- 33 - Bánh marzipan
Mùa xuân dịu ngọt, đầy tràn những ngày ngọt ngào và hoa hồng,
Một chiếc hộp chan chứa mật ngọt
George Herbert
Sáng hôm sau, Lyra tỉnh dậy khỏi một giấc mơ mà trong đó Pantalaimon đã trở lại bên cô và bộc lộ hình dạng cuối cùng của nó; cô rất thích hình dạng đó, nhưng giờ lại chẳng biết được đấy là gì.
Mặt trời vừa lên không lâu, không khí thoang thoảng một hương hoa tươi mới. Cô có thể nhìn thấy ánh nắng qua cánh cửa mở của căn lều nhỏ lợp tranh mà mình ngủ lại, nhà Mary. Cô nằm lại một lúc, lắng nghe. Có tiếng chim chóc phía bên ngoài, cùng một loại dế gì đó, và Mary đang thở khe khẽ trong giấc ngủ bên cạnh.
Lyra ngồi dậy và thấy mình trần truồng. Cô hơi nổi cáu, nhưng sau đó thấy có quần áo sạch được gập sẵn trên nền nhà cạnh mình: một cái áo của Mary, một mảnh vải dài đính hoa văn, nhẹ và mềm mại, mà cô có thể thắt thành một cái váy. Cô mặc lên, cảm thấy như đang bơi trong cái áo, nhưng ít nhất như thế cũng lịch sự.
Cô rời khỏi căn lều. Pantalailmon đang ở gần đó: Cô biết chắc chắn. Cô gần như có thể nghe thấy tiếng nó cười nói. Điều đó hẳn có nghĩa là nó vẫn an toàn, và chúng vẫn liên kết với nhau bằng một cách nào đó. Rồi khi nó tha thứ cho cô và trở về - hàng giờ đồng hồ mà chúng sẽ dành chỉ để nói chuyện, chỉ để kể cho nhau nghe về mọi thứ…
Will vẫn đang ngủ dưới tán cây, đúng là đồ lười. Lyra nghĩ tới việc đánh thức cậu dậy, nhưng nếu chỉ có một mình, cô có thể xuống sông bơi. Cô thường sung sướng trần truồng bơi tại sông Cherwell, cùng với tất cả những đứa trẻ Oxford khác, nhưng sẽ khá khác khi với Will, chỉ nghĩ tới điều đó đã khiến cô đỏ cả mặt.
Vậy là cô một mình bước xuống làn nước trong buổi sớm nhuộm màu ngọc trai. Giữa những cây sậy mọc bên rìa là một con chim cao, mảnh khảnh như chim diệc, đứng bất động tuyệt đối trên một chân. Cô bước đi thật nhẹ nhàng và chậm rãi để không quấy rầy nó, nhưng con chim chỉ coi cô như một cành non trên mặt nước và không buồn bận tâm.
“Được thôi,” cô thốt lên.
Cô để lại quần áo trên bờ rồi đầm mình xuống sông. Cô bơi thật lực để giữ ấm, rồi hối hả leo lên bờ, người run lên cầm cập. Thông thường Pan sẽ giúp cô làm khô người: Liệu có phải nó đang là một con cá và cười giễu cô từ dưới nước? Hay một con bọ cánh cứng, lẻn vào quần áo để cù cô, hay một con chim? Hoặc nó đang ở đâu đó hoàn toàn khác cùng với con linh thú kia, và Lyra chẳng hề có mặt trong tâm trí nó?
Mặt trời giờ đã trở nên ấm áp hơn, chẳng bao lâu sau người cô đã khô. Cô mặc lại cái áo lùng thùng của Mary rồi, thấy vài viên đá dẹt trên bờ, đi lấy quần áo của mình để giặt chúng. Nhưng cô thấy rằng có ai đó đã làm xong hết cả rồi: Quần áo của cô, cả của Will nữa, được vắt trên những cành non đàn hồi của một bụi cây thơm phức, gần như đã khô.
Will đang cựa quậy. Cô ngồi xuống bên cạnh rồi khẽ gọi.
“Will! Tỉnh dậy đi!”
“Chúng ta đang ở đâu đây?” Cậu lập tức hỏi, rồi ngồi dậy, với lấy con dao.
“An toàn rồi,” cô nói rồi nhìn đi chỗ khác. “Họ cũng đã giặt quần áo cho chúng ta nữa, hoặc là Tiến sĩ Malone làm. Tớ sẽ đi lấy đồ của cậu. Chúng gần khô rồi…”
Cô chuyển chúng vào rồi ngồi quay lưng lại cho tới khi cậu mặc xong đồ.
“Tớ đã bơi dưới sông,” cô nói. “Tớ đã đi tìm Pan, nhưng tớ nghĩ là cậu ấy đang trốn.”
“Ý tưởng hay đấy. Bơi ấy. Tớ cảm thấy như mình đang có tới vài năm bụi bẩn tích tụ trên người vậy… Tớ đi xuống tắm rửa đây.”
Trong lúc cậu đi, Lyra lang thang quanh làng, không nhìn quá kĩ vào bất cứ thứ gì phòng trường hợp vi phạm một phép lịch sự nào đó, nhưng lại thấy tò mò về mọi thứ mình thấy. Một vài ngôi nhà rất cũ còn một vài lại khá mới, nhưng chúng đều được xây gần như theo cùng một cách từ gỗ, đất sét và tranh. Không hề có gì thô cứng trong đó; mỗi cánh cửa, khung cửa sổ và rầm đỡ đều được phủ lên những hoa văn đầy tinh tế, nhưng những hoa văn đó không phải được khắc vào gỗ: Cứ như thể chúng đã thuyết phục gỗ lớn lên thành hình dạng đó một cách tự nhiên vậy.
Càng nhìn, cô càng thấy đủ kiểu trật tự và lưu tâm trong làng, giống như những lớp nghĩa trong chiếc Chân Kế. Một phần tâm trí cô háo hức muốn giải đáp tất cả, muốn nhẹ bước từ sự tương đồng này sang sự tương đồng khác, từ ý nghĩa này sang ý nghĩa khác như đã làm với cái máy; nhưng một phần khác lại tự hỏi không biết chúng có thể ở lại đây bao lâu trước khi buộc phải tiếp tục lên đường.
Nhưng mình sẽ không đi bất cứ đâu cho tới khi Pan quay trở lại, cô tự nhủ.
Đúng lúc đó Will bước lên từ con sông, rồi đến Mary bước ra khỏi nhà và gọi chúng tới dùng bữa sáng; không lâu sau Atal cũng tới, và ngôi làng bừng tỉnh quanh họ. Hai đứa trẻ người mulefa, không có bánh xe, cứ không ngừng nhòm trộm vào từ bên rìa nhà, và Lyra sẽ đột ngột quay ngoắt lại, nhìn thẳng vào chúng, để khiến chúng giật nảy và cười phá lên vì hoảng hốt.
“Được rồi,” Mary nói khi họ đã dùng chút bánh mì và hoa quả, uống một loại nước pha nóng bóng lưỡi của thứ gì đó như bạc hà. “Hôm qua các cháu đã quá mệt nên tất cả những gì có thể làm là nghỉ ngơi. Nhưng hôm nay trông các cháu hoạt bát hơn rất nhiều rồi, cả hai đứa, ta nghĩ chúng ta cần kể cho nhau nghe mọi thứ mình tìm hiểu được. Việc đó sẽ ngốn khá nhiều thời gian, mà ta cũng nên tạo việc làm cho hai bàn tay trong lúc nói chuyện, nên ta sẽ làm cho bản thân có ích bằng cách sửa vài tấm lưới.”
Họ bê chồng vải màn quét hắc ín cứng quèo đến bờ sông rồi trải rộng nó ra trên nền cỏ. Mary chỉ cho chúng cách kết một sợi dây mới ở chỗ đã bị sờn. Bà đang rất cảnh giác, vì Atal đã kể với bà về các gia đình bên bờ biển phía xa đã thấy một số lượng lớn tualapi, những con chim trắng, tụ tập ngoài biển khơi, và tất cả mọi người đều chuẩn bị sẵn sàng, chỉ cần có cảnh báo là lập tức rời đi; nhưng trong lúc đó thì công việc vẫn phải được tiến hành.
Vậy là họ ngồi làm việc dưới ánh nắng, bên con sông êm đềm trôi. Lyra kể về câu chuyện của mình, từ một khoảnh khắc rất lâu về trước khi cô và Pan quyết định ngó vào Phòng nghỉ tại Học viện Jordan.
Nước triều dâng lên rồi lại hạ xuống, nhưng vẫn không có bóng dáng con tualapi nào. Chiều muộn hôm đó, Mary dẫn Will và Lyra đi dọc theo bờ sông, qua những điểm câu cá nơi những tấm lưới được buộc lại, rồi qua khu đầm lầy nước mặn mênh mông để hướng về phía biển. Sẽ an toàn để đi ra đó khi triều đã rút, vì lũ chim trắng chỉ vào đất liền khi nước dâng cao. Mary dẫn đường men theo một con đường đất cứng bên trên bùn lầy; giống như nhiều thứ mà người mulefa chế tạo, con đường đã có từ rất lâu và được bảo trì hoàn hảo, giống một phần của tự nhiên hơn là một thứ áp đặt lên đó.
“Họ đã xây nên những con đường đá này à?” Will hỏi.
“Không. Ta nghĩ là những con đường đã làm nên họ, theo một cách nào đó,” Mary đáp. “Ý ta là họ đã chẳng bao giờ phát triển việc sử dụng bánh xe nếu không có vô vàn những bề mặt phẳng và cứng để lăn trên đó. Ta nghĩ chúng là các dòng dung nham từ những ngọn núi lửa cổ xưa.
“Vậy nên những con đường giúp họ có thể sử dụng bánh xe. Rồi cả những thứ khác cũng góp phần vào. Ví dụ như bản thân loài cây bánh xe, và cái cách mà cơ thể họ được tạo thành - họ không phải là động vật có xương sống. Do một tình cờ may mắn nào đó tại thế giới của chúng ta rất lâu về trước đã khiến cho những sinh vật có xương sống có cuộc sống dễ dàng hơn đôi chút, vậy nên tất cả các hình dạng khác phát triển đều dựa trên xương sống trung tâm. Tại thế giới này, cơ hội lại đi theo một hướng khác, và dạng cơ thể kim cương trở nên thành công. Có cả những động vật có xương sống nữa, chắc chắn rồi, nhưng không nhiều. Như rắn chẳng hạn. Ở đây rắn rất quan trọng. Người dân chăm sóc chúng và cố gắng không làm hại đến chúng.
“Dù sao thì, hình dạng của họ, những con đường, và loài cây bánh xe, tất cả hợp lại với nhau để khiến điều đó khả thi. Rất nhiều cơ hội nhỏ xíu cùng hợp lại với nhau. Phần câu chuyện của cháu bắt đầu khi nào vậy, Will?”
“Với cháu cũng là rất nhiều cơ hội nhỏ xíu,” cậu bắt đầu, nghĩ tới con mèo dưới hàng cây duyên mộc. Nếu cậu tới đó sớm hoặc muộn ba mươi giây, cậu sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy con mèo, chẳng bao giờ tìm thấy ô cửa sổ, chẳng bao giờ phát hiện ra Cittàgazee và Lyra; chẳng có gì trong câu chuyện này xảy ra cả.
Cậu thuật lại từ đầu, họ vừa đi vừa lắng nghe. Vào lúc họ tới vùng đầm lầy, cậu đã kể tới đoạn cậu và bố mình đang giao đấu trên đỉnh núi.
“Và rồi một phù thủy đã giết ông ấy…”
Cậu vẫn chưa thể hiểu nổi điều đó. Cậu giải thích điều mà cô ta đã nói với mình trước khi tự sát: Cô từng đem lòng yêu John Parry, nhưng ông lại khinh miệt cô.
“Nhưng mà phù thủy hung bạo thật đấy,” Lyra nhận xét.
“Nhưng nếu cô ta yêu ông ấy…”
“À,” Mary nói, “tình yêu cũng tàn bạo lắm.”
“Nhưng ông ấy yêu mẹ cháu,” Will nói. “Tất cả những gì cháu có thể kể cho cô ta là bố chưa từng phản bội mẹ.”
Lyra, nhìn sang Will, nghĩ rằng nếu cậu đem lòng yêu ai đó, cậu cũng sẽ cư xử như vậy.
Khắp nơi xung quanh họ, những tiếng động khe khẽ của buổi chiều lững lờ trong không khí ấm áp: tiếng tí tách lọp bọp không ngừng của đầm lầy, tiếng côn trùng rả rích, tiếng mòng biển miên man. Nước triều đã rút hoàn toàn, để lại toàn bộ chiều dài bãi biển thoáng đãng và lấp lánh dưới ánh nắng rực rỡ. Hàng tỉ sinh vật sống trong bùn nhỏ xíu sinh sống, ăn uống rồi chết đi trong lớp cát trên cùng, những cái xác lột nhỏ, lỗ thở và những chuyển động vô hình cho thấy toàn bộ cảnh vật đang rung động bởi sự sống.
Không nói với bọn trẻ lí do, Mary nhìn ra mặt biển phía xa, rà soát đường chân trời để tìm những cánh buồm trắng. Nhưng chỉ có ánh sáng lấp lánh mờ ảo nơi màu xanh của bầu trời nhạt dần tại ranh giới của mặt biển, biển cả đón lấy màu sắc nhạt nhòa đó rồi khiến nó lung linh trong không khí rung động.
Bà chỉ cho Will và Lyra cách thu lượm một loại động vật thân mềm đặc biệt nhờ tìm các ống thở của chúng trên mặt cát. Người mulefa rất thích chúng nhưng họ lại khó có thể đi lại trên cát để thu nhặt được chúng. Cứ khi nào ra bờ biển, Mary đều cố gắng thu hoạch nhiều nhất có thể, và giờ khi có ba đôi tay, ba đôi mắt cùng làm việc, họ sẽ có một bữa tiệc linh đình.
Bà đưa cho mỗi đứa một cái túi vải, rồi họ bắt tay vào làm trong lúc lắng nghe phần tiếp theo của câu chuyện. Đều đều, họ nhét đầy các túi, sau đó Mary lặng lẽ dẫn lũ trẻ trở lại rìa đầm lầy, vì nước triều lại đang dâng.
Câu chuyện ngốn khá nhiều thời gian; họ không kể đến được thế giới của người chết ngay ngày hôm đó. Khi họ gần tới làng, Will đang kể với Mary về điều mà cậu và Lyra đã phát hiện ra về bản chất ba phần của loài người.
“Các cháu biết đấy,” Mary nói, “Giáo hội - Giáo hội Công giáo mà ta từng thuộc về - không sử dụng từ linh thú, nhưng Thánh Paul có nói đến linh hồn, tâm hồn và cơ thể. Vậy nên ý tưởng về ba phần trong bản chất con người cũng không phải quá lạ lùng.”
“Nhưng phần tuyệt vời nhất là cơ thể,” Will nói. “Đó là điều mà Baruch và Balthamos đã nói với cháu. Các thiên thần ước ao có được thể xác. Họ nói rằng các thiên thần không thể hiểu nổi tại sao chúng ta không tận hưởng thế giới nhiều hơn. Họ sẽ sung sướng mê mẩn nếu có da thịt và các giác quan của chúng ta. Trong thế giới của người chết…”
“Để tới khi tới đó đã rồi hẵng kể,” Lyra nói, rồi cô mỉm cười với cậu, một nụ cười của tri thức và vui sướng ngọt ngào tới mức khiến các giác quan của cậu phải bối rối. Cậu mỉm cười đáp lại, và Mary nghĩ rằng biểu cảm của cậu thể hiện sự tin tưởng toàn vẹn nhất mà bà từng thấy trên mặt một người.
Vào lúc này họ đã tới làng, giờ là lúc phải chuẩn bị bữa tối. Vậy là Mary để hai đứa trẻ lại bên bờ sông, nơi chúng ngồi ngắm nước triều dâng lên, rồi tới giúp Atal bên đống lửa nấu bếp. Người bạn của cô vui mừng khôn xiết vì vụ thu hoạch động vật thân mềm hai mảnh vỏ.
Nhưng Mary ạ, cô nói, lũ tualapi đã hủy diệt một ngôi làng ở xa phía trên đường bờ biển, và liên tiếp vài ngôi làng nữa. Trước đây chúng chưa từng làm vậy. Thông thường chúng chỉ tấn công một chỗ rồi lại rút về biển. Và lại thêm một cái cây nữa đổ xuống vào ngày hôm nay…
Ôi không! Ở đâu?
Atal nhắc tới một khoảnh rừng không xa từ một suối nước nóng. Mary vừa mới ở đó ba ngày trước, và không có gì tỏ ra bất thường cả. Bà cầm lấy cái ống nhòm rồi nhìn lên trời; quả nhiên, dòng hạt Bóng khổng lồ đang tuôn đi mạnh hơn, với tốc độ và thể tích lớn hơn đến mức không thể so sánh nổi, hơn là dòng triều giờ đang dâng lên giữa hai bờ sông.
Bà có thể làm gì? Atal hỏi.
Mary cảm thấy trọng lượng của trách nhiệm như một bàn tay nặng trĩu đè lên giữa hai xương vai, nhưng bà cố gắng nhẹ nhàng ngồi dậy.
Kể chuyện cho họ, bà nói.
Khi bữa tối kết thúc, ba con người và Atal ngồi trên thảm bên ngoài căn nhà của Mary, dưới những vì sao ấm áp. Họ nằm xuống, no nê và thoải mái trong buổi đêm ngập tràn hương hoa, và lắng nghe Mary kể lại câu chuyện của mình.
Bà bắt đầu ngay trước lần đầu tiên gặp Lyra, kể cho họ nghe về công việc mình đang tiến hành tại nhóm Nghiên cứu Vật chất tối, và vụ khủng hoảng tiền tài trợ. Bà đã tốn bao nhiêu thời gian để xin tiền, và thời gian còn lại để nghiên cứu ít đến thế nào!
Nhưng chuyến viếng thăm của Lyra đã thay đổi mọi thứ, và rất nhanh chóng: Chỉ trong vòng vài ngày, bà đã hoàn toàn rời khỏi thế giới của mình.
“Ta đã làm như cháu bảo,” bà nói. “Ta đã tạo ra một chương trình - đó là một tổ hợp các chỉ thị - để cho phép các hạt Bóng giao tiếp với ta qua máy tính, chúng đã cho ta biết phải làm gì. Chúng nói chúng là các thiên thần, rồi - à…”
“Nếu bà là một nhà khoa học,” Will nói, “cháu không nghĩ đó lại là điều thích hợp mà chúng nên nói. Bà có thể không tin vào các thiên thần.”
“À, nhưng ta biết về họ. Ta đã từng là một nữ tu mà. Ta đã nghĩ vật lí học có thể được thực hiện để vinh danh Chúa, cho tới khi ta thấy rằng hoàn toàn chẳng có vị Chúa nào cả, và rằng dù sao thì vật lí cũng thú vị hơn. Cơ Đốc giáo là một sai lầm rất hùng mạnh và đầy sức thuyết phục, chỉ vậy thôi.”
“Bà ngừng làm tu sĩ từ bao giờ vậy?” Lyra hỏi.
“Ta vẫn còn nhớ chính xác,” Mary nói, “cho tới tận ngày giờ xảy ra. Bởi vì ta rất giỏi vật lí nên họ cho phép ta tiếp tục sự nghiệp ở trường đại học của mình, các cháu thấy đấy, ta đã hoàn thành học vị tiến sĩ và đang đi dạy. Đó không phải là một trong những hội mà người ta cách li ta khỏi thế giới. Thực tế thì chúng ta còn không mặc áo tu sĩ; chúng ta chỉ cần ăn mặc nhã nhặn và đeo thánh giá. Vậy nên ta đã tới trường đại học để dạy và nghiên cứu về vật lí hạt.
“Rồi có một hội thảo về chủ đề nghiên cứu của ta, người ta đã gọi ta đến và đọc một bài luận. Hội thảo tổ chức tại Lisbon, mà ta lại chưa từng đến đó bao giờ; thật ra ta chưa từng ra khỏi nước Anh. Toàn bộ sự việc - máy bay, khách sạn, ánh nắng rực rỡ, các ngôn ngữ ngoại quốc bủa vây quanh ta, những người nổi tiếng sẽ thuyết trình, rồi ý nghĩ về bài luận của chính mình và tự hỏi liệu sẽ có ai xuất hiện để lắng nghe hay ta liệu có quá căng thẳng để nói được thành lời hay không… Ôi, ta đã quá kích động, ta không thể biết được nữa.
“Và ta còn rất ngây thơ - các cháu phải nhớ điều đó. Ta vẫn luôn là một cô bé ngoan ngoãn, chăm chỉ tới Thánh lễ, ta luôn nghĩ mình có thiên hướng cho cuộc sống tâm linh. Ta muốn phục vụ Chúa bằng cả trái tim mình. Ta muốn dành cả cuộc đời mình và dâng hiến nó như thế này,” bà nói rồi giơ hai bàn tay lên cùng nhau, “rồi đặt nó lên trước mặt Jesus để ngài làm gì tuỳ ý. Và ta nghĩ mình khá tự hào về bản thân. Quá nhiều. Ta mộ đạo và thông minh. Ha! Chuyện đó kéo dài cho tới, ồ, chín giờ rưỡi tối ngày mồng Mười tháng Tám, bảy năm về trước.”
Lyra ngồi dậy và ôm lấy đầu gối, chăm chú lắng nghe.
“Đó là buổi tối sau khi ta đã thuyết trình bài luận của mình,” Mary nói tiếp, “mọi việc diễn ra khá suôn sẻ, có vài người nổi tiếng đã đến nghe, ta đã xử lí các câu hỏi mà không phá hỏng nó. Nhìn chung, ta thấy rất nhẹ nhõm và vừa lòng… Cả tự hào nữa, chắc chắn rồi.
“Dù sao thì, một vài đồng sự của ta định đến một nhà hàng gần đó dưới bờ biển, và họ hỏi xem ta có muốn đi hay không. Bình thường thì ta đã nghĩ ra vài lí do để từ chối, nhưng lần này ta nghĩ chà, mình đã là một phụ nữ trưởng thành rồi, mình đã trình bày một bài luận về một chủ đề quan trọng, nó đã được đón nhận nồng nhiệt và mình đang ở giữa những người bạn tốt… Không khí thật ấm áp, cuộc trò chuyện toàn về những thứ mà ta quan tâm hàng đầu, và tất cả chúng ta đều rất hăng hái, ta nghĩ mình đã thả lỏng đôi chút. Ta đã khám phá ra một khía cạnh khác của con người mình, các cháu biết đấy, cái khía cạnh thích mùi vị của rượu và cá mòi nướng, cảm giác về không khí ấm áp trên da thịt và nhịp đập của âm nhạc ở phía sau. Ta đã rất thích thú.
“Vậy là chúng ta ngồi xuống dùng bữa trong vườn. Ta ngồi ở cuối một chiếc bàn dài dưới một cây chanh, bên cạnh ta là một lùm cây có hoa lạc tiên, và người ngồi cạnh ta đang nói chuyện với người ở phía bên kia bàn, và… À, ngồi đối diện là một người đàn ông ta đã thấy vài lần tại hội thảo. Ta không biết ông ta để có thể bắt chuyện; ông ta là người Ý, đã thực hiện một vài công trình mà mọi người đang nói tới, và ta nghĩ lắng nghe về nó cũng thú vị.
“Ông ta chỉ hơi lớn tuổi hơn ta một chút, có mái tóc đen mềm mại, nước da tuyệt đẹp màu olive cùng đôi mắt đen láy. Tóc ông ấy cứ rủ xuống trán và ông ấy liên tục gạt nó trở lại như thế này một cách từ tốn…”
Bà cho họ thấy. Will nghĩ trông bà như thể ghi nhớ điều đó rất rõ.
“Ông ấy không đẹp trai,” bà nói tiếp. “Ông không phải là một anh chàng nịnh đầm hay một người quá thu hút. Nếu ông ấy mà như thế thì ta đã ngượng tới mức không biết làm thế nào để bắt chuyện rồi. Nhưng ông ấy lại rất tử tế, thông minh, hài hước, và đó là điều dễ dàng nhất trên thế giới khi ngồi đó trong ánh đèn lồng, dưới thân cây chanh cùng hương thơm của các loài hoa, đồ nướng và rượu, cười nói và thấy mình hi vọng rằng ông ấy sẽ nghĩ ta xinh đẹp. Sơ Mary Malone, đang tán tỉnh! Còn những lời thề nguyện của ta thì sao? Còn việc hiến dâng cuộc đời ta cho Jesus và tất cả những thứ đó thì sao?
“Chà, ta không biết liệu đó là do rượu, do sự xuẩn ngốc của chính ta, không khí ấm áp hay cây chanh, hay cái gì đi nữa… Nhưng dần dần, ta cảm giác như mình đã khiến bản thân tin vào một thứ không đúng. Ta đã khiến bản thân tin rằng mình ổn, hạnh phúc và mãn nguyện với riêng mình, không cần đến tình yêu của bất cứ ai khác. Yêu đương cũng giống như Trung Hoa: Ta biết nó ở đó, rõ ràng là nó rất thú vị, và có vài người đã đến đó, nhưng ta thì sẽ không bao giờ đi. Cả đời ta sẽ không bao giờ đến Trung Hoa, nhưng việc đó cũng chẳng quan trọng, vì vẫn còn cả phần còn lại của thế giới để tới thăm mà.
“Và rồi có ai đó đưa cho ta một mẩu của thứ đồ ngọt gì đó và ta đột nhiên nhận ra rằng mình đã đến Trung Hoa. Có thể nói như vậy. Và ta đã quên bẵng mất. Chính hương vị của thứ đồ ngọt đã đem nó trở lại - ta nghĩ đó là bánh marzipan - loại bánh hoặc kẹo hạnh nhân ngọt lịm ấy,” bà giải thích với một Lyra đang tỏ ra bối rối.
Lyra thốt lên: “A! Bánh marchpane!” rồi thoải mái ngồi xuống lắng nghe chuyện xảy ra tiếp theo.
“Nói chung…” Mary nói tiếp “… ta vẫn nhớ hương vị đó, và ngay lập tức ta đã quay trở lại, được nếm nó lần đầu tiên khi còn là một cô bé.
“Lúc đó ta mười hai tuổi. Ta đang dự tiệc tại nhà một người bạn của mình, một bữa tiệc sinh nhật, ở đấy có một phòng nhảy disco - là nơi người ta chơi nhạc trên một dạng máy ghi âm và mọi người nhảy múa,” bà giải thích khi thấy vẻ lúng túng của Lyra. “Thông thường bọn con gái nhảy với nhau vì đám con trai quá ngượng ngùng để mời họ. Nhưng cậu bé này - ta không biết cậu ấy - đã mời ta nhảy, vậy là chúng ta nhảy điệu đầu tiên, rồi điệu kế tiếp và đến lúc đó thì chúng ta đã nói chuyện… Mà các cháu biết cảm giác khi thích một ai đó thế nào rồi đấy, ta sẽ biết ngay; ừ, ta đã rất thích cậu ấy. chúng ta cứ tiếp tục nói chuyện cho đến khi bánh sinh nhật được mang ra. Cậu ấy lấy một miếng bánh marzipan rồi cứ thế nhẹ nhàng đặt lên miệng ta - ta nhớ mình đã gượng cười trong lúc đỏ chín mặt và cảm thấy thật ngốc nghếch - ta đã phải lòng cậu ấy chỉ vì điều đó, vì cái cách cậu ấy dịu dàng chạm vào môi ta bằng miếng bánh marzipan.”
Khi nghe Mary nói như vậy, Lyra cảm thấy một điều kì lạ xảy ra với cơ thể mình. Cô cảm thấy một sự kích thích tại chân tóc: Cô thấy mình thở gấp hơn. Cô chưa từng đi tàu lượn cao tốc hay thứ gì tương tự, nhưng nếu đã từng, cô hẳn sẽ nhận ra sự xúc động trong lồng ngực: Nó vừa thích thú vừa đáng sợ, mà cô lại chẳng hề biết tại sao. Sự xúc động đó vẫn tiếp diễn, sâu sắc hơn, rồi thay đổi, khi càng lúc càng có nhiều phần cơ thể cô bị ảnh hưởng. Cô có cảm giác như mình vừa được trao cho chiếc chìa khóa vào một căn nhà vĩ đại mà cô không hề biết nó có ở đó, một căn nhà bằng cách nào đó lại ở bên trong cô, rồi khi xoay chìa, từ tận sâu trong bóng tối của tòa nhà, cô cảm thấy những cánh cửa khác cũng đang mở ra, và ánh sáng tràn vào. Cô ngồi run rẩy, ôm lấy hai đầu gối, gần như không dám thở, khi Mary nói tiếp:
“Ta nghĩ là tại bữa tiệc đó, hoặc có thể là một bữa tiệc khác, chúng ta đã hôn nhau lần đầu tiên. Đó là ở trong vườn, với tiếng nhạc vọng ra từ trong nhà, sự tĩnh lặng và mát mẻ giữa những thân cây, và ta đang nhức nhối - cả người ta nhức nhối vì cậu ấy, ta có thể đoán được cậu ấy cũng cảm thấy tương tự - cả hai chúng ta dường như quá ngượng ngùng để có thể cử động. Dường như thôi. Nhưng một trong hai chúng ta đã làm được và rồi không hề có khoảng nghỉ nào ở giữa - nó giống như một bước nhảy lượng tử, đột nhiên - chúng ta đang hôn nhau và ôi, còn hơn cả Trung Hoa, đó là thiên đường.
“Chúng ta gặp nhau khoảng năm, sáu lần, không hơn. Sau đó bố mẹ cậu ấy chuyển đi và ta không bao giờ gặp lại cậu ấy nữa. Thật là một khoảng thời gian ngọt ngào, quá ngắn ngủi… Nhưng nó đã tồn tại. Ta đã biết. Ta đã từng đến Trung Hoa.”
Đó là điều kì quặc nhất: Lyra hiểu chính xác điều bà muốn nói, nhưng nửa tiếng trước thì cô hoàn toàn chẳng có chút khái niệm nào. Bên trong cô, căn nhà tráng lệ với tất cả các cánh cửa mở sẵn và tất cả các phòng đã được thắp sáng đang chờ đợi, lặng yên, mong ngóng.
“Và vào chín giờ rưỡi tối tại chiếc bàn trong nhà hàng ở Bồ Đào Nha ấy,” Mary nói tiếp, gần như không để ý đến sự xúc động thầm lặng đang diễn ra bên trong Lyra, “có ai đó đã cho ta một miếng bánh marzipan và mọi thứ lại ùa về. Ta đã nghĩ: Mình thật sự sẽ đi hết phần còn lại của cuộc đời mà không bao giờ cảm nhận lại điều đó nữa sao? Ta nghĩ: Mình muốn tới Trung Hoa. Nơi đó tràn ngập những báu vật, sự lạ lùng, bí ẩn và vui thú. Ta nghĩ, liệu có ai được lợi gì nếu mình đi thẳng về khách sạn để cầu nguyện, xưng tội với linh mục và hứa sẽ không bao giờ vướng vào cám dỗ nữa hay không? Liệu có ai được hơn gì khi làm mình khổ sở hay không?
“Và câu trả lời đáp lại - không. Chẳng có ai cả. Chẳng có ai buồn phiền, chẳng có ai kết án, chẳng có ai chúc phúc cho ta vì đã là một cô gái ngoan, chẳng ai trừng phạt ta vì ta xấu xa cả. Thiên đường là một nơi trống rỗng. Ta không biết là Chúa đã chết, hay hoàn toàn chưa từng có một vị Chúa nào tồn tại cả. Dù thế nào thì ta cũng thấy tự do và cô đơn, ta cũng không biết liệu mình đang hạnh phúc hay bất hạnh, nhưng một điều rất lạ lùng đã xảy ra. Và toàn bộ sự biến động to lớn đó đã xảy đến khi ta ngậm miếng bánh trong miệng, thậm chí cả trước khi nuốt nó. Một hương vị - một kí ức - một sự lở đất…
“Sau khi đã nuốt miếng bánh và nhìn người đàn ông phía bên kia bàn, ta có thể nói rằng ông ấy biết có chuyện đã xảy ra. Ta đã không thể nói với ông ấy ngay lúc đó, tại nơi đó; mọi chuyện gần như vẫn còn quá lạ lùng và riêng tư với ta. Nhưng sau đó chúng ta đi tản bộ trên bờ biển trong bóng đêm, ngọn gió đêm ấm áp không ngừng vờn lấy tóc ta, Đại Tây Dương lại đang cư xử rất phải phép - những con sóng nhỏ lặng lẽ ôm lấy bàn chân chúng ta…
“Vậy là ta tháo cây thánh giá trên cổ mình ra rồi ném nó xuống biển. Thế là hết. Tất cả đã kết thúc. Xong.
“Đó là cách mà ta đã không làm tu sĩ nữa,” bà nói.
“Người đàn ông đó có phải chính là người đã khám phá về những hộp sọ không?” Lyra hăm hở hỏi.
“Ồ - không. Người tìm hiểu hộp sọ là Tiến sĩ Payne, Oliver Payne. Ông ta xuất hiện sau đó rất lâu. Không, người đàn ông tại hội thảo tên là Alfredo Montale. Ông ấy rất khác biệt.”
“Bà có hôn ông ấy không?”
“À,” Mary mỉm cười, “có, nhưng không phải lúc đó.”
“Rời khỏi Giáo hội có khó khăn không?” Will hỏi.
“Theo một phương diện thì có, vì mọi người đều rất thất vọng. Tất cả mọi người, từ Sơ Bề Trên tới các linh mục và cha mẹ ta - họ đều rất khó chịu và thấy nhục nhã… Ta có cảm giác như một thứ mà tất cả bọn họ đều thiết tha tin tưởng phụ thuộc vào việc ta tiếp tục với một thứ mà mình không hề tin.
“Nhưng một mặt khác thì cũng khá dễ dàng, vì nó hợp lí. Lần đầu tiên ta từng cảm thấy mình đang làm một việc với toàn bộ bản tính của mình chứ không phải chỉ là một phần trong đó. Vậy nên chuyện đó khiến ta thấy cô đơn trong một thời gian, nhưng rồi ta đã làm quen với nó.”
“Bà có lấy ông ấy không?” Lyra hỏi.
“Không. Ta không lấy ai cả. Ta sống với một người - không phải Alfredo, một người khác. Ta đã sống với ông ấy gần bốn năm. Luân thường đạo lí của gia đình ta đã bị xúc phạm. Nhưng rồi chúng ta quyết định mình sẽ hạnh phúc hơn nếu không sống chung. Nên ta lại ở một mình. Người đàn ông ta đã sống cùng thích leo núi, ông ấy đã dạy ta cách leo, rồi ta bước vào những ngọn núi và… Và ta có được công việc của mình. À, ta từng có được công việc của mình. Vậy là ta đơn độc nhưng hạnh phúc, nếu các cháu hiểu ý ta.”
“Cậu bé kia tên là gì vậy?” Lyra hỏi. “Ở bữa tiệc ấy?”
“Tim.”
“Trông cậu ấy thế nào?”
“Ồ… Dễ nhìn. Đó là tất cả những gì ta nhớ được.”
“Khi cháu lần đầu gặp bà tại Oxford của bà,” Lyra nói, “bà đã nói rằng một trong những lí do bà trở thành nhà khoa học là vì bà sẽ không phải suy nghĩ về thiện và ác. Bà có nghĩ về chúng hồi còn là tu sĩ không?”
“Ừm. Không. Nhưng ta biết mình nên suy nghĩ: Đó là thứ mà Giáo hội đã dạy ta phải suy nghĩ. Nhưng khi làm khoa học, ta phải nghĩ về những thứ hoàn toàn khác. Nên ta chưa bao giờ phải tự nghĩ về chúng cả.”
“Nhưng giờ thì sao?” Will hỏi.
“Ta nghĩ mình buộc phải làm vậy,” Mary cố gắng nói chính xác.
“Khi bà ngừng tin vào Chúa,” cậu nói tiếp, “bà có ngừng tin vào thiện và ác không?”
“Không. Nhưng ta đã ngừng tin rằng có một sức mạnh của cái thiện và sức mạnh của cái ác nằm ngoài chúng ta. Và ta bắt đầu tin rằng thiện và ác là những cái tên dành cho những gì con người làm, không phải để chỉ bản chất của họ. Tất cả những gì chúng ta có thể nói là đây là việc tốt vì nó giúp đỡ ai đó, hoặc đó là việc xấu vì nó làm tổn hại người ta. Con người quá phức tạp để có thể gắn những cái mác giản đơn.”
“Phải,” Lyra nói chắc nịch.
“Bà có nhớ Chúa không?” Will hỏi.
“Có,” Mary đáp, “cực kì. Ta vẫn nhớ lắm. Điều mà ta nhớ nhất là cảm giác được kết nối với toàn bộ vũ trụ. Ta từng cảm thấy mình liên kết với Chúa như vậy, và bởi vì Ngài ở đó nên ta cũng được liên kết với toàn bộ tạo vật của Ngài. Nhưng nếu ngài không có ở đó thì…”
Tít ngoài xa trên vùng đầm lầy, một con chim cất tiếng bằng chuỗi ầm trầm dài đầy u sầu. Than hồng sụp xuống trong đống lửa; cỏ khẽ rung rinh trong gió đêm. Atal có vẻ như đang gà gật giống một chú mèo, các bánh xe nằm bẹp trên nền cỏ bên cạnh, chân cô gập xuống bên dưới cơ thể, mắt nhắm hờ, sự chú ý nửa ở đó nửa lại ở chỗ khác. Will đang nằm ngửa, mắt mở to đón ánh sao.
Còn về Lyra, cô bé không nhúc nhích lấy một sợi cơ kể từ khi điều lạ lùng đó xảy ra, cô giữ kí ức về những xúc cảm đó bên trong mình như một bình chứa mỏng manh đầy ngập những kiến thức mới mẻ, thứ mà cô gần như không dám chạm vào vì sợ sẽ làm sánh ra mất. Cô không biết nó là gì, mang ý nghĩa gì, hay nó tới từ đâu: Vì vậy cô ngồi yên, ôm lấy hai đầu gối, cố gắng kìm bản thân run lên vì kích động. Sớm thôi, cô nghĩ, mình sẽ biết sớm thôi. Sẽ rất sớm thôi.
Mary đã mệt nhoài: Bà đã kể hết mọi chuyện. Chắc chắn ngày mai bà sẽ nghĩ được thêm nữa.