lửa. Trong sự câm lặng tuyệt đối, lưỡi dao bạc sáng loáng lao xuống.

Có thứ gì đó phát nổ, ở đâu đó, nhưng Phu nhân Coulter không còn có thể cảm nhận được nữa.

Một đôi tay đang nâng bà lên: Đôi tay của Ngài Asriel. Chẳng có gì phải ngạc nhiên nữa rồi; chiếc phi cơ ý lực đậu phía sau ông, lơ lửng trên con dốc và thăng bằng một cách hoàn hảo. Ông nâng bà trên tay rồi đưa bà tới chiếc phi cơ, mặc cho súng vẫn nổ, khói vẫn ngùn ngụt bốc, những tiếng kêu thét hoảng loạn và bối rối vẫn vang lên.

“Ông ta chết chưa? Bom phát nổ rồi à?” Bà cố gắng nói.

Ngài Asriel trèo vào bên cạnh bà, rồi con báo tuyết cũng nhảy vào cùng với con khỉ vàng nửa tỉnh nửa mê kẹp trong mõm. Ngài Asriel cầm lấy bộ điều khiển và chiếc phi cơ lập tức phóng lên không trung. Qua đôi mắt mờ đi vì đau, Phu nhân Coulter nhìn xuống sườn núi dốc. Người người chạy tới chạy lui như kiến vỡ tổ; vài kẻ nằm chết lặng, trong khi những kẻ khác lết đi đứt quãng trên những tảng đá; sợi cáp khổng lồ từ trạm phát oằn èo qua đống hỗn loạn, thứ duy nhất có mục đích trong tầm mắt, chạy xuống quả bom lấp lánh nơi thi thể của Chủ tịch nằm oặt người trong lồng.

“Ngài Roke thế nào?” Ngài Asriel hỏi.

“Chết rồi,” bà thì thầm.

Ông ấn nút, một mũi giáo bằng lửa phóng về phía chiếc zeppelin đang lắc lư, tròng trành. Sau đó một tích tắc, toàn bộ con tàu bung nở thành một đóa hồng của lửa trắng, nuốt trọn chiếc phi cơ ý lực đang đứng bất động và không chút xây xát giữa quả cầu lửa. Ngài Asriel đủng đỉnh rời vị trí của chiếc phi cơ, rồi họ ngồi nhìn chiếc zeppelin hừng hực cháy chầm chậm rơi lên trên toàn bộ quang cảnh, quả bom, sợi cáp, các binh sĩ và tất cả những thứ khác, rồi mọi thứ bắt đầu đổ sụp vào một mớ bòng bong đầy khói và lửa dưới sườn núi, nó tăng tốc dần, thiêu cháy những thân cây nhựa trên đường đi, cho tới khi lao vào màn nước trắng xóa của ngọn thác, nơi nó bị xoáy nước cuốn phăng vào trong bóng tối.

Ngài Asriel lại chạm vào bộ điều khiển, và chiếc phi cơ ý lực bắt đầu tăng tốc về hướng bắc. Nhưng Phu nhân Coulter không thể rời mắt khỏi cảnh tượng bên dưới; bà dõi theo phía sau một lúc lâu, chằm chằm nhìn vào màn lửa với đôi mắt đầy ậc nước, cho tới khi nó chẳng còn gì hơn là một đường màu cam chạy dọc trên nền trời đêm, cuồn cuộn khói và hơi nước, và rồi tan biến vào hư vô.