- 28 - Nửa đêm
Rất nhiều lần
Tôi gần như đã yêu vị Tử thần dịu dàng
John Keats
Ngài Asriel nói: “Marisa, tỉnh dậy đi. Chúng ta sắp hạ cánh rồi.”
Ánh bình minh độc đoán đang le lói trên pháo đài đá bazan khi chiếc phi cơ ý lực bay vào từ hướng nam. Phu nhân Coulter, đau nhức và chán nản, hé mở mắt; bà không hề ngủ. Bà có thể thấy thiên thần Xaphania đang lướt đi phía trên bãi hạ cánh, rồi bay lên và lượn vòng tới tòa tháp khi chiếc phi cơ hướng về tòa thành.
Ngay khi chiếc phi cơ đáp xuống, Ngài Asriel nhảy bổ ra rồi chạy tới chỗ Quốc vương Ogunwe trên tháp canh phía tây, hoàn toàn không đếm xỉa đến Phu nhân Coulter. Các kĩ thuật viên lập tức đến chăm lo cho cỗ máy biết bay cũng không để ý gì đến bà; không ai dò hỏi bà về sự biến mất của chiếc phi cơ mà bà đã lấy cắp; cứ như thể bà đã trở nên vô hình vậy. Bà buồn bã leo lên căn phòng trên tòa tháp đá kim cương, nơi người phục vụ đề nghị được mang cho bà chút đồ ăn và cà phê.
“Bất cứ thứ gì ông có,” bà nói. “Cảm ơn ông. À, nhân thể,” bà nói tiếp khi người đàn ông quay người chuẩn bị đi: “Chân Kế gia của Ngài Asriel, ông…”
“Ông Basilides?”
“Phải. Liệu ông ấy có rảnh để tới đây trong một lúc không?”
“Hiện giờ ông ấy đang làm việc với những cuốn sách của mình, thưa bà. Tôi sẽ nhờ ông ấy lên đây khi nào có thể.”
Bà tắm rửa rồi thay sang chiếc áo sạch duy nhất còn lại. Cơn gió lạnh đang rung chuyển từng ô cửa sổ và ánh sáng buổi sớm xám xịt khiến bà rùng mình. Bà cho thêm than vào bếp lò bằng sắt, hi vọng nó sẽ giúp bà ngừng run rẩy, nhưng cái lạnh đang ở sâu trong tận xương tủy chứ không phải chỉ da thịt.
Mười phút sau, trên cửa vang lên một tiếng gõ. Vị Chân Kế gia nhợt nhạt với đôi mắt đen, cùng con linh thú chim sơn ca trên vai, bước vào và khẽ cúi chào. Một lúc sau, người phục vụ tới với một khay đựng bánh mì, pho mát và cà phê. Phu nhân Coulter nói:
“Cảm ơn ông đã đến, ông Basilides. Tôi có thể mời ông dùng chút gì không?”
“Tôi sẽ dùng chút cà phê, cảm ơn bà.”
“Làm ơn hãy cho tôi biết,” bà nói ngay khi đã rót xong đồ uống, “bởi vì tôi biết rằng ông vẫn đang theo dõi sự tình: Con gái tôi còn sống không?”
Ông ngập ngừng. Con khỉ vàng tóm chặt lấy tay bà.
“Cô bé vẫn còn sống,” Basilides cẩn trọng nói, “nhưng cũng…”
“Vâng? Ôi, làm ơn, ý ông là gì vậy?”
“Cô bé đang ở trong thế giới của người chết. Trong một khoảng thời gian, tôi đã không thể dịch nổi điều mà cái máy đang nói với mình: Nó có vẻ rất vô lí. Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa. Lyra và cậu bé kia đã bước vào thế giới của người chết, và chúng đã khai mở một con đường cho các hồn ma thoát ra. Ngay khi những người chết tới được không gian mở, họ liền tan ra như linh thú của mình đã từng, và dường như đây là kết cục ngọt ngào và đáng mơ ước nhất đối với họ. Chân Kế còn cho tôi biết rằng, cô bé làm việc này do đã nghe lỏm được một lời tiên tri về việc cái chết sẽ chấm dứt, và nó nghĩ rằng đó là nhiệm vụ mình cần phải hoàn thành. Kết quả là giờ đây đã có một con đường dẫn ra khỏi thế giới của người chết.”
Phu nhân Coulter không nói nên lời. Bà phải quay đi và bước tới bên cửa sổ để che dấu cảm xúc trên gương mặt mình. Cuối cùng bà nói:
“Vậy nó sẽ sống sót mà thoát ra chứ? Mà thôi, tôi biết ông không thể tiên đoán được. Nó - nó thế nào - nó có…”
“Cô bé đang phải chịu khổ, đang đau đớn và sợ hãi. Nhưng cô bé có thằng bé ở bên cạnh, rồi cả hai mật thám người Gallivespia nữa, họ vẫn đều đang ở bên nhau.”
“Còn quả bom?”
“Quả bom đã không làm hại được cô bé.”
Phu nhân Coulter đột nhiên cảm thấy cạn kiệt sức lực. Bà không muốn gì khác hơn là được nằm xuống và thiếp đi hàng tháng, hàng năm trời. Bên ngoài, sợi dây kéo cờ quật chan chát trong gió, còn lũ quạ cứ kêu quàng quạc trong lúc lượn vòng quanh thành luỹ.
“Cảm ơn ông,” bà quay lại với Chân Kế gia và nói. “Tôi rất biết ơn. Xin ông, ông có thể báo cho tôi nếu phát hiện ra thêm bất cứ điều gì về con bé, về nơi nó ở hoặc việc nó đang làm được không?”
Người đàn ông cúi chào rồi bước đi. Phu nhân Coulter tới nằm xuống trên chiếc giường cắm trại, nhưng dù có cố gắng thế nào, bà vẫn không chợp mắt được.
“Ông hiểu thế nào về cái đó, hả Quốc Vương?” Ngài Asriel hỏi.
Ông đang nhìn qua kính viễn vọng trên tháp canh vào một thứ gì đó trên bầu trời phía tây. Nó có hình dạng của một ngọn núi lơ lửng trên không trung, cách đường chân trời một khoảng bằng độ rộng một gan bàn tay, được mây bao phủ. Nó ở cách đó rất xa; trên thực tế là xa đến mức nó không lớn hơn móng tay cái trên một bàn tay duỗi thẳng. Nhưng nó ở đó chưa lâu, và cứ lơ lửng một cách hoàn toàn bất động.
Kính viễn vọng đem nó lại gần hơn, nhưng vẫn chẳng có thêm chi tiết nào: mây trông vẫn như mây, chỉ là được phóng to lên nhiều lần thôi.
“Núi Mây Phủ,” Ogunwe đáp. “Hay là - người ta gọi nó là gì ấy nhỉ? Cỗ Chiến xa à?”
“Với tên Nhiếp chính cầm cương. Hắn che giấu bản thân giỏi đấy, cái tên Metatron này. Người ta nhắc tới hắn trong Kinh ngụy tác: Hắn đã từng là con người, một người đàn ông mang tên Enoch, con trai của Jared - cách Adam sáu đời. Giờ thì hắn thống trị cả vương quốc. Và hắn còn dự định làm nhiều hơn thế nữa, nếu thiên thần mà người ta tìm thấy bên hồ lưu huỳnh nói đúng - kẻ đã vào trong Núi Mây Phủ để do thám đó. Nếu thắng cuộc chiến này, hắn dự định sẽ trực tiếp can thiệp vào cuộc sống của con người. Cứ tưởng tượng xem, Ogunwe, một Ban Thẩm tra vĩnh cửu, còn tồi tệ hơn bất cứ thứ gì mà Tòa án Công giáo Kỉ luật có thể mơ tới, nhân lực toàn là điệp viên và kẻ phản bội thuộc mọi thế giới, được đích thân chỉ đạo bởi trí óc đang giữ cho quả núi đó treo trên cao… Đấng Quyền Năng già cỗi ít nhất cũng có quyền rút lui; công việc bẩn thỉu thiêu sống các kẻ dị giáo và treo cổ phù thủy sẽ được dành cho các giáo sĩ của hắn. Cái thứ mới này sẽ tồi tệ hơn rất nhiều.”
“Chà, hắn đã khơi mào bằng cách xâm lược nước cộng hòa,” Ogunwe nói. “Nhìn kìa - đó là khói à?”
Một dòng chảy màu xám đang rời khỏi Núi Mây Phủ, một vết nhơ đang dần lan rộng trên nền trời xanh. Nhưng nó không thể nào là khói được: Nó trôi ngược chiều ngọn gió đang xé toạc mây.
Quốc vương đặt ống nhòm lên mắt và nhìn thấy đó là thứ gì.
“Các thiên thần,” ông kêu lên.
Ngài Asriel rời khỏi kính viễn vọng rồi đứng thẳng dậy, tay che mắt. Hàng trăm, hàng ngàn, rồi hàng chục ngàn, cho tới khi một nửa phần trời đó tối sầm lại, những hình dáng nhỏ bé cứ bay tới, bay tới không ngớt. Ngài Asriel đã từng thấy những đàn chim sáo đá xanh biếc đông tới hàng tỉ con lượn vòng trong ánh hoàng hôn quanh cung điện của Hoàng đế K’ang-Po, nhưng cả đời ông chưa từng nhìn thấy một đám đông nào lớn đến cỡ này. Những sinh vật bay tụ tập lại rồi túa đi chầm chậm, chầm chậm, tới hướng bắc và hướng nam.
“A! Còn cái kia là gì?” Ngài Asriel chỉ. “Đó không phải là gió.”
Mây đang cuộn xoáy trên sườn phía nam của ngọn núi, những biểu ngữ hơi nước dài, rách rưới, phấp phới trong luồng gió dữ dội. Nhưng Ngài Asriel nói đúng: Chuyển động đó tới từ phía trong chứ không phải từ không khí bên ngoài. Mây khuấy đảo và hỗn loạn, rồi tẽ ra trong giây lát.
Có nhiều hơn là một ngọn núi ở đó, nhưng họ chỉ nhìn thấy được trong thoáng chốc; sau đó đám mây lại xoáy ngược trở lại, như thể được kéo ngang bởi một bàn tay vô hình, để lại che giấu nó đi.
Quốc Vương Ogunwe đặt ống nhòm xuống.
“Đó không phải là một ngọn núi,” ông nói. “Tôi đã nhìn thấy các ụ súng…”
“Tôi cũng vậy. Một khối phức tạp đủ mọi thứ. Không hiểu hắn có nhìn ra ngoài qua lớp mây được không nhỉ? Ở một vài thế giới, người ta có máy móc để làm việc đó. Nhưng còn đội quân của hắn, nếu đám thiên thần đó là tất cả những gì chúng có…”
Vị vua khẽ thốt lên một tiếng ngắn ngủn, nửa kinh ngạc, nửa tuyệt vọng. Ngài Asriel quay sang siết chặt lấy cánh tay ông bằng những ngón tay gần như khiến ông thâm tím tới tận xương tủy.
“Chúng không có cái này!” Ông nói rồi lắc tay Ogunwe một cách thô bạo. “Chúng không có da thịt!”
Ông đặt tay lên một bên má thô ráp của bạn mình.
“Ít ỏi như chúng ta,” ông nói tiếp, “chết sớm như chúng ta, và mắt kém như chúng ta - nếu so sánh với chúng, chúng ta vẫn mạnh hơn. Chúng ghen tị với ta, Ogunwe ạ! Đó là thứ khích động nỗi căm hờn của chúng, ta dám chắc như vậy. Chúng thèm khát có được cơ thể quý giá của chúng ta, rắn chắc và mạnh mẽ, thích nghi quá tốt với trái đất tuyệt vời này! Nếu ta xông tới bằng sức mạnh và lòng quyết tâm, ta có thể quét sạch số lượng vô hạn đó như gạt tay qua sương mù vậy. Sức mạnh của chúng chỉ đến thế thôi!”
“Asriel, chúng có đồng minh từ hàng ngàn thế giới, những sinh vật sống như chúng ta.”
“Chúng ta sẽ chiến thắng.”
“Vậy giả sử hắn cử đám thiên thần đó đi tìm con gái ông thì sao?”
“Con gái của ta!” Ngài Asriel hét lên đắc chí. “Đem được một đứa trẻ như vậy đến với thế giới chẳng phải là phi thường lắm sao? Ông sẽ cho rằng đã là quá đủ khi một mình tới chỗ vua của loài gấu mặc giáp rồi lừa cho hắn mất cả vương quốc - nhưng còn đi xuống thế giới của người chết và điềm tĩnh thả tất cả ra -! Còn thằng bé đó; tôi muốn gặp thằng bé; tôi muốn bắt tay nó. Chúng ta có biết mình sẽ đảm nhận trọng trách gì khi mới bắt đầu cuộc nổi dậy này không? Không. Nhưng chúng có biết - Đấng Quyền Năng và Nhiếp chính của hắn, tên Metatron - chúng có biết chúng đang lao vào điều gì khi con gái của ta tham gia vào không?”
“Ngài Asriel,” quốc vương nói, “ông có hiểu tầm quan trọng của cô bé cho tương lai không?”
“Nói thẳng ra là không. Đó là lí do tôi muốn gặp Basilides. Ông ta đi đâu rồi?”
“Tới chỗ quý bà Coulter. Nhưng ông ta kiệt sức rồi; nếu không được nghỉ ngơi thì ông ta không làm thêm được gì đâu.”
“Đáng ra ông ta phải nghỉ từ trước rồi. Gọi ông ta đến đây, được chứ? À, còn một việc nữa: Làm ơn hãy nhắn Bà Oxentiel tới tháp ngay khi thuận tiện. Ta phải gửi tới bà ấy lời chia buồn.”
Bà Oxentiel là phó chỉ huy của những người Gallivespia. Giờ bà sẽ phải đảm nhận những trách nhiệm của Ngài Roke. Quốc vương Ogunwe cúi chào rồi để cho chỉ huy của mình rà soát đường chân trời xám xịt.
Suốt ngày hôm đó, quân đội được tập hợp. Các thiên thần trong lực lượng của Ngài Asriel bay cao trên Núi Mây Phủ, tìm kiếm một khe hở, nhưng không thành công. Chẳng có gì thay đổi; không có thêm thiên thần nào bay ra hay bay vào; gió tầng cao xé toạc mây, nhưng mây lại không ngừng tự làm mới, không để hở ra đến một giây. Mặt trời chạy ngang qua bầu trời xanh lạnh lẽo rồi đi xuống về hướng tây nam, mạ vàng những đám mây và nhuộm lên quầng hơi nước xung quanh ngọn núi bằng đủ thứ sắc độ của kem và đỏ tươi, của mơ và cam. Khi mặt trời lặn, những đám mây phát sáng yếu ớt từ bên trong.
Các chiến binh giờ đã tập hợp lại từ mọi thế giới có người ủng hộ cuộc nổi dậy của Ngài Asriel; các công nhân cơ khí và thợ sửa vũ khí đang nạp nhiên liệu cho máy bay, chất vũ khí lên, định cỡ tầm nhìn và phạm vi. Khi màn đêm buông xuống, vài đội quân tiếp viện được chào đón nồng nhiệt đã đến nơi: Lặng lẽ rảo bước trên nền đất giá lạnh từ phương bắc, tách biệt, đơn độc, là một toán gấu mặc giáp - một toán lớn, đi giữa chúng là quốc vương của mình. Không lâu sau đó là nhóm đầu tiên trong vài bộ tộc phù thủy, tiếng gió rít qua những cành thông của họ thì thầm mải miết trên nền trời đêm.
Dọc theo vùng đồng bằng về hướng nam của pháo đài lấp loáng hàng ngàn đốm sáng, đánh dấu trại đóng quân của những kẻ tới từ phương xa. Xa hơn nữa, tại cả bốn góc của la bàn, những toán thiên thần do thám đi tuần tra không biết mệt mỏi, canh gác cho đoàn quân.
Nửa đêm trên tháp đá kim cương, Ngài Asriel ngồi thảo luận với Quốc vương Ogunwe, thiên thần Xaphania, Bà Oxentiel người Gallivespia, và Teukros Basilides. Ông Chân Kế gia vừa mới kết thúc phần trình bày của mình, Ngài Asriel đứng dậy, bước tới bên cửa sổ và nhìn ra vầng sáng xa xăm của Núi Mây Phủ lơ lửng treo trên bầu trời phương tây. Những người khác không nói gì; họ vừa nghe được một điều đã khiến cho Ngài Asriel tái nhợt và run rẩy, không ai biết nên phản ứng lại thế nào.
Cuối cùng Ngài Asriel lên tiếng.
“Ông Basilides,” ông nói, “ông hẳn đã mệt lắm rồi. Tôi rất biết ơn tất cả những nỗ lực của ông. Hãy dùng chút rượu với chúng tôi.”
“Cảm ơn ngài,” Chân Kế gia nói.
Hai tay ông ta run lẩy bẩy. Quốc vương Ogunwe rót thứ rượu Tokay vàng óng vào rồi đưa cho ông cái li.
“Điều này sẽ mang ý nghĩa gì hả Ngài Asriel?” Giọng nói trong trẻo của Bà Oxentiel vang lên.
Ngài Asriel quay lại bên bàn.
“À,” ông nói, “nó sẽ có nghĩa là khi tham chiến, chúng ta sẽ có một mục tiêu mới. Con gái tôi và thằng bé này đã bị chia cắt khỏi linh thú của chúng, bằng một cách nào đó, mà vẫn sống sót được; và linh thú của chúng đang ở đâu đó trong thế giới này - hãy sửa lại nếu tôi tóm tắt không đúng nhé, ông Basilides - linh thú của chúng đang ở trong thế giới này, và Metatron có âm mưu bắt giữ hai con linh thú. Nếu hắn tóm được linh thú của chúng, bọn trẻ sẽ phải đi theo; và nếu hắn có thể chi phối được hai đứa trẻ đó, thì tương lai sẽ là của hắn, mãi mãi. Nhiệm vụ của chúng ta rất rõ ràng: Chúng ta phải tìm ra hai con linh thú trước hắn, rồi giữ cho chúng an toàn cho tới khi con bé và thằng nhóc trở lại với chúng.”
Lãnh đạo người Gallivespia cất tiếng: “Hai con linh thú bị mất tích này có dạng gì vậy?”
“Chúng chưa định hình, thưa bà,” Teukros Basilides nói. “Chúng có thể ở bất cứ hình dạng gì.”
“Vậy,” Ngài Asriel nói, “tóm gọn lại: Tất cả chúng ta, nước cộng hòa của chúng ta, tương lai của mọi sinh vật có ý thức - tất cả đều phụ thuộc vào việc con gái của ta còn sống, vào việc giữ cho hai linh thú của nó và của thằng bé không rơi vào tay Metatron?”
“Chính là vậy.”
Ngài Asriel thở dài, gần như thấy thỏa mãn; cứ như ông vừa kết thúc một phép tính dài hơi và phức tạp, và đến được một câu trả lời theo chiều hướng khá bất ngờ.
“Rõ rồi,” ông nói rồi xòe rộng hai bàn tay trên mặt bàn. “Vậy thì đây là việc chúng ta sẽ làm khi cuộc chiến bắt đầu. Quốc vương Ogunwe, ông sẽ đảm nhận quyền chỉ huy của toàn bộ các đội quân bảo vệ pháo đài. Bà Oxentiel, bà sẽ lập tức cử người đi lùng sục mọi phương trời để tìm hai đứa bé và hai con linh thú. Khi tìm thấy chúng, hãy dùng cả mạng sống để bảo vệ cho tới khi chúng gặp lại được nhau. Vào thời điểm đó, ta hiểu được rằng thằng bé sẽ có thể an toàn mà trốn thoát sang một thế giới khác.”
Quý bà gật đầu. Mái tóc xám cứng quèo của bà bắt lấy ánh sáng đèn và phản chiếu lại như thép không gỉ, còn con diều hâu màu xanh mà bà thừa hưởng lại từ Ngài Roke khẽ dang cánh trên thanh rầm bên cạnh cửa.
“Giờ thì, Xaphania,” Ngài Asriel nói. “Bà biết gì về tên Metatron này? Hắn đã có thời là con người: Liệu hắn có còn sức mạnh vật chất của con người không?”
“Rất lâu sau khi tôi bị đầy ải, hắn mới nổi danh,” thiên thần nói. “Tôi chưa từng nhìn gần hắn. Nhưng hắn sẽ không thể nào thống trị được vương quốc trừ khi phải thật sự rất mạnh, mạnh mẽ ở đủ mọi phương diện. Hầu hết các thiên thần sẽ tránh phải đấu tay đôi. Nhưng Metatron thì sẽ thích thú với trận đấu, và hắn sẽ thắng.”
Ogunwe có thể đoán được rằng một ý tưởng vừa nảy ra trong đầu Ngài Asriel. Sự chú ý của ông đột nhiên thu lại, đôi mắt mất tập trung trong một thoáng, rồi vụt trở lại hiện thực với sự mãnh liệt tăng lên gấp bội.
“Ra vậy,” ông nói. “Cuối cùng, Xaphania ạ, ông Basilides nói với chúng tôi rằng quả bom của chúng không chỉ mở ra một vực thẳm bên dưới các thế giới, mà còn làm rạn nứt cấu trúc của vạn vật sâu sắc tới mức các vết nứt vỡ xuất hiện khắp nơi. Đâu đó gần đây hẳn phải có một lối xuống tới mép của vực thẳm đó. Ta muốn bà đi tìm nó.”
“Ông định làm gì vậy?” Quốc vương Ogunwe cục cằn hỏi.
“Ta sẽ hủy diệt Metatron. Nhưng phần của ta đã gần đến hồi kết rồi. Con gái ta mới là người phải sống sót, và nhiệm vụ của chúng ta là ngăn không cho các lực lượng của vương quốc lại gần nó để nó có cơ hội tìm đường tới một thế giới an toàn hơn - con bé và thằng nhóc, cả linh thú của chúng nữa.”
“Còn Phu nhân Coulter thì sao?” Quốc vương hỏi.
Ngài Asriel gạt một tay lên quá trán.
“Ta sẽ không bận tâm đến bà ấy,” ông nói. “Cứ để mặc bà ấy, và bảo vệ nếu có thể. Mặc dù… Có lẽ ta đang bất công với bà ấy. Bà ấy không ngừng làm ta ngạc nhiên dù cho có làm gì đi nữa. Nhưng chúng ta đều biết việc mình phải làm, và lí do tại sao chúng ta phải làm thế: Chúng ta phải bảo vệ Lyra cho tới khi con bé tìm thấy được linh thú của mình và trốn thoát. Nước cộng hòa của chúng ta có lẽ được thành lập chỉ vì một mục đích duy nhất là giúp con bé làm việc đó. Hãy làm hết sức có thể.”
Phu nhân Coulter nằm trên giường của Ngài Asriel trong căn phòng bên cạnh. Khi nghe thấy tiếng nói ở phòng kia, bà cựa quậy vì vẫn chưa ngủ sâu. Bà thoát ra khỏi giấc ngủ trằn trọc của mình, cảm thấy bứt rứt và khao khát đè nặng.
Con linh thú của bà ngồi dậy bên cạnh, nhưng bà không muốn tới gần cửa hơn; bà chỉ đơn thuần muốn nghe giọng nói của Ngài Asriel hơn là một từ ngữ cụ thể nào. Bà nghĩ cả hai đều đã tận số rồi. Bà nghĩ tất cả bọn họ đều đã tận số cả rồi.
Cuối cùng, bà nghe thấy tiếng cửa đóng lại ở phòng bên kia, và dựng người đứng dậy.
“Asriel,” bà nói trong lúc bước vào dưới thứ ánh sáng đèn dầu ấm áp.
Con linh thú của ông khẽ gầm gừ: Con khỉ vàng cúi thấp đầu để xoa dịu nó. Ngài Asriel đang cuộn một tấm bản đồ lớn và không quay lại.
“Asriel, chuyện gì sẽ xảy ra với tất cả chúng ta?” Bà nói rồi lấy một chiếc ghế.
Ông ấn gót bàn tay vào hai mắt. Gương mặt ông bị tàn phá vì kiệt sức. Ông ngồi xuống rồi tì một khuỷu tay lên bàn. Hai con linh thú của họ không nhúc nhích: con khỉ co người trên lưng ghế, con báo tuyết ngồi thẳng đầy cảnh giác bên cạnh Ngài Asriel, nhìn Phu nhân Coulter không chớp mắt.
“Em không nghe à?” Ông hỏi.
“Em có nghe đôi chút. Em không ngủ được, nhưng không chủ ý lắng nghe. Lyra đâu rồi, có ai biết không?”
“Không.”
Ông vẫn chưa trả lời câu hỏi đầu tiên của bà, ông không định trả lời, và bà cũng biết vậy.
“Đáng ra chúng ta nên cưới nhau,” bà nói, “rồi cùng nuôi nấng nó.”
Lời nhận xét đó bất ngờ tới mức khiến ông phải chớp mắt. Con linh thú của ông gầm lên một tiếng khẽ nhất có thể ở thành sau cuống họng, rồi ngồi duỗi chân ra theo kiểu nhân sư. Ông không nói gì.
“Em không thể chịu nổi suy nghĩ về sự quên lãng, Asriel ạ,” bà nói tiếp. “Gì cũng được, nhưng không phải nó. Em vẫn thường cho rằng đau đớn sẽ tồi tệ hơn - bị hành hạ suốt đời - em cứ nghĩ nó chắc chắn sẽ tồi tệ hơn… Nhưng chừng nào vẫn còn có ý thức thì vẫn tốt hơn, đúng không? Tốt hơn là chẳng cảm thấy gì, cứ cắm đầu vào màn đêm, mọi thứ tiêu tan đi mãi mãi?”
Việc của ông chỉ đơn thuần là lắng nghe. Mắt ông không rời khỏi bà, toàn bộ sự chú ý của ông dồn lên bà; việc đáp lại là không cần thiết. Bà nói:
“Hôm trước, khi anh nói về con bé một cách cay đắng, cả về em nữa… em cứ nghĩ anh ghét bỏ nó. Em có thể hiểu việc anh căm ghét em. Em chưa bao giờ ghét anh, nhưng em có thể hiểu được… Em có thể hiểu được tại sao anh lại ghét em. Nhưng em không thấy được lí do khiến anh ghét Lyra.”
Ông từ từ quay đầu đi, sau đó nhìn trở lại phía bà.
“Em còn nhớ anh đã nói một điều kì lạ, ở Svalbard, trên đỉnh núi, ngay trước khi anh rời khỏi thế giới của chúng ta,” bà nói tiếp. “Anh nói: Đi với anh, rồi chúng ta sẽ hủy diệt Bụi mãi mãi. Anh có nhớ đã nói thế không? Nhưng anh không thực sự muốn thế. Anh muốn điều hoàn toàn ngược lại đúng không? Giờ thì em đã hiểu. Sao anh không cho em biết việc mình đang thực sự làm? Sao anh không cho em biết anh thực ra đang cố gắng bảo tồn Bụi? Đáng ra anh có thể cho em biết sự thật.”
“Anh muốn em đi cùng anh,” ông nói, giọng khàn đặc và lặng lẽ, “và anh nghĩ em sẽ thích nghe một lời nói dối hơn.”
“Phải,” bà thì thầm, “đó chính là điều em nghĩ.”
Bà không thể ngồi yên, nhưng cũng không thật sự có sức lực để đứng lên. Trong một lúc, bà cảm thấy muốn lả đi, đầu bà quay cuồng, các âm thanh mờ dần, căn phòng tối sầm lại, nhưng gần như ngay lập tức các giác quan của bà lại được phục hồi, còn tàn nhẫn hơn trước, và tình hình vẫn chẳng có gì thay đổi.
“Asriel…” Bà lẩm nhẩm.
Con khỉ vàng đưa một bàn tay ra ướm thử, tỏ ý muốn chạm vào chân của con báo tuyết. Người đàn ông quan sát mà không nói không rằng, còn Stelmaria thì không cử động; đôi mắt nó không rời khỏi Phu nhân Coulter.
“Ôi, Asriel, chuyện gì sẽ xảy ra với chúng ta đây?” Phu nhân Coulter lại thốt lên. “Liệu đây có phải kết cục của mọi thứ không?”
Ông không nói gì.
Cử động như một người đang mơ, bà đứng dậy, nhặt lên cái túi đang nằm trong góc phòng, rồi thọc vào bên trong với lấy khẩu súng lục. Bà định làm gì tiếp theo thì chẳng ai biết, vì đúng lúc đó có tiếng bước chân chạy lên cầu thang.
Cả người đàn ông và người đàn bà, cùng hai con linh thú, đều quay ra nhìn người phục vụ vừa bước vào, vừa thở hổn hển:
“Xin thứ lỗi, thưa ngài - hai con linh thú - người ta đã thấy chúng, không xa cổng phía đông - dưới dạng mèo - người lính gác đã thử bắt chuyện với chúng, đưa chúng vào bên trong, nhưng chúng không chịu lại gần. Chuyện mới xảy ra cách đây khoảng một phút thôi…”
Ngài Asriel ngồi thẳng dậy, mặt mày rạng rỡ. Chỉ trong một thoáng, tất cả mệt nhọc đều đã được gột sạch khỏi gương mặt ông. Ông đứng bật dậy rồi túm lấy chiếc áo bành tô.
Không buồn để tâm đến Phu nhân Coulter, ông choàng áo qua vai rồi nói với người phục vụ:
“Báo cho Bà Oxentiel ngay lập tức. Báo chỉ thị này: Không được dọa nạt, gây sợ hãi hay ép buộc hai con linh thú dưới bất cứ hình thức nào. Bất cứ ai thấy chúng đầu tiên phải…”
Phu nhân Coulter không còn nghe được những điều ông đang nói, vì ông đã xuống được đến nửa cầu thang rồi. Khi đến cả những tiếng bước chân của ông cũng trở nên mờ nhạt, âm thanh duy nhất là tiếng rít khe khẽ của chiếc đèn dầu, và tiếng rền rĩ của cơn gió điên dại phía bên ngoài.
Đôi mắt bà bắt gặp đôi mắt của con linh thú. Biểu hiện của con khỉ vàng vẫn tinh tế và phức tạp như vốn có, trong suốt quãng đời ba mươi lăm năm của họ.
“Được rồi,” bà nói. “Ta chẳng thể thấy được cách nào khác. Ta nghĩ… Ta nghĩ chúng ta sẽ…”
Nó lập tức hiểu ra bà muốn nói gì. Nó liền nhảy lên ngực bà, và họ ôm lấy nhau. Rồi bà đi tìm chiếc áo khoác viền lông của mình, và rất lặng lẽ, họ rời khỏi căn buồng, bước xuống những bậc cầu thang tối đen như mực.