← Quay lại trang sách

- 30 - Núi Mây Phủ

Xa khỏi Thiên Cung, mở rộng bát ngát

Thành một vòng, không rõ tròn hay vuông,

Điểm tô những tháp và tường thành đá

Của ngọc sapphire nguyên thuỷ

John Milton

Phi cơ ý lực được lái bởi Phu nhân Coulter. Chỉ có bà và con linh thú của mình trong buồng lái.

Máy đo độ cao khí áp không có ích nhiều trong cơn bão, nhưng bà có thể đánh giá đại khái độ cao bằng cách quan sát lửa cháy nơi các thiên thần rơi xuống trên mặt đất; bất chấp cơn mưa xối xả, chúng vẫn bốc lên cao. Còn về lộ trình, cũng không khó khăn gì: Chớp lấp loáng quanh ngọn núi đóng vai trò như một cây đèn hiệu rực sáng. Nhưng bà phải né đủ loại sinh vật bay vẫn đang chiến đấu trên không trung, và tránh những ụ đất nhô lên bên dưới.

Bà không dùng đèn, vì bà muốn bay lại gần và tìm chỗ hạ cánh trước khi họ nhìn thấy và bắn hạ bà. Khi bà bay lại gần, các dòng khí bốc cao trở nên dữ dội hơn, gió giật cũng đột ngột và hung bạo hơn. Một chiếc xa thăng thì sẽ chẳng có chút cơ hội nào: Luồng không khí điên dại hẳn sẽ dộng nó xuống mặt đất như đập một con ruồi. Trong chiếc phi cơ ý lực, bà có thể di chuyển nhẹ nhàng cùng với gió, điều chỉnh thăng bằng như một vận động viên lướt sóng trên Hòa Bình Dương.

Thật thận trọng, bà bắt đầu trèo lên, nhòm tới phía trước, phớt lờ các cỗ máy, bay bằng quan sát và bằng bản năng. Linh thú của bà nhảy từ một bên của căn buồng kính nhỏ sang bên còn lại, nhìn hướng về trước, lên trên, sang trái sang phải, liên tục gọi bà. Sét, những tấm và ngọn giáo sáng rực rỡ, lóe lên và nổ giòn bên trên và xung quanh cỗ máy. Xuyên qua tất cả, bà bay trên chiếc phi cơ nhỏ, tăng độ cao từng chút một, liên tục tiến về phía cung điện phủ mây.

Trong lúc tiếp cận, Phu nhân Coulter thấy rằng sự chú ý của mình bị chính đặc tính của ngọn núi làm sững sờ và bối rối.

Nó gợi nhắc bà tới một thứ dị giáo đáng ghê tởm mà tác giả của nó hiện giờ đang héo hon dần trong những hầm ngục của Tòa án Công giáo, thật đáng đời. Y đã giả thuyết rằng có nhiều chiều không gian hơn là ba chiều quen thuộc; rằng trên một phạm vi rất nhỏ cũng có tới bảy hay tám chiều không gian khác nhau, nhưng lại không thể kiểm tra trực tiếp được chúng. Y thậm chí còn dựng nên một mô hình để thể hiện cách chúng có thể hoạt động, Phu nhân Coulter đã thấy vật đó trước khi nó được trừ tà và đốt cháy. Nếp gấp trong nếp gấp, các góc và cạnh đều bao gồm và được bao gồm: Bên trong của nó ở khắp mọi nơi còn bên ngoài thì ở khắp mọi nơi còn lại. Núi Mây Phủ tác động tới bà theo cách tương tự: Nó giống một trường lực hơn là một khối đá, thâu tóm chính không gian để gập, duỗi, và chồng thành những hành lang và sân hiên, các phòng, hàng cột và tháp canh bằng không khí, ánh sáng và hơi nước.

Bà cảm thấy một niềm hân hoan kì lạ dần dần tuôn ra từ lồng ngực, cùng lúc đó bà cũng thấy cách để đưa chiếc phi cơ an toàn lên tới sân hiên phủ mây trên sườn phía nam. Cỗ máy nhỏ tròng trành và ì ạch bay trong không khí vẩn đục, nhưng bà vẫn bám chắc theo lộ trình, con linh thú hướng dẫn bà hạ thấp để đáp lên sân hiên.

Ánh sáng mà bà nhìn được cho tới lúc này tới từ những tia sét, những vết rạch trên mây thỉnh thoảng xuất hiện để cho ánh nắng lọt qua, lửa từ các thiên thần bị thiêu, những chùm đèn pha chạy mạch; nhưng ánh sáng ở đây rất khác biệt. Nó tới từ vật chất của chính ngọn núi, tỏa sáng rồi nhạt đi theo một nhịp điệu chậm rãi như nhịp thở, với vẻ rực rỡ như xà cừ.

Người phụ nữ và con linh thú bước xuống từ cỗ máy và nhìn xung quanh để xem mình nên đi đường nào.

Bà có cảm giác rằng các sinh vật khác đang gấp gáp di chuyển bên trên và bên dưới, lao qua vật chất của ngọn núi với nhiều thông điệp, mệnh lệnh, và thông tin. Bà không thể thấy họ; tất cả những gì bà có thể thấy là những hình phối cảnh xếp nếp lộn xộn của hàng cột, cầu thang, sân hiên và tiền sảnh.

Trước khi có thể quyết định nên đi hướng nào, bà nghe thấy có tiếng nói và vội nấp vào sau một cái cột. Những tiếng nói đang ngân nga một bài thánh ca, ngày một tiến gần lại, sau đó bà thấy một đám rước thiên thần vác theo một cái kiệu.

Khi tới gần nơi bà đang trốn, họ thấy chiếc phi cơ ý lực và dừng lại. Tiếng hát trở nên ngập ngừng, một vài người vác kiệu nhìn quanh trong hồ nghi và sợ hãi.

Phu nhân Coulter đứng đủ gần để thấy được sinh vật ngồi trong kiệu: Một thiên thần, bà nghĩ, già đến khó diễn tả. Không dễ gì để thấy được ông ta, vì chiếc kiệu được quây kín xung quanh bằng pha lê lấp lánh, hất ngược lại ánh sáng đang bao phủ lấy ngọn núi, nhưng bà có ấn tượng về sự già nua khủng khiếp, về một gương mặt lún trong những nếp nhăn, về đôi bàn tay run rẩy, cái miệng lẩm nhẩm và đôi mắt có đờm.

Sinh vật già cỗi run rẩy chỉ về phía chiếc phi cơ ý lực, ông ta khúc khích cười rồi lẩm bẩm nói một mình, không ngừng nhổ râu, rồi hất đầu lại và tru lên một tiếng đầy thống khổ, khiến cho Phu nhân Coulter phải bịt tai lại.

Nhưng rõ ràng là những người rước kiệu có một nhiệm vụ phải thực hiện, vì họ trấn tĩnh lại và đi tiếp dọc theo sân hiên, phớt lờ những tiếng hò hét và lẩm nhẩm bên trong kiệu. Khi tới được một khoảng trống, họ sải rộng đôi cánh rồi bắt đầu bay theo chỉ thị của người chỉ đạo, mang theo chiếc kiệu ở giữa, cho tới khi biến mất khỏi tầm mắt của Phu nhân Coulter trong những dòng hơi nước cuộn xoáy.

Nhưng chẳng có lúc nào để nghĩ tới điều đó. Bà và con khỉ vàng vội vã đi tiếp, trèo lên những đợt cầu thang đồ sộ, băng qua những cây cầu, không ngừng di chuyển lên trên. Càng leo lên cao, họ càng cảm thấy có hoạt động vô hình đang diễn ra xung quanh mình, cho tới khi cuối cùng họ cũng rẽ vào một khoảng không rộng rãi như một quảng trường phủ sương, và thấy mình đối mặt với một thiên thần cầm giáo.

“Ngươi là ai? Có việc gì?” Hắn lên tiếng.

Phu nhân Coulter nhìn hắn đầy tò mò. Đây từng là những sinh vật đã đem lòng yêu phụ nữ loài người, con gái của những người trần mắt thịt, rất lâu về trước.

“Không, không,” bà nhẹ nhàng nói, “làm ơn đừng tốn thời gian. Hãy lập tức đưa tôi tới chỗ ngài Nhiếp chính đi. Ngài ấy đang đợi tôi.”

Làm chúng lúng túng, bà nghĩ, khiến chúng rối trí; gã thiên thần này không biết nên làm gì, nên hắn đành làm theo điều bà nói. Bà đi theo hắn trong vài phút, qua những hình phối cảnh rối rắm từ ánh sáng, cho tới khi họ tới một căn phòng ngoài. Họ đã vào như thế nào thì bà không biết, nhưng họ đang ở đó, và sau một khoảng nghỉ ngắn, thứ trước mặt bà mở ra như một cánh cửa.

Những cái móng sắc lẻm của con linh thú đang ấn vào da thịt trên bắp tay bà, bà liền tóm lấy lông nó để trấn an.

Đối diện với họ là một sinh vật kết từ ánh sáng. Hắn có hình dạng loài người, kích cỡ loài người, bà nghĩ, nhưng bà quá lóa mắt để có thể nhìn thấy. Con khỉ vàng giấu mặt vào vai bà, còn bà hất tay lên để che mắt.

Metatron cất tiếng: “Nó đâu rồi? Con gái của ngươi đâu?”

“Tôi tới để thông báo với ngài đây, Ngài Nhiếp chính,” bà nói.

“Nếu nó nằm trong tay ngươi, hẳn ngươi đã đưa nó đến rồi.”

“Nó thì không, nhưng linh thú của nó thì có.”

“Làm sao lại thế được?”

“Tôi xin thề, thưa Metatron, linh thú của nó đang nằm trong tay tôi. Làm ơn, Nhiếp chính vĩ đại, xin hãy giấu mình đi một chút - mắt tôi lóa quá…”

Hắn kéo một tấm rèm mây ra chắn trước mình. Giờ trông như thể bà đang nhìn mặt trời qua một lớp kính mờ khói, đôi mắt bà có thể thấy hắn rõ ràng hơn, dù bà vẫn cố làm ra vẻ đang bị lóa mắt vì gương mặt hắn. Trông hắn chính xác như một người đàn ông đầu trung tuần, cao lớn, hùng mạnh, và uy nghi. Hắn có mặc quần áo không? Hắn có cánh không? Bà không thể đoán nổi, vì ảnh hưởng từ đôi mắt của hắn. Bà không thể nhìn vào bất cứ thứ gì khác.

“Làm ơn, thưa Metatron, xin hãy nghe tôi nói. Tôi vừa tới từ chỗ Ngài Asriel. Ông ta có con linh thú của đứa trẻ, ông ta cũng biết rằng đứa trẻ sẽ sớm tới tìm mình.”

“Hắn muốn làm gì với đứa trẻ?”

“Giữ nó xa khỏi ngài cho tới khi nó trưởng thành. Ông ta không biết tôi đã đi đâu, và tôi sẽ sớm phải quay về. Tôi đang nói với ngài sự thật. Xin hãy nhìn tôi, Nhiếp chính vĩ đại, do tôi không thể dễ dàng nhìn ngài được. Hãy nhìn tôi thật kĩ, và cho tôi biết ngài thấy gì.”

Hoàng tử của các thiên thần quan sát bà. Đó là cuộc khám xét thâm sâu nhất mà Marisa Coulter từng kinh qua. Mọi mảnh che chắn và giả dối đều bị lột trần, và bà đứng trơ trụi, cả thân xác, linh hồn và linh thú cùng nhau, dưới ánh mắt hung tợn của Metatron.

Bà biết rằng bản chất con người bà sẽ phải trả lời cho bà, và bà lo sợ rằng thứ mà hắn thấy trong bà sẽ là không đủ. Lyra đã nói dối Iofur Raknison bằng ngôn từ: Mẹ của cô thì đã nói dối bằng cả cuộc đời mình.

“Có, ta có thấy,” Metatron đáp.

“Ngài thấy gì vậy?”

“Mục nát, ghen tuông và thèm khát quyền lực. Tàn bạo và lạnh lùng. Sự hiếu kì thăm dò đầy xấu xa. Ác tâm thuần tuý độc hại. Kể từ những năm đầu đời, ngươi chưa từng thể hiện một li lòng trắc ẩn, sự thương cảm hay lòng tốt mà không tính toán xem nó sẽ có lợi cho ngươi thế nào. Ngươi đã tra tấn và giết chóc mà không hối hận hay do dự; ngươi đã phản bội, dan díu và hãnh diện vì sự bội bạc của mình. Ngươi là một cái hồ chứa đầy cặn bã đạo đức.”

Giọng nói đó, đem đến sự phán xét đó, gây chấn động sâu sắc tới Phu nhân Coulter. Bà đã đoán trước được, và khiếp sợ nó; thế nhưng bà cũng trông chờ nó, và giờ khi nó đã được nói ra, bà thấy trào dâng một cảm giác đắc thắng.

Bà tiến lại gần hắn ta.

“Vậy nên ngài thấy đấy,” bà nói, “tôi có thể dễ dàng phản bội ông ta. Tôi sẽ dẫn ngài đến nơi ông ta đang giữ linh thú của con gái tôi, ngài có thể tiêu diệt Asriel, và đứa trẻ sẽ tiến thẳng vào vòng tay ngài mà không hề nghi ngờ gì.”

Bà cảm nhận được chuyển động của hơi nước phía trên, và các giác quan của bà trở nên lúng túng: Những từ ngữ tiếp theo của hắn đâm vào da thịt bà như những mũi phi tiêu làm bằng băng ướp hương thơm.

“Khi còn là một con người,” hắn nói, “ta đã có rất nhiều vợ, nhưng chẳng có ai yêu kiều như ngươi.”

“Khi ngài còn là một con người?”

“Khi còn là một con người, ta được biết tới dưới cái tên Enoch, con trai của Jared, con trai của Mahalalel, con trai của Kenan, con trai của Enosh, con trai của Seth, con trai của Adam. Ta sống trên trái đất trong sáu mươi lăm năm, sau đó Đấng Quyền Năng đưa ta tới vương quốc của ngài.”

“Và ngài có rất nhiều vợ.”

“Ta yêu xác thịt của họ. Và ta hiểu được khi những người con trai của thiên đường phải lòng con gái của địa giới, ta đã cầu xin Đấng Quyền Năng chấp nhận lí do của họ. Nhưng trái tim ngài kiên quyết chống lại, và ngài sai ta phải tiên đoán số tận của họ.”

“Vậy ngài chưa từng biết tới một người vợ trong hàng ngàn năm qua…”

“Ta là Nhiếp chính của thiên quốc.”

“Vậy đây chẳng phải lúc ngài cần có một người bên cạnh sao?”

Đó là khoảnh khắc bà cảm thấy lồ lộ nhất, và rủi ro lớn nhất. Nhưng bà tin tưởng vào xác thịt mình, và vào sự thật kì quặc mà bà đã học được về các thiên thần, có lẽ đặc biệt là những thiên thần đã từng có thời gian làm con người: Thiếu đi da thịt, họ thèm khát nó và mong muốn được chạm vào nó. Còn Metatron lúc này đang ở rất gần, đủ gần để ngửi thấy mùi nước hoa từ tóc bà, nhìn ngắm làn da của bà, đủ gần để chạm vào bà bằng đôi tay nóng bỏng.

Một âm thanh kì lạ vang lên, giống như tiếng rì rầm và lách tách mà ta nghe thấy trước khi nhận ra rằng thứ mà mình đang nghe chính là tiếng căn nhà đang bốc cháy.

“Cho ta biết Ngài Asriel đang làm gì, và hắn ta ở đâu,” hắn nói.

“Tôi có thể đưa ngài tới chỗ ông ta ngay bây giờ,” bà nói.

Đoàn thiên thần rước kiệu rời khỏi Núi Mây Phủ và bay về phía đông. Mệnh lệnh của Metatron là đưa Đấng Quyền Năng tới một nơi an toàn, rời xa khỏi chiến trường, vì hắn muốn giữ cho ông ta sống sót thêm một thời gian; nhưng thay vì cung cấp cho ông ta nhiều trung đoàn vệ binh, điều mà sẽ chỉ thu hút thêm sự chú ý của kẻ địch, hắn lại trông cậy vào sự mờ mịt của cơn bão, tính toán rằng trong những trường hợp như thế này, một nhóm nhỏ sẽ an toàn hơn là nhóm lớn.

Đáng ra mọi chuyện đã diễn ra như vậy, nếu một con quỷ vực nào đó, đang bận đánh chén một chiến binh đang chết dở sống dở, không nhìn lên ngay đúng lúc một luồng đèn pha ngẫu nhiên rọi trúng cạnh của chiếc kiệu pha lê.

Có thứ gì đó khuấy động trong kí ức của con quỷ vực. Nó ngừng lại, một tay đặt trên buồng gan ấm nóng, và khi anh em nó đạp nó sang một bên, kí ức về một con cáo Bắc Cực ba hoa dội trở lại tâm trí nó.

Ngay lập tức, nó dang rộng đôi cánh bằng da rồi nhảy lên cao, một lúc sau phần còn lại của bầy cũng lao theo.

Xaphania và các thiên thần của mình đã cần mẫn tìm kiếm suốt buổi đêm và vài giờ buổi sáng, cuối cùng họ cũng tìm thấy một vết nứt rất nhỏ bên sườn núi phía nam pháo đài, ngày hôm trước nó không hề có ở đó. Họ thăm dò rồi mở rộng vết nứt ra, còn Ngài Asriel lúc này đang trèo vào một tổ hợp các hang lớn và đường hầm kéo dài bên dưới pháo đài.

Nó không hoàn toàn tối đen, như ông đã dự đoán. Có một nguồn sáng rất yếu ớt, như một dòng bao gồm hàng tỉ hạt tí hon lờ mờ tỏa sáng. Chúng đều đặn tuôn xuống đường hầm như một dòng sông ánh sáng.

“Bụi,” ông nói với con linh thú của mình.

Ông chưa từng thấy nó bằng mắt trần, nhưng ông cũng chưa từng thấy nhiều Bụi ở cùng một chỗ đến như vậy. Ông đi tiếp, cho tới khi đường hầm mở ra khá đột ngột, và ông thấy mình ở trên đỉnh của một hang động rộng lớn: Một mái vòm mênh mông tới mức có thể chứa được cả tá nhà thờ lớn. Ở đó không chia tầng; các bên dốc xuống một cách chóng mặt về phía mép của một cái hố khổng lồ dưới đó hàng trăm mét, tối đen hơn cả chính bóng đêm, tuôn chảy vào cái hố là dòng thác Bụi không ngừng rơi. Hàng tỉ hạt vật chất của nó giống như những vì tinh tú của mọi thiên hà trên bầu trời, và mỗi cái trong chúng lại là một mảnh nhỏ của suy nghĩ có ý thức. Thật là một thứ ánh sáng u sầu.

Cùng với con linh thú, ông trèo xuống về phía vực thẳm. Trong lúc leo, họ bắt đầu dần thấy điều gì đang diễn ra dọc theo thành hố phía bên kia, cách xa hàng trăm mét trong không gian u ám. Ông cho rằng có một chuyển động ở đó, ông càng trèo xuống bên dưới, nó càng tự lộ rõ: một đoàn diễu hành toàn những hình bóng mờ nhạt chậm chạp bước đi dọc theo con dốc hiểm nghèo, đàn ông, đàn bà, trẻ con, những sinh vật thuộc đủ mọi loài ông đã thấy và rất nhiều ông chưa từng thấy. Chú tâm vào việc giữ thăng bằng, họ hoàn toàn phớt lờ ông. Ngài Asriel cảm thấy tóc phía sau gáy dựng đứng lên khi ông nhận ra rằng họ đều là những hồn ma.

“Lyra đã tới đây,” ông khẽ nói với con báo tuyết.

“Bước đi cẩn thận đấy,” là tất cả những gì nó đáp lại.

Vào lúc này, Will và Lyra đều đã ướt như chuột lột, run lẩy bẩy, đau đớn nhức nhối, loạng choạng, mò mẫm bước đi qua bùn, leo lên đá và vào những khe nước nhỏ nơi những dòng suối hình thành từ cơn bão chảy đỏ ối vì máu. Lyra e sợ rằng Công nương Salmakia sắp chết: Bà đã không nói không rằng trong vài phút, nằm yếu ớt và mềm oặt trên tay Lyra.

Trong lúc họ ẩn náu ở một lòng sông nơi nước ít nhất vẫn còn trong trẻo, và múc từng vốc lên cái miệng khát khô của mình, Will cảm thấy Tialys dựng người dậy và nói:

“Will - tôi có thể nghe thấy tiếng vó ngựa đang tới - Ngài Asriel không có kị binh. Đó hẳn phải là quân địch. Băng qua dòng suối rồi trốn đi - tôi thấy vài bụi cây ở hướng kia…”

“Đi nào,” Will nói với Lyra, rồi chúng ì oạp lội qua làn nước buốt đến tận xương tủy rồi trèo lên phía bên kia của khe nước vừa kịp lúc. Những người cưỡi ngựa vượt qua con dốc và lọc cọc đi xuống để uống nước trông không giống những kị binh: Dường như họ thuộc cùng dạng da thịt có lông ngắn như đám ngựa của mình, họ không mặc quần áo hay đóng yên cương gì cả. Dù vậy, họ lại mang theo vũ khí: đinh ba, lưới, mã tấu.

Will và Lyra không dừng lại để nhìn: Chúng cúi người loạng choạng đi trên mặt đất gồ ghề, chỉ tập trung vào việc trốn thoát mà không để bị phát hiện.

Nhưng chúng phải cúi thấp đầu để xem mình đang đặt chân vào đâu và tránh để bị trật mắt cá, hoặc tồi tệ hơn; sấm bùng nổ phía trước mặt khi chúng chạy, nên chúng không nghe được tiếng rú rít và gầm gừ của lũ quỷ vực cho tới khi đâm bổ vào chúng.

Đám sinh vật đang vây lấy một thứ gì đó lấp lánh nằm trong bùn: Một thứ hơi cao hơn chúng, đang nằm lật sang một bên, một cái chuồng lớn, có lẽ vậy, với thành làm từ pha lê. Chúng đang đập nó túi bụi bằng nắm đấm và sỏi đá, vừa kêu rít vừa gào thét.

Trước khi Will và Lyra kịp dừng lại và chạy theo hướng khác, hai đứa đã sẩy chân rơi vào giữa bầy quỷ vực.