← Quay lại trang sách

- 32 - Bình minh

Bình minh lên, đêm tàn, những người canh gác rời khỏi vị trí

William Blake

Đồng cỏ vàng ruộm bát ngát mà hồn ma của Lee Scoresby thoáng thấy qua ô cửa sổ đang nằm êm đềm dưới những tia nắng mặt trời đầu tiên của buổi sớm.

Màu vàng hoàng kim, nhưng cũng có sắc vàng, nâu, xanh lục, cùng với hàng triệu sắc độ nằm giữa chúng; có đen, tại những vị trí, những đường nét và vệt màu sáng; có cả bạc, nơi ánh mặt trời bắt được chóp của một loại cỏ đặc biệt vừa nở thành hoa; và xanh lam, nơi một cái hồ rộng cách đó ít xa và một cái ao nhỏ nằm gần hơn phản chiếu lại màu xanh mênh mang của bầu trời.

Yên tĩnh, nhưng không câm lặng, nhờ một cơn gió thoảng xào xạc lay động hàng tỉ cuống lá nhỏ xíu, cùng với vô vàn con côn trùng và những sinh vật nhỏ khác cọt kẹt, vo ve, và ríu rít trong đám cỏ, rồi một con chim ở quá cao trên nền trời xanh để có thể thấy được cũng cất một khúc ca lặp bằng những nốt như chuông ngân, lúc gần, lúc xa, không có hai lần nào giống nhau.

Trong toàn bộ quang cảnh rộng lớn đó, những sinh vật sống duy nhất im lặng và bất động là cậu bé và cô bé đang nằm say ngủ, lưng đối lưng, dưới bóng của một vỉa đá trồi ra trên đỉnh một con dốc đứng nhỏ.

Chúng bất động và nhợt nhạt đến mức tưởng chừng có thể đã chết rồi. Đói khát khiến da trên mặt chúng nhăn lại, đau đớn để lại nếp nhăn trên mắt chúng, cả người chúng phủ đầy bụi bẩn, bùn lầy và không hề ít máu. Từ vẻ thụ động tuyệt đối của tay chân, chúng dường như đang ở trong những giai đoạn cuối cùng của sự kiệt quệ.

Lyra là đứa thức dậy trước tiên. Khi vầng dương lên cao trên bầu trời, nó đi qua vỉa đá phía trên và chạm vào tóc cô, khiến cô bắt đầu cựa quậy, rồi khi ánh nắng chiếu tới mí mắt, cô thấy mình bị kéo lên từ tận sâu cùng của giấc ngủ như một con cá, chậm chạp, nặng nề và miễn cưỡng.

Nhưng tranh cãi với mặt trời thì chẳng ích gì, ngay lập tức cô quay đầu rồi giơ tay lên ngang mắt, lẩm bẩm: “Pan - Pan…”

Dưới bóng đổ của cánh tay, cô mở mắt và tỉnh táo hoàn toàn. Cô nằm yên trong một lúc vì cả tay lẫn chân đều đang đau nhức, mọi bộ phận cơ thể đều đờ đẫn vì mệt mỏi; nhưng cô vẫn tỉnh táo, cảm nhận thấy cơn gió khe khẽ và hơi ấm của vầng mặt trời, nghe thấy tiếng côn trùng rả rích và khúc ca thánh thót của chú chim trên trời cao. Tất cả đều thật tuyệt. Cô bé đã quên bẵng mất thế giới này tuyệt diệu đến nhường nào.

Lập tức, cô trở mình và thấy Will vẫn đang ngủ say. Tay cậu đã chảy rất nhiều máu; áo cậu rách tả tơi và bẩn thỉu, mái tóc cứng queo vì bụi và mồ hôi. Cô bé ngắm nhìn cậu một lúc lâu, nhìn động mạch nhỏ chạy trên cổ cậu, lồng ngực cậu chầm chậm nâng lên hạ xuống, những cái bóng mảnh mai mà lông mi của cậu tạo ra khi ánh nắng cuối cùng cũng chạm tới.

Cậu lầm bầm gì đó rồi cựa quậy. Không muốn bị bắt quả tang đang nhìn, cô liền quay đi hướng khác, về phía cái huyệt nhỏ mà chúng đã đào đêm hôm trước, chỉ rộng vài gan bàn tay, nơi thi thể của Hiệp sĩ Tialys và Công nương Salmakia giờ đang yên nghỉ. Có một hòn đá phẳng bên cạnh: Cô đứng dậy rồi bẩy nó lên khỏi mặt đất, dựng nó đứng thẳng trên đầu ngôi mộ, rồi ngồi dậy và che mắt để phóng tầm mắt qua vùng đồng bằng.

Khung cảnh dường như trải dài đến vô tận. Đồng bằng này không hề bằng phẳng hoàn toàn; những đường lượn sóng nhẹ nhàng, những dãy đồi và lạch nước nhỏ làm biến đổi bề mặt nơi cô nhìn. Đây đó, cô thấy một khóm cây cao đến mức dường như chúng được dựng lên chứ không phải là tự lớn: Những cái thân thẳng đứng và vòm lá xanh thẫm của chúng như thể bất chấp khoảng cách khi hiện ra rõ rệt ở tầm xa chắc hẳn phải là nhiều dặm.

Tuy nhiên, ở gần hơn - thật ra là tại chân con dốc đứng, cách đó không đầy một trăm mét - có một cái ao nhỏ được cấp nước từ một dòng suối chảy ra từ đá, và Lyra nhận ra mình đang khát khô cả cổ.

Cô đứng dậy trên đôi chân run rẩy rồi chậm chạp bước xuống phía nó. Con suối kêu lên ồng ộc và róc rách qua những tảng đá rêu phong, cô vục tay vào đó hết lần này đến lần khác, gột sạch bùn đất và cáu ghét trước khi múc nước lên miệng. Nó lạnh đến nhức răng, và cô mừng rỡ nuốt lấy.

Ao nước được bao diềm bởi đám sậy, nơi một con cóc đang kêu lên oàng oạc. Nó nông và ấm hơn dòng suối, cô phát hiện ra điều đó khi cởi giày và lội xuống. Cô đứng trong một lúc lâu, để cho nắng chiếu lên đầu và cơ thể, tận hưởng lớp bùn mát dưới chân và dòng chảy lạnh toát của nước suối quanh hai bắp chân.

Cô cúi xuống để vục mặt vào làn nước và làm tóc ướt đẫm, để cho nó rủ xuống rồi lại hất ngược trở lại, luồn những ngón tay vào rũ sạch bụi bẩn và cáu ghét ra.

Khi đã cảm thấy mình sạch sẽ hơn, cơn khát cũng đã được thỏa mãn, cô lại nhìn lên con dốc và thấy rằng Will đã tỉnh. Cậu đang ngồi gập đầu gối với hai cánh tay vắt qua chúng, phóng tầm mắt nhìn qua vùng đồng bằng như cô đã làm, và kinh ngạc trước quy mô của nó. Trước cả ánh sáng, hơi ấm, và sự tĩnh lặng ở đó.

Cô bé từ tốn trèo lên tới chỗ cậu và thấy cậu đang khắc tên hai người Gallivespia lên tấm bia nhỏ; sau đó đặt nó chắc chắn hơn vào nền đất.

“Chúng có…” Cậu nói, và cô biết rằng cậu ám chỉ những con linh thú.

“Không rõ nữa. Tớ vẫn chưa thấy Pan. Tớ có cảm giác cậu ấy không ở xa, nhưng tớ không biết. Cậu có nhớ chuyện đã xảy ra không?”

Cậu bé dụi mắt rồi ngáp sâu tới mức cô nghe thấy những tiếng răng rắc nho nhỏ nơi quai hàm. Rồi cậu chớp mắt và lắc đầu.

“Không nhiều lắm,” cậu nói. “Tớ bế Pantalaimon lên còn cậu bê con còn lại rồi chúng ta chui qua. Ánh trăng tràn ngập mọi nơi, rồi tớ đặt nó xuống để đóng cửa sổ lại.”

“Còn con linh thú của cậu - con còn lại cứ thế nhảy ra khỏi tay tớ,” cô nói. “Tớ đã cố nhìn ông Scoresby qua ô cửa sổ, cả Iorek nữa, rồi xem Pan đã đi đâu, khi tớ nhìn quanh thì chúng đã không còn ở đó nữa rồi.”

“Nhưng cảm giác không giống như khi chúng ta bước vào thế giới của người chết. Như khi chúng ta thật sự bị chia cắt.”

“Ừ,” cô bé đồng ý. “Đúng là chúng đang ở đâu đó gần đây. Tớ nhớ khi còn bé, chúng tớ thường thử chơi trốn tìm, nhưng chẳng bao giờ có hiệu quả cả. Vì tớ thì quá to để trốn khỏi cậu ấy, và tớ lại luôn biết chính xác cậu ấy ở đâu, kể cả cậu ấy có ngụy trang thành bướm đêm hay gì gì đi nữa. Nhưng chuyện này thật kì quặc,” cô nói, bất giác gạt tay lên quá đầu như để xua đi một thứ bùa mê nào đó, “cậu ấy không có ở đây, nhưng tớ lại không có cảm giác bị chia cắt, tớ thấy bình an, và biết rằng cậu ấy cũng vậy.”

“Chúng đang ở bên nhau, tớ nghĩ vậy,” Will nói.

“Ừ. Chắc chắn rồi.”

Đột nhiên cậu bé đứng bật dậy.

“Nhìn kìa,” cậu nói, “ở đằng kia…”

Cậu đang che mắt và chỉ trỏ. Cô bé dõi theo hướng nhìn của cậu và thấy một chuyển động rung rinh ở phía xa, khá khác biệt với sự rung động của không khí dưới cái nóng.

“Động vật à?” Cô ngờ vực nói.

“Lắng nghe đi,” cậu nói rồi đặt tay ra sau vành tai.

Giờ khi cậu đã chỉ ra, cô có thể nghe thấy một tiếng ầm ầm dai dẳng, gần như là tiếng sấm, ở cách đó rất xa.

“Chúng biến mất rồi,” Will vừa chỉ vừa nói.

Mảng không gian nhỏ chứa những cái bóng di động đã tan biến, nhưng tiếng ầm ầm vẫn tiếp tục thêm một lúc. Rồi đột nhiên mọi thứ trở nên yên ắng, mặc dù nó vốn đã rất yên tĩnh rồi. Hai đứa trẻ vẫn đang nhìn về hướng đó, và chẳng bao lâu chúng lại thấy chuyển động đó bắt đầu. Một lúc sau thì âm thanh vọng tới.

“Chúng đi ra đằng sau một dãy đồi hay gì đó,” Will nhận xét. “Chúng đã đến gần hơn chưa?”

“Chẳng thấy được rõ lắm. Phải rồi, chúng đang đổi hướng, nhìn kìa, chúng đang tiến về phía này.”

“Chà, nếu phải chiến đấu với chúng thì tớ muốn uống nước trước đã,” Will nói rồi cầm balô xuống dòng suối, cậu uống một hơi thật đẫy và gột rửa hầu hết bụi bẩn trên người. Vết thương của cậu đã chảy máu khá nhiều. Trông cậu thật khủng khiếp; cậu thèm khát được tắm nước nóng với rất nhiều xà phòng, và một ít quần áo sạch.

Lyra đang quan sát… một thứ gì đó; chúng thật lạ lùng.

“Will,” cô bé gọi, “chúng đang cưỡi trên những cái bánh xe…”

Nhưng cô nói điều đó một cách không chắc chắn. Cậu trèo trở lên con dốc một đoạn ngắn rồi che mắt để nhìn. Bây giờ cậu đã có thể thấy từng cá thể một. Cái nhóm hay đàn hay tốp đó gồm khoảng một tá cá thể, chúng đang di chuyển, như Lyra nói, trên những cái bánh xe. Trông chúng giống như một dạng lai tạp giữa linh dương và xe gắn máy, nhưng thậm chí còn kì quặc hơn: Chúng có vòi như những con voi nhỏ.

Chúng đang nhắm tới chỗ Will và Lyra, với một thái độ rất có mục đích. Will rút con dao ra, nhưng Lyra, ngồi trên nền cỏ bên cạnh cậu, đã đang quay kim Chân Kế.

Cái máy phản hồi lại nhanh chóng trong lúc đám sinh vật kia còn ở cách đó vài trăm mét. Cây kim quay nhanh sang trái rồi phải rồi trái và trái. Lyra lo lắng nhìn vì vài lần đọc gần đây nhất của cô khá khó khăn, tâm trí cô cảm thấy lúng túng và ngập ngừng khi cô bước xuống qua những nhánh của sự thấu hiểu. Thay vì lao đi như một chú chim từ điểm đặt chân này đến điểm kế tiếp, cô lại dùng tay lần từng bước một để đảm bảo; nhưng ý nghĩa vẫn ở đó, vững chắc như vốn có, và chẳng bao lâu sau cô đã hiểu ra nó muốn nói gì.

“Chúng rất thân thiện,” cô nói, “không sao đâu, Will ạ, chúng đang tìm chúng ta, chúng biết chúng ta ở đây… Mà kì lạ lắm, tớ không lí giải được… Tiến sĩ Malone?”

Cô nhắc đến cái tên nửa như với chính mình, vì cô không thể tin nổi Tiến sĩ Malone lại ở trong thế giới này. Thế nhưng Chân Kế lại ám chỉ bà rất rõ ràng, mặc dù đương nhiên là nó không thể nói ra tên bà. Lyra cất cái máy đi rồi từ từ đứng dậy bên cạnh Will.

“Tớ nghĩ chúng mình nên xuống đó gặp chúng,” cô bé nói. “Chúng sẽ không làm hại chúng ta đâu.”

Vài con trong số đó đã dừng lại, chờ đợi. Con đầu đàn tiến tới trước một chút, giương cao vòi, và chúng có thể thấy được nó đẩy người đi như thế nào, với những cú quệt về phía sau đầy uy lực của hai chân mọc hai bên hông. Vài con đã tới ao để uống nước; những con khác chờ đợi, nhưng không phải với sự tò mò ôn hòa và thụ động của những con bò tập trung trước một cánh cổng. Những sinh vật này là từng cá thể riêng biệt, sống động với sự thông thái và mục đích. Họ cũng giống như con người vậy.

Will và Lyra đi xuống dốc cho tới khi đến đủ gần để nói chuyện với họ. Dù đã nghe những gì Lyra nói, Will vẫn đặt tay lên con dao.

“Tôi không biết các vị có hiểu được tôi không,” Lyra thận trọng nói, “nhưng tôi biết là các vị thân thiện. Tôi nghĩ chúng ta nên…”

Con đầu đàn giơ vòi rồi nói: “Tới gặp Mary. Các bạn cưỡi. Chúng tôi chở. Tới gặp Mary.”

“Ồ!” Cô bé thốt lên rồi quay lại phía Will, mỉm cười mừng rỡ.

Hai trong số những sinh vật này được trang bị cương và bàn đạp bằng dây bện. Nhưng không có yên; tấm lưng hình kim cương của họ hóa ra lại rất thoải mái mà không cần đến yên. Lyra đã từng cưỡi gấu, còn Will từng cưỡi xe đạp, nhưng chưa đứa nào từng cưỡi ngựa, thứ gần nhất để có thể so sánh. Tuy nhiên, những người cưỡi ngựa thường là người điều khiển, còn lũ trẻ sớm nhận ra rằng chúng thì không: Dây cương và bàn đạp ở đó chỉ đơn thuần là để cho chúng thứ gì đó mà bám vào và giữ thăng bằng. Các sinh vật này mới là kẻ quyết định tất cả.

“Chúng ta đang đi đâu…” Will định lên tiếng nhưng phải ngừng lại để lấy thăng bằng khi con vật cử động bên dưới cậu.

Nhóm sinh vật quay vòng rồi lao xuống con dốc thoải, chầm chậm đi qua bãi cỏ. Chuyển động của họ khá mấp mô, nhưng không phải là khó chịu, vì những sinh vật này không có xương sống: Will và Lyra cảm thấy như chúng đang ngồi trên những cái ghế gắn lò xo loại xịn.

Chẳng bao lâu sau chúng đã tới chỗ mà mình đã không thể nhìn rõ được từ con dốc: Một trong những mảng đất màu đen và nâu sẫm. Chúng cũng kinh ngạc khi thấy những con đường bằng đá nhẵn mịn uốn lượn qua vùng đồng bằng hệt như Mary Malone đã thấy trước đó ít lâu.

Đám sinh vật lăn tới bề mặt đó và khởi hành, nhanh chóng tăng tốc độ. Con đường giống với một lòng sông hơn là một xa lộ, vì cứ thỉnh thoảng nó lại mở rộng ra thành những khoảng lớn giống như những cái hồ nhỏ, rồi có lúc lại tẽ ra thành những con kênh hẹp chỉ để lại tái hợp một cách khó lường. Khá là khác biệt với những con đường hiểm nghèo ở thế giới của Will khi chúng cắt qua những sườn đồi và nhảy ngang thung lũng trên những cây cầu bằng bê tông. Đường ở đây là một phần của cảnh vật, không phải là ép buộc lên nó.

Họ đang di chuyển ngày càng nhanh. Phải mất một lúc Will và Lyra mới làm quen được với xung lực sống động của các cơ bắp và tiếng rền đến rùng mình của những cái bánh xe cứng trên nền đá cứng. Ban đầu Lyra cảm thấy khó khăn hơn Will, vì cô chưa từng cưỡi xe đạp bao giờ, cô cũng không biết mẹo tì vào góc, nhưng bằng cách nhìn theo cậu làm, cô đã mau chóng cảm thấy tốc độ đó thật phấn khích.

Những cái bánh xe quá ồn ào để chúng có thể nói chuyện. Thay vào đó, chúng phải chỉ trỏ: vào những cái cây, kinh ngạc trước kích cỡ và sự lộng lẫy của chúng; vào một đàn chim kì quặc nhất mà chúng từng thấy, những cái cánh phía trước và phía sau tạo cho chúng một chuyển động xoắn vặn trong không khí; vào một con thằn lằn xanh béo quay, dài như một con ngựa nằm phơi nắng ngay chính giữa đường (những sinh vật gắn bánh chia ra để chạy sang hai bên và không buồn bận tâm đến nó).

Mặt trời đã lên cao khi họ bắt đầu giảm tốc. Trong không khí, không thể nhầm lẫn được, là mùi muối của biển. Con đường đang dâng lên về phía một con dốc đứng, ngay lập tức họ chuyển về tốc độ không khác gì đi bộ.

Lyra, người cứng đờ và đau nhức, nói: “Bạn có thể dừng lại được không? Tôi muốn xuống đi bộ.”

Sinh vật của cô cảm nhận được cú giật cương, và dù cho có hiểu được những lời của cô hay không thì nó cũng dừng lại. Sinh vật của Will cũng làm theo, rồi hai đứa trẻ trèo xuống, thấy người cứng đờ và run rẩy sau khi liên tục bị xóc nảy và căng thẳng.

Các sinh vật lăn bánh lại vòng quanh để nói chuyện, vòi của họ cử động thanh nhã đồng thời với những âm thanh mà họ tạo ra. Một phút sau, họ lại lên đường, Will và Lyra vui sướng được bước đi giữa những sinh vật có mùi cỏ khô và ấm như cỏ tươi đang lăn bánh bên cạnh. Một hoặc hai con đã đi trước tới đỉnh dốc, còn lũ trẻ, lúc này không còn phải tập trung vào việc bám chắc, đã có thể thấy được cách họ di chuyển, và khâm phục sự duyên dáng và uy lực mà họ dùng để đẩy người tới trước, nghiêng người và chuyển hướng.

Vừa lên tới đỉnh dốc, họ dừng lại. Will và Lyra nghe thấy con đầu đàn nói: “Mary ở gần. Mary ở đó.”

Chúng nhìn xuống. Trên đường chân trời là một mảng xanh lập lờ của đại dương. Một con sông lớn chầm chậm trôi, uốn mình qua vùng đồng cỏ phì nhiêu ở khoảng giữa, và dưới chân con dốc dài, nằm giữa những bãi cây nhỏ và hàng rau xanh, tọa lạc một ngôi làng lợp tranh. Nhiều sinh vật giống như thế này đang đi qua đi lại giữa những ngôi nhà, chăm sóc mùa vụ, hay làm việc giữa đám cây.

“Giờ cưỡi tiếp nào,” con đầu đàn nói.

Để tới đó không xa. Will và Lyra trèo lên một lần nữa, những sinh vật còn lại quan sát thật kĩ thăng bằng của chúng và kiểm tra bàn đạp bằng vòi, như để đảm bảo cho lũ trẻ được an toàn.

Rồi họ lên đường, nện lên nền đường bằng những cái chân mọc ngang, thúc bản thân đi xuống con dốc cho tới khi đạt một tốc độ kinh hoàng. Will và Lyra bám chặt bằng tay và đầu gối, cảm thấy không khí quất tới tấp vào mặt, hất tóc chúng ngược trở lại và ép lên cầu mắt chúng. Tiếng rầm rầm của những cái bánh, sự tuôn chảy của đồng cỏ ở hai bên, cú nghiêng người chắc chắn và uy lực vào đường cong rộng phía trước mặt, cảm giác mê mẩn khiến đầu óc trống rỗng mà tốc độ tạo ra - các con vật yêu kiều này, còn Will và Lyra cảm nhận được niềm sung sướng của họ và vui vẻ cười đáp lại.

Họ dừng lại tại trung tâm làng, những con khác khi thấy họ tới bèn tụ tập lại xung quanh, giương cao vòi và nói những lời chào mừng.

Và rồi Lyra hét lên: “Tiến sĩ Malone!”

Mary vừa bước ra từ một trong những căn lều, chiếc áo xanh bạc màu của bà, dáng người chắc nịch của bà, đôi má ấm áp ửng hồng của bà vừa lạ lại vừa thân quen.

Lyra chạy tới ôm chầm lấy bà, người phụ nữ cũng ôm chặt lấy cô trong lúc Will đứng lại, cẩn trọng và hồ nghi.

Mary hôn Lyra đầy nồng ấm rồi bước tới chào mừng Will. Rồi một vũ điệu tưởng tượng kì lạ của sự cảm thông và bối rối diễn ra trong vòng chưa đầy một giây.

Xúc động vì lòng thương cho tình trạng của chúng, ban đầu Mary đã định ôm lấy cả cậu bé lẫn Lyra. Nhưng Mary đã trưởng thành, còn Will cũng gần như đã lớn, bà có thể thấy rằng phản ứng như thế sẽ giống như coi cậu là trẻ con, bởi bà có thể sẽ ôm ấp một đứa trẻ, nhưng sẽ không bao giờ làm điều đó với một người đàn ông không quen; vậy là bà thầm rút lui, mong muốn hơn tất thảy là tôn trọng người bạn này của Lyra chứ không phải khiến cậu mất mặt.

Vậy nên thay vào đó, bà chìa tay ra và cậu nắm lấy nó, một dòng thấu hiểu và tôn trọng truyền đi giữa họ, mạnh mẽ tới mức lập tức trở thành yêu quý, và mỗi người bọn họ lại có cảm giác mình vừa gặp được một người bạn trọn đời; và điều đó không hề sai.

“Đây là Will,” Lyra nói, “cậu ấy đến từ thế giới của bà - nhớ không, cháu đã kể với bà về cậu ấy…”

“Ta là Mary Malone,” bà nói, “các cháu đói rồi, cả hai đứa, trông các cháu như gần chết đói vậy.”

Bà quay sang con vật đứng bên cạnh và thốt lên vài âm thanh ngân nga, huýt sáo, vừa nói vừa khua tay.

Lập tức, các sinh vật bỏ đi, vài con mang tới đệm và thảm từ ngôi nhà gần nhất rồi đặt chúng lên nền đất cứng dưới một cái cây gần đó, nơi tán lá rậm rạp và những cành rủ thấp tạo ra một bóng râm mát mẻ và thơm ngát.

Ngay khi họ đã ngồi thoải mái, các vị chủ nhà mang ra những chiếc bát gỗ nhẵn mịn đầy ngập sữa, hơi thoang thoảng vị chất làm se hương chanh và khiến cả người khoan khoái; thêm những quả hạch nhỏ như hạt phỉ, nhưng có vị bơ đậm đà hơn; rồi rau tươi vừa nhổ lên từ đất, những chiếc lá hồ tiêu sắc nhọn xen lẫn với những chiếc dày và mềm đang rỉ ra nhựa mịn như kem, và những cái rễ nhỏ cỡ quả anh đào có vị như cà rốt ngọt.

Nhưng chúng không ăn nhiều. Đồ ăn quá ngậy. Will muốn tận hưởng sự hào phóng của họ, nhưng thứ duy nhất mà cậu có thể dễ dàng nuốt trôi, ngoại trừ đồ uống, là một thứ bánh mì phủ bột dẹt, hơi sém giống như chapatti hay tortilla. Nó giản dị và bổ dưỡng, và là tất cả những gì Will có thể chịu được. Lyra thử mỗi thứ một ít, nhưng cũng giống như Will, cô sớm nhận ra rằng chỉ một chút là cũng đã đủ.

Mary cố gắng tránh đặt bất cứ câu hỏi nào. Hai đứa trẻ này đã kinh qua một trải nghiệm hằn sâu lên cơ thể chúng: Chúng chưa muốn nhắc tới nó vội.

Vậy là bà trả lời câu hỏi của chúng về người mulefa, rồi kể ngắn gọn về cách mà bà đã tới thế giới này; sau đó bà để chúng lại dưới bóng cây vì bà có thể thấy mí mắt chúng đang rũ xuống còn đầu thì gà gật.

“Giờ hai cháu không phải làm gì cả, chỉ cần ngủ thôi,” bà nói.

Không khí buổi chiều thật ấm áp và tĩnh lặng, bóng cây rả rích tiếng dế kêu, khiến cơn buồn ngủ ập đến. Chỉ chưa đầy năm phút sau khi nuốt ực chỗ đồ uống còn lại, cả Will và Lyra đã lăn ra ngủ khò.

Chúng thuộc hai giới tính sao? Atal ngạc nhiên hỏi. Nhưng làm sao bà biết được?

Dễ lắm, Mary nói. Cơ thể chúng có hình dạng khác nhau. Chúng di chuyển cũng khác nhau nữa.

Chúng không nhỏ hơn bà quá nhiều. Nhưng lại có ít sraf hơn. Khi nào thì nó sẽ đến với chúng?

Tôi không biết, Mary nói. Tôi đoán là sớm thôi. Tôi không biết nó xảy đến với chúng tôi khi nào.

Không có bánh xe, Atal nói đầy vẻ cảm thông.

Họ đang nhổ cỏ trong vườn rau. Mary đã chế tạo một cái cuốc để khỏi phải cúi người xuống; Atal sử dụng vòi, nên cuộc trò chuyện của họ thỉnh thoảng lại bị gián đoạn.

Nhưng bà đã biết rằng chúng sắp tới, Atal nói.

Phải.

Mấy cái que nói cho bà biết à?

Không, Mary đáp, đỏ mặt. Bà là một nhà khoa học; phải thừa nhận rằng mình tham khảo Kinh Dịch là đã đủ tồi tệ rồi, nhưng việc này còn đáng xấu hổ hơn. Đó là một thước phim đêm, bà thú nhận.

Người mulefa không có từ đơn nào cho giấc mơ. Mặc dù họ mơ rất sinh động, và cực kì coi trọng những giấc mơ của mình.

Bà không thích những thước phim đêm, Atal nói.

Có chứ. Nhưng tôi đã không tin vào chúng cho tới tận bây giờ. Tôi đã thấy cậu bé và cô bé rất rõ rệt, rồi một giọng nói bảo tôi phải chuẩn bị đón chúng.

Giọng nói kiểu gì cơ? Làm sao nó nói được nếu bà không thể nhìn thấy nó?

Thật khó để Atal có thể tưởng tượng ra lời nói mà không có cử động vòi để làm rõ ý. Cô dừng lại giữa một hàng đậu rồi đối diện với Mary bằng vẻ tò mò mê mẩn.

À, tôi có thấy, Mary nói. Đó là một người phụ nữ, hoặc một nhà thông thái nữ giới, như chúng ta, như đồng loại của tôi. Nhưng rất già mà lại không hề già chút nào.

Nhà thông thái là từ mà người mulefa dùng để gọi những người lãnh đạo của mình. Bà thấy rằng Atal đang tỏ ra cực kì hứng thú.

Làm sao mà người đó có thể vừa già lại vừa không già được? Atal hỏi.

Đó chỉ là giả bộ thôi, Mary nói.

Atal vung vẩy vòi, tỏ ra an tâm.

Mary tiếp tục giải thích rõ nhất có thể: Bà ấy nói rằng tôi nên trông đợi bọn trẻ đến, rồi khi nào chúng sẽ xuất hiện, và ở đâu. Nhưng không nói tại sao. Tôi chỉ phải chăm sóc chúng thôi.

Chúng đang bị đau và mệt, Atal nói. Liệu chúng có ngăn được sraf bay đi không?

Mary lo lắng nhìn lên. Không cần kiểm tra bằng ống nhòm bà cũng biết rằng các hạt Bóng đang tuôn đi nhanh hơn bao giờ hết.

Tôi hi vọng vậy, bà nói. Nhưng tôi không biết làm thế nào.

Đầu giờ tối, khi những đống lửa nấu nướng đã được nhóm và những ngôi sao đầu tiên hé lộ, một toán người lạ xuất hiện. Mary đang tắm rửa; bà nghe thấy tiếng bánh xe của họ nện ầm ầm, tiếng rì rầm nói chuyện đầy lo lắng, nên vừa lau người vừa chạy ra khỏi nhà.

Will và Lyra đã ngủ cả buổi chiều, khi nghe thấy tiếng ồn, chúng mới bắt đầu tỉnh giấc. Lyra chệnh choạng ngồi dậy và thấy Mary đang nói chuyện với năm hay sáu người mulefa vây lấy bà, rõ ràng là đang bị kích động; nhưng họ tức giận hay vui sướng thì cô không thể đoán được.

Khi nhìn thấy cô bé, Mary liền chạy khỏi đó.

“Lyra,” bà nói, “có chuyện vừa xảy ra - họ tìm thấy một thứ không thể lí giải nổi và nó… Ta không biết nó là gì nữa… Ta phải đi xem xem sao. Nó ở cách đây khoảng một giờ đồng hồ. Ta sẽ quay lại sớm nhất có thể. Nếu có cần bất cứ thứ gì trong nhà ta thì cứ tự nhiên lấy nhé - ta không thể dừng họ được, họ đang rất lo lắng…”

“Được ạ,” Lyra nói, vẫn còn đang đờ đẫn vì giấc ngủ dài.

Mary nhìn xuống dưới tán cây. Will đang dụi mắt.

“Ta thật sự sẽ không đi quá lâu đâu,” bà nói. “Atal sẽ ở lại với các cháu.”

Người thủ lĩnh đang tỏ ra sốt ruột. Mary nhanh chóng lẳng dây cương và bàn đạp lên lưng ông ta, xin thứ lỗi vì vụng về, rồi lập tức leo lên. Họ lăn bánh, đổi hướng rồi chạy đi vào ánh chạng vạng.

Họ khởi hành theo một hướng mới, dọc theo dãy đồi trên bờ biển về phía bắc. Mary chưa từng cưỡi mulefa đi trong bóng tối bao giờ, và bà thấy tốc độ lúc này còn đáng sợ hơn cả vào ban ngày. Khi họ leo lên cao, Mary có thể thấy ánh trăng lấp lánh trên mặt biển phía xa bên tay trái, ánh sáng nâu đỏ pha lẫn bạc của nó dường như bao bọc lấy bà trong một sự kinh ngạc hoài nghi đầy tươi mát. Sự kinh ngạc ở trong bà, sự hoài nghi nằm trong thế giới, còn vẻ tươi mát có trong cả hai.

Thỉnh thoảng bà lại nhìn lên và chạm vào chiếc ống nhòm trong túi áo, nhưng bà không thể sử dụng nó cho tới khi họ ngừng di chuyển. Mà những mulefa này lại đang di chuyển đầy gấp gáp, với biểu hiện không muốn dừng lại vì bất cứ điều gì. Sau một giờ chạy thật lực, họ đổi hướng chạy vào trong đất liền, rời khỏi con đường đá và chầm chậm đi dọc theo một lối mòn bằng đất bị cày xới chạy giữa những thân cỏ cao đến đầu gối, qua khóm cây bánh xe và lên phía một rặng đồi. Phong cảnh sáng bừng dưới ánh trăng: Những ngọn đồi trọc rộng lớn điểm xuyết những khe nhỏ nơi suối róc rách chảy xuống giữa những đám cây mọc dày đặc ở đó.

Họ dẫn bà về phía một trong những khe nước đó. Bà đã trèo xuống khi họ rời khỏi con đường và đang đều đều bước theo tốc độ của họ trên đỉnh đồi rồi xuống tới khe nước.

Mary nghe thấy tiếng dòng suối róc rách chảy và tiếng gió đêm luồn trong cỏ. Bà nghe thấy âm thanh lặng lẽ của bánh xe lạo xạo trên nền đất nèn cứng, và bà nghe thấy những người mulefa phía trước mình lầm rầm nói chuyện với nhau, rồi họ dừng lại.

Bên sườn đồi, chỉ cách đó vài mét, là một trong những lỗ thông được tạo bởi con dao kì ảo. Trông nó giống như một miệng hang, vì ánh trăng chỉ chiếu vào trong đó chút ít, như thể bên trong lỗ thông chính là bên trong của ngọn đồi: nhưng không phải vậy. Và từ đó tuôn ra một đoàn diễu hành của những hồn ma.

Mary cảm thấy như mặt đất đang rời ra dưới tâm trí mình. Bà giật mình bừng tỉnh và tóm lấy cành cây gần nhất để an tâm rằng đây vẫn là thế giới vật chất, và bà vẫn là một phần trong đó.

Bà tiến lại gần hơn. Những người đàn ông và đàn bà già cỗi, trẻ nhỏ, trẻ sơ sinh được ẵm, con người và cả những loài vật khác nữa, càng ngày họ càng tuôn ra dày đặc khỏi bóng tối để bước vào thế giới của ánh trăng thuần nhất - rồi tan biến.

Đó là điều kì quặc nhất. Họ tiến vài bước vào thế giới của cỏ cây, không khí và ánh sáng bạc, rồi nhìn quanh, nét mặt biến đổi với niềm vui hiện hữu - Mary chưa từng thấy niềm vui nào mãnh liệt đến thế - họ dang tay ra như thể đang ôm trọn lấy cả vũ trụ; và rồi, như thể được cấu tạo từ sương hay khói, họ cứ thế trôi đi, trở thành một phần của đất, của sương đọng, và của gió đêm.

Một vài trong số họ tiến về phía Mary như muốn nói với bà điều gì đó. Họ vươn tay ra, và bà cảm thấy sự tiếp xúc của họ như những cơn sốc nhỏ của cái lạnh. Một trong những hồn ma - một bà lão - ra hiệu, giục bà tới gần.

Rồi bà lên tiếng, Mary nghe thấy bà nói:

“Hãy kể chuyện cho họ nghe đi. Đó là những điều chúng tôi đã không biết tới. Suốt cả thời gian qua, chúng tôi không hề biết! Nhưng họ cần được biết sự thật. Đó là thứ nuôi dưỡng họ. Bà phải kể cho họ những câu chuyện thật, rồi mọi thứ sẽ ổn thôi, tất cả mọi thứ. Chỉ cần kể chuyện cho họ thôi.”

Chỉ có vậy, rồi bà biến mất. Đó là một trong những khoảnh khắc khi ta đột nhiên nhớ lại một giấc mơ mà không hiểu sao mình đã quên mất, và trong dòng chảy cuồn cuộn, toàn bộ những cảm xúc ta có trong giấc ngủ đổ dồn về. Đó chính là giấc mơ mà bà đã cố gắng diễn tả cho Atal, thước phim đêm; nhưng khi Mary cố gắng lục tìm lại, nó tan biến rồi trôi đi mất, hệt như những sự hiện diện này trong bầu không gian rộng mở. Giấc mơ đã tan biến.

Tất cả những gì còn sót lại là sự ngọt ngào của cảm giác đó, và mệnh lệnh hãy kể chuyện cho họ.

Bà nhìn vào bóng đêm. Cho tới tận cuối tầm nhìn của bà vào trong sự tĩnh lặng vô bờ đó, ngày càng có thêm những hồn ma tiến tới, hàng ngàn nối tiếp hàng ngàn, như dân tị nạn trở về với quê hương.

“Hãy kể chuyện cho họ,” bà tự nói với bản thân.