← Quay lại trang sách

- 35 - Qua những ngọn đồi và xa hơn thế

Ngày sinh nhật của đời tôi

Đang đến, tình yêu của tôi đang đến với tôi.

Christina Rossetti

“Tiến sĩ Malone,” Lyra nói vào buổi sáng, “Will và cháu phải đi kiếm linh thú của mình đây. Khi tìm thấy chúng, bọn cháu sẽ biết phải làm gì. Nhưng bọn cháu không thể thiếu chúng lâu hơn được nữa. Vậy nên bọn cháu muốn đi tìm.”

“Các cháu sẽ đi đâu?” Mary hỏi, mắt nặng trĩu còn đầu đau nhức sau một đêm không yên. Bà và Lyra đang đứng trên bờ sông, Lyra thì tắm rửa, còn Mary thì nhìn quanh, một cách bí mật, tìm kiếm dấu chân của gã đàn ông. Cho đến giờ bà chưa thấy được cái nào.

“Chẳng rõ nữa,” Lyra nói. “Nhưng chúng đang ở đâu đó ngoài kia. Ngay khi bọn cháu thoát khỏi cuộc chiến, chúng liền chạy biến mất như thể không còn tin tưởng bọn cháu nữa vậy. Mà cháu cũng chẳng thể trách chúng được. Nhưng bọn cháu biết rằng chúng đang ở trong thế giới này, và có lẽ bọn cháu đã thấy chúng vài lần, nên chắc là bọn cháu có thể tìm được chúng thôi.”

“Nghe này,” Mary miễn cưỡng nói, rồi kể cho Lyra nghe điều mình đã chứng kiến vào đêm hôm trước.

Trong lúc bà nói, Will tới nhập hội, rồi cả cậu và Lyra đều lắng nghe, tròn mắt và nghiêm nghị.

“Ông ta có thể chỉ là một lữ khách đã tìm thấy một ô cửa sổ và thơ thẩn đi qua từ một nơi nào đó khác,” Lyra nhận xét khi Mary nói xong. Một cách riêng tư, cô bé có những thứ khác phải suy nghĩ, và người đàn ông này không thú vị bằng chúng. “Như bố của Will đã làm,” cô nói tiếp. “Bây giờ chắc chắn đã có đủ kiểu lối thông rồi. Dù sao thì, nếu ông ta chỉ xuất hiện rồi bỏ đi, ông ta không thể dự tính làm điều gì xấu xa, đúng không?”

“Ta không biết. Ta không thích điều đó. Ta rất lo về việc hai cháu một mình lên đường - hoặc là ta sẽ lo nếu không biết rằng các cháu đã làm những việc còn nguy hiểm hơn thế nhiều. Ôi, ta không biết nữa. Nhưng hãy cẩn thận nhé. Nhớ quan sát xung quanh. Ít nhất ở trên vùng đồng cỏ, các cháu có thể thấy nếu có ai đó tới từ xa…”

“Nếu thấy, chúng cháu có thể lập tức chạy trốn sang một thế giới khác, nên hắn sẽ không thể làm hại chúng cháu được,” Will nói.

Chúng đã quyết tâm lên đường, và Mary cũng không muốn tranh cãi.

“Ít nhất,” bà nói, “hãy hứa là các cháu sẽ không đi vào giữa đám cây. Nếu người đàn ông đó vẫn còn lảng vảng quanh đây, hắn có thể sẽ ẩn náu trong một khu rừng và các cháu sẽ không kịp thời thấy được hắn để mà chạy trốn đâu.”

“Chúng cháu hứa,” Lyra nói.

“Được rồi, ta sẽ chuẩn bị ít đồ ăn phòng trường hợp các cháu phải đi cả ngày.”

Mary lấy vài miếng bánh mì dẹt, pho mát và các quả đỏ ngọt lịm để giải khát, bọc chúng trong một lớp vải, rồi thắt dây vòng quanh để một trong hai đứa khoác lên vai.

“Đi săn thuận lợi nhé,” bà nói khi chúng lên đường. “Cẩn thận đó.”

Bà vẫn đang lo lắng. Bà đứng dõi theo chúng tới tận chân con dốc.

“Không hiểu sao bà ấy buồn thế nhỉ,” Will nói khi cậu và Lyra trèo lên con đường tới dãy đồi.

“Có lẽ bà ấy đang tự hỏi liệu mình có bao giờ được trở về nhà không,” Lyra nói. “Và liệu phòng thí nghiệm có còn là của mình khi bà quay về không. Mà có khi bà ấy buồn vì người đàn ông mình đã yêu.”

“Ừm,” Will nói. “Cậu có nghĩ bọn mình sẽ về được nhà không?”

“Chịu. Đằng nào thì tớ cũng không cho là mình có nhà mà về. Có lẽ người ta chẳng nhận tớ vào Học viện Jordan nữa, mà tớ không thể sống với bầy gấu hay các phù thủy được. Có lẽ tớ có thể sống với những người dân du mục. Nếu họ chịu nhận tớ thì tớ cũng sẽ không phản đối.”

“Vậy còn thế giới của Ngài Asriel thì sao? Cậu không muốn sống ở đó à?”

“Hãy nhớ là nó sẽ sụp đổ đó,” cô nói.

“Tại sao?”

“Vì điều mà hồn ma của bố cậu đã nói ngay trước khi chúng ta thoát ra. Về các linh thú, và về việc chúng chỉ có thể sống thọ nếu ở trong thế giới của chính mình. Nhưng có lẽ Ngài Asriel, ý tớ là cha tớ, chẳng thể nghĩ tới điều đó, vì chẳng có ai biết đủ rõ về các thế giới khác trước khi ông ấy bắt đầu… Toàn bộ điều đó,” cô bé tư lự nói, “toàn bộ sự can đảm và kĩ năng đó… Tất cả đều lãng phí! Tất cả đều vô ích!”

Chúng tiếp tục trèo, thấy cuộc hành trình khá thoải mái trên con đường đá, rồi khi lên tới đỉnh dãy đồi, chúng dừng chân và ngoái lại nhìn.

“Will,” cô nói, “giả sử chúng ta không tìm thấy chúng thì sao?”

“Tớ chắc chắn là ta sẽ tìm thấy. Điều tớ đang thắc mắc là linh thú của mình trông như thế nào.”

“Cậu đã thấy nó mà. Tớ còn bế nó nữa,” Lyra nói, đỏ mặt, vì đương nhiên đó là một sự xâm phạm thô bạo về cách cư xử khi chạm vào một thứ riêng tư như linh thú của người khác. Nó bị cấm không chỉ bởi phép lịch sự, mà còn bởi một thứ sâu sắc hơn thế - một thứ như sự nhục nhã. Một cái liếc vội về phía đôi má nóng bừng của Will cho thấy rằng cậu cũng hiểu điều đó rõ như cô vậy. Cô không thể đoán được liệu cậu có nhận thấy cái cảm giác nửa sợ hãi, nửa phấn khích đó như cô thấy hay không, cái cảm giác đã bao trùm lấy cô vào đêm hôm trước: Giờ nó lại quay trở về.

Chúng tiếp tục đi bên nhau, đột nhiên thấy ngượng ngùng với người còn lại. Nhưng Will, không để cho sự ngượng ngùng cản đường, lên tiếng: “Khi nào thì linh thú ngừng biến đổi hình dạng?”

“Khoảng… tớ đoán là khoảng cỡ tuổi bọn mình, hoặc là lớn hơn một chút. Hoặc đôi khi lại hơn nữa. Chúng tớ thường nói về việc Pan định hình, cậu ấy và tớ. Chúng tớ thường thắc mắc không biết cậu ấy sẽ biến thành gì…”

“Không ai biết gì sao?”

“Khi còn bé thì không. Khi lớn lên, người ta sẽ bắt đầu suy nghĩ, kiểu như, chúng có thể là thế này hay có thể là thế kia… Và thông thường thì chúng sẽ kết thúc ở một dạng phù hợp. Ý tớ là một thứ như bản chất thật sự của ta vậy. Ví dụ như nếu linh thú của cậu là một chú chó thì điều đó có nghĩa là cậu thích làm những việc mà mình được bảo, biết ai là chủ, tuân theo mệnh lệnh, và làm hài lòng những người phụ trách. Rất nhiều người phục vụ có linh thú là chó. Nên việc đó giúp cho ta biết được mình là người như thế nào và tìm ra mình giỏi việc gì. Những người ở thế giới của cậu làm thế nào để biết được mình là người ra sao?”

“Tớ không biết nữa. Tớ không biết nhiều về thế giới của mình. Tất cả những gì tớ biết là giữ bí mật, yên lặng và ẩn trốn, nên tớ không biết nhiều về… những người lớn, và bạn bè. Hay người yêu. Tớ nghĩ sẽ rất khó khăn khi có một con linh thú vì mọi người sẽ biết được quá nhiều điều về ta chỉ nhờ một cái nhìn. Tớ thích giữ bí mật và không để bị phát hiện.”

“Vậy thì có thể linh thú của cậu sẽ là một loài động vật giỏi lẩn trốn. Hoặc một trong những loài động vật trông giống loài khác - một con bướm trông giống ong bắp cày, để cải trang. Hẳn là phải có những sinh vật như vậy trong thế giới của cậu chứ, vì chúng tớ có, mà chúng ta lại rất giống nhau.”

Chúng tiếp tục bước đi bên nhau trong sự im lặng thân thiện. Khắp nơi xung quanh chúng, buổi sáng mênh mông trong trẻo chiếu rọi rực rỡ giữa những thung lũng lòng chảo và mang màu xanh ngọc trong không khí ấm áp phía trên. Xa tít tới tận cùng tầm mắt, vùng đồng cỏ xavan bạt ngàn nhấp nhô, nâu, vàng óng, xanh da bò, lung linh về phía đường chân trời, và trống trải. Chúng có lẽ là những con người duy nhất trên thế giới này.

“Nhưng nó không thật sự trống không,” Lyra nói.

“Ý cậu là gã đàn ông đó?”

“Không. Cậu biết tớ muốn nói gì mà.”

“Ừ, tớ biết. Tớ có thể thấy bóng đổ trong cỏ… có lẽ là chim,” Will nói.

Cậu đang dõi theo những chuyển động vun vút hiện ra đây đó. Cậu nhận thấy rằng sẽ dễ dàng để nhìn thấy bóng hơn nếu cậu không nhìn vào chúng. Chúng sẵn lòng lộ diện tại khóe mắt của cậu hơn, và khi cậu nói vậy với Lyra, cô bèn nói: “Đó là năng lực tiêu cực.”

“Là cái gì thế?”

“Người đầu tiên nhắc tới nó là nhà thơ Keats. Tiến sĩ Malone biết đó. Đó là cách mà tớ đọc Chân Kế. Là cách mà cậu sử dụng con dao, không phải thế sao?”

“Ừ, có lẽ vậy. Nhưng tớ chỉ đang nghĩ chúng có thể là mấy con linh thú.”

“Tớ cũng vậy, nhưng…”

Cô bé đặt tay lên môi. Cậu gật đầu.

“Nhìn kìa,” cậu nói, “một trong những thân cây đổ kìa.”

Đó là cái cây Mary thường leo lên. Chúng cẩn trọng đi tới phía cái cây, để mắt tới khu rừng phòng trường hợp một cái cây khác đổ xuống. Trong buổi sáng yên bình, chỉ với một ngọn gió thoảng lay động lá cây, dường như một thứ vĩ đại như thế này không bao giờ có thể đổ được, nhưng nó lại đang ở đây.

Thân cây đồ sộ, được chống đỡ trong khu rừng bởi bộ rễ bị bật tung và vươn ra đồng cỏ nhờ số lượng cành cây khổng lồ, ở cao quá đầu chúng. Một vài cành cây, bị đè nát, có đường kính lớn như những cái cây to nhất mà Will từng nhìn thấy; ngọn cây, dày đặc cành lá và trông vẫn khỏe mạnh, lá vẫn còn xanh mơn mởn, sừng sững như một cung điện đổ nát trong bầu không khí êm dịu.

Đột nhiên Lyra tóm lấy tay Will.

“Suỵt,” cô bé thì thầm. “Đừng nhìn. Tớ dám chắc là chúng ở trên đó. Tớ thấy có thứ gì đó cử động, tớ thề rằng đó là Pan…”

Bàn tay cô thật ấm áp. Cậu ý thức được về điều đó nhiều hơn là về khối lượng cành lá khổng lồ phía trên chúng. Giả vờ nhìn mông lung về phía đường chân trời, cậu để cho tâm trí mình lang thang vào đống hỗn độn màu lục, nâu và lam. Ở đó - cô bé nói đúng! - có một thứ gì đó không phải là cây. Và bên cạnh đó là một thứ khác.

“Đi thôi,” Will thì thào. “Chúng ta sẽ đi chỗ khác để xem chúng có đi theo không.”

“Giả sử chúng không… Nhưng mà được, đi thôi,” Lyra thì thầm đáp lại.

Chúng giả vờ nhìn quanh quất; đặt tay lên một trong những cành cây nằm trên mặt đất như thể đang tính trèo lên; chúng giả vờ đổi ý bằng cách lắc đầu rồi rời khỏi đó.

“Ước gì bọn mình có thể ngoái lại nhìn,” Lyra nói khi chúng đã đi được vài trăm mét.

“Cứ đi tiếp đi. Chúng có thể thấy bọn mình nên sẽ không lạc đâu. Chúng sẽ tới khi nào muốn.”

Hai đứa trẻ bước xuống khỏi con đường màu đen để vào bãi cỏ ngập đến đầu gối, đưa chân qua những nhành cỏ, nhìn côn trùng lởn vởn đi lại, lao vút đi, rập rờn, bay là là, lắng nghe dàn đồng ca một triệu thứ tiếng ríu rít và kèn kẹt kêu.

“Cậu định sẽ làm gì hả Will?” Lyra khẽ nói sau khi chúng đã đi được một đoạn trong im lặng.

“À, tớ phải về nhà,” cậu nói.

Thế nhưng cô lại cho rằng giọng cậu có vẻ không chắc chắn lắm. Cô hi vọng rằng giọng cậu không chắc chắn.

“Nhưng chúng có thể vẫn đuổi theo cậu,” cô nói. “Những gã đàn ông đó ấy.”

“Xét cho cùng thì bọn mình đã chứng kiến những thứ còn tồi tệ hơn chúng mà.”

“Ừ, có lẽ vậy… Nhưng tớ muốn cho cậu thấy Học viện Jordan, cả vùng Fens nữa. Tớ muốn chúng ta…”

“Phải,” cậu nói, “còn tớ muốn… Thậm chí quay trở lại Cittàgazze cũng hay. Đó là một nơi xinh đẹp, và nếu lũ Quỷ hút hồn đã đi hết… Nhưng còn mẹ tớ. Tớ phải quay về để chăm sóc mẹ. Tớ đã bỏ mẹ lại với bà Cooper, việc đó chẳng công bằng chút nào với bất cứ ai trong bọn họ.”

“Nhưng sẽ không công bằng với cậu nếu cậu buộc phải làm thế.”

“Phải,” cậu nói, “nhưng đó là một kiểu không công bằng khác. Nó chỉ như một trận động đất hay một cơn mưa bão thôi. Có thể là không công bằng, nhưng chẳng trách được ai cả. Nhưng nếu tớ bỏ lại mẹ mình cho một người phụ nữ lớn tuổi mà bản thân bà ấy cũng không được khỏe cho lắm, thì đó lại là một kiểu không công bằng khác. Như thế là sai. Tớ phải về nhà thôi. Nhưng có lẽ sẽ khó mà trở lại như trước đây được. Có lẽ bây giờ bí mật đã bị bại lộ rồi. Tớ không nghĩ bà Cooper sẽ có thể chăm sóc được mẹ nếu mẹ tớ ở vào một trong những thời điểm mà bà sợ hãi mọi thứ. Nên có lẽ bà ấy phải nhờ ai đó giúp đỡ, và khi trở về, tớ sẽ buộc phải vào một kiểu tổ chức nào đó.”

“Ôi không! Kiểu như trại trẻ mồ côi ấy à?”

“Tớ nghĩ họ sẽ làm vậy. Nhưng tớ không biết nữa. Tớ sẽ ghét điều đó.”

“Cậu có thể chạy trốn nhờ con dao, Will ạ! Cậu có thể đến thế giới của tớ!”

“Tớ vẫn thuộc về chỗ đó, nơi tớ có thể ở bên mẹ mình. Khi lớn lên, tớ sẽ có thể chăm sóc bà hẳn hoi trong nhà của chính mình. Lúc đó thì không ai có thể can thiệp được.”

“Cậu có nghĩ mình sẽ kết hôn không?”

Cậu im lặng trong một lúc lâu. Nhưng cô bé biết rằng cậu đang suy nghĩ.

“Tớ không nhìn xa được đến thế đâu,” cậu đáp. “Sẽ phải là một người hiểu được về… Tớ không nghĩ lại có bất cứ ai như vậy trong thế giới của mình. Cậu sẽ kết hôn chứ?”

“Tớ cũng thế,” cô đáp, giọng không được vững vàng cho lắm. “Không phải là một ai đó trong thế giới của tớ, tớ nghĩ vậy.”

Chúng chầm chậm tiến bước, đi vẩn vơ về phía đường chân trời. Chúng có toàn bộ thời gian trên thế giới, toàn bộ thời gian mà thế giới có.

Một lúc sau, Lyra lên tiếng: “Cậu sẽ giữ con dao chứ? Như vậy cậu có thể ghé thăm thế giới của tớ?”

“Đương nhiên rồi. Tớ chắc chắn sẽ không bao giờ giao nó cho ai khác đâu.”

“Đừng nhìn…” Cô nói, tốc độ vẫn không đổi. “Chúng lại xuất hiện rồi kìa. Bên trái.”

“Chúng đang đi theo chúng ta,” Will mừng rỡ nói.

“Suỵt!”

“Tớ đã nghĩ là chúng sẽ đi theo mà. Được rồi, giờ chúng ta sẽ cứ giả vờ, chúng ta sẽ cứ đi lang thang như thể đang tìm kiếm chúng, và chúng ta sẽ lục tìm đủ mọi loại địa điểm ngu ngốc.”

Nó trở thành một trò chơi. Chúng tìm thấy một ao nước rồi sục sạo giữa đám sậy và trong bùn lầy, nói ầm lên rằng lũ linh thú chắc chắn phải có hình dạng kiểu như ếch, bọ nước hay ốc sên; chúng bóc lớp vỏ của một thân cây đã đổ từ lâu bên bìa rừng gỗ dây, giả bộ như đã thấy hai con linh thú bò bên dưới đó trong dạng những con sâu tai; Lyra làm ầm lên về một con kiến mà cô tự nhận là đã giẫm lên, thông cảm với những vết bầm trên người nó, nói rằng mặt nó giống hệt mặt Pan, hỏi với sự đau đớn vờ vịt rằng sao nó không chịu nói chuyện với cô.

Nhưng khi cho rằng chúng thật sự ở ngoài tầm nghe, cô nghiêm nghị nói với Will, ngả tới gần để nói khẽ:

“Bọn mình buộc phải bỏ lại chúng, đúng không? Bọn mình đã thật sự không có lựa chọn nào cả?”

“Ừ, đúng vậy. Chuyện đó với cậu tồi tệ hơn là tớ, nhưng chúng ta đã hoàn toàn không có lựa chọn nào cả. Bởi vì cậu đã hứa với Roger, và cậu phải giữ lời.”

“Còn cậu thì phải nói chuyện với bố mình thêm lần nữa…”

“Và chúng ta phải đưa tất cả bọn họ ra.”

“Phải, chúng ta đã làm. Tớ rất mừng vì chúng ta đã làm. Một ngày nào đó Pan cũng sẽ thấy mừng, khi tớ chết. Chúng tớ sẽ không bị chia cắt. Thật tốt vì chúng ta đã làm vậy.”

Vào lúc mặt trời dâng lên cao hơn trên bầu trời và không khí trở nên ấm áp hơn, chúng bắt đầu tìm kiếm bóng râm. Đến trưa, chúng thấy mình đang đứng trên con dốc nhô lên về phía đỉnh một dãy đồi. Khi tới được đó, Lyra ngồi phịch xuống cỏ rồi nói: “Phù! Nếu chúng ta mà không sớm tìm được một chỗ nào có bóng râm…”

Có một thung lũng thoải xuống từ phía còn lại, chi chít những bụi cây, nên chúng đoán rằng có thể có một dòng suối ở đó. Chúng vượt qua con dốc của dãy đồi cho tới khi nó đổ nhào xuống phần đầu của thung lũng. Quả vậy, giữa đám dương xỉ và lau sậy, một con suối sủi tăm chảy ra từ đá.

Chúng vục gương mặt nóng bừng của mình vào dòng suối rồi khoan khoái uống nước. Sau đó chúng lần theo dòng nước xuống thấp hơn, thấy con suối tụ lại trong những xoáy nước thu nhỏ và đổ lên những gờ đá bé xíu, càng ngày càng đầy hơn và rộng hơn.

“Nó làm thế nào vậy?” Lyra kinh ngạc. “Làm gì có tí nước nào đổ vào đây từ chỗ khác đâu, thế mà ở đây lại nhiều hơn hẳn so với trên kia.”

Will, quan sát những cái bóng từ khóe mắt, thấy chúng đã lẻn về phía trước, nhảy qua đám dương xỉ để biến mất vào trong những bụi cây dưới thấp hơn. Cậu lặng lẽ chỉ.

“Nó chỉ chảy chậm hơn thôi,” cậu nói. “Nó không chảy nhanh như suối đổ, nên mới tập hợp lại trong những cái ao này… Chúng vừa vào kia,” cậu thì thầm, ám chỉ một nhóm cây nhỏ dưới chân dốc.

Tim Lyra đang đập nhanh tới mức cô cảm thấy được cả nhịp mạch trong cổ họng mình. Cô và Will nhìn nhau, một cái nhìn trang trọng và nghiêm túc đến kì lạ, trước khi lên đường men theo con suối. Tầng cây thấp trở nên dày đặc hơn khi chúng đi xuống thung lũng; con suối chảy vào những đường hầm màu xanh lá rồi ló ra trong những khoảng rừng trống lốm đốm, chỉ để bất thình lình nhào qua một miệng đá và lại tự chôn vùi mình trong thứ màu xanh mướt, khiến chúng phải nhờ đến việc nghe ngóng cũng như quan sát để có thể lần theo được.

Tại chân đồi, dòng nước chạy vào một khu rừng nhỏ của những thân cây vỏ bạc.

Cha Gomez quan sát từ đỉnh rặng đồi. Không khó để theo đuôi chúng. Bất chấp sự tự tin của Mary trong vùng đồng cỏ xavan thoáng đãng, có rất nhiều chỗ ẩn náu trong lớp cỏ, những bụi gỗ dây và bụi sơn nhựa cây mọc rải rác. Trước đó, hai con người trẻ tuổi đã dành rất nhiều thời gian để quan sát xung quanh, như thể chúng nghĩ rằng mình đang bị theo dõi, khiến cho Cha Gomez phải giữ khoảng cách xa. Nhưng khi buổi sáng trôi qua, chúng ngày càng mê mải với nhau và ít chú ý tới quang cảnh hơn.

Có một điều hắn không muốn làm, đó là làm hại đến thằng bé. Hắn ghê sợ việc làm hại một người vô tội. Cách duy nhất để đảm bảo về mục tiêu của mình là đến đủ gần để có thể thấy rõ cô bé, và điều đó có nghĩa là theo chân chúng vào trong rừng.

Lặng lẽ và cẩn trọng, hắn bước xuống dòng chảy của con sông. Linh thú của hắn là một con bọ lưng xanh lá đang bay phía trên đầu, nhấm nháp không khí; thị lực của nó không tốt bằng của hắn, nhưng cảm giác về mùi của nó lại rất sắc bén, nó bắt được mùi da thịt của người trẻ rất rõ. Nó sẽ đi trước một chút, đậu lên một nhành cỏ rồi đợi hắn, sau đó lại đi tiếp; và khi nó bắt được dấu vết trong không khí mà cơ thể lũ trẻ đã để lại, Cha Gomez ca ngợi Chúa vì sứ mệnh của mình, vì việc thằng bé và đứa con gái đang bước vào trọng tội chưa bao giờ từng rõ rệt đến thế.

Kia rồi: Thứ chuyển động màu vàng sẫm vốn là mái tóc của đứa con gái. Hắn tiến lại gần hơn một chút rồi rút khẩu súng trường ra. Trên súng có một bộ phận ngắm tầm xa: Độ phóng không lớn nhưng được làm rất tinh xảo, nên khi nhìn qua đó có cảm giác như sức nhìn vừa được khuếch đại, vừa trở nên rõ rệt hơn. Phải, cô bé kia rồi, cô dừng chân và nhìn ngoái lại, nhờ vậy hắn thấy được biểu hiện trên gương mặt cô, và hắn không thể hiểu nổi làm sao mà một kẻ chìm sâu trong tội ác lại có thể rực rỡ đầy hi vọng và hạnh phúc đến vậy.

Sự hoang mang trước điều đó khiến hắn lưỡng lự, và rồi khoảnh khắc đấy qua đi, cả hai đứa trẻ đã tiến vào giữa những thân cây và biến mất khỏi tầm mắt. Mà chúng cũng chẳng đi xa được đâu. Hắn bám theo chúng xuống dòng suối, vừa cúi thấp vừa đi, một tay cầm khẩu súng, tay còn lại để giữ thăng bằng.

Giờ đây hắn đã tiến gần tới thành công đến mức lần đầu tiên hắn thấy mình phỏng đoán về việc sẽ làm sau đó, và liệu hắn sẽ làm vui lòng vương quốc thiên đường nhiều hơn bằng cách trở lại Geneva hay ở lại để truyền bá Phúc Âm cho thế giới này. Việc đầu tiên phải làm ở đây sẽ là thuyết phục những sinh vật bốn chân, những kẻ dường như có nguyên tắc cơ sở về lẽ phải, rằng thói quen cưỡi trên bánh xe của chúng là đáng ghê tởm, là việc làm của quỷ Satan, đối ngược với ý chí của Chúa. Sửa cho chúng cái thói quen đó, và rồi sự cứu rỗi sẽ đến.

Hắn tới chân dốc, nơi rừng cây bắt đầu, rồi nhẹ nhàng đặt khẩu súng xuống.

Hắn chăm chú nhìn vào những cái bóng bạc - xanh lá - vàng óng, lắng nghe với hai tay khum sau vành tai để bắt được và tập trung bất kì giọng nói khẽ khàng nào qua tiếng côn trùng rả rích và tiếng suối róc rách. Phải, chúng kia rồi. Chúng đã dừng lại.

Hắn cúi người để nhặt khẩu súng lên…

Và thấy bản thân thốt lên một tiếng kêu khàn đục và bị bóp nghẹt khi có thứ gì đó chộp lấy con linh thú rồi kéo nó ra xa khỏi hắn.

Nhưng chẳng có gì ở đó cả! Nó đâu rồi? Cơn đau thật tàn bạo. Hắn nghe thấy nó gào thét nên điên cuồng nhìn quanh hết trái lại sang phải, tìm kiếm nó.

“Đứng im,” một giọng nói từ không trung vọng tới, “và yên lặng. Ta tóm được linh thú của ngươi trong tay rồi.”

“Nhưng - ngươi đang ở đâu? Ngươi là ai?”

“Tên ta là Balthamos,” giọng nói đáp.

Will và Lyra men theo con sông vào trong rừng, thận trọng bước đi, nói rất ít, cho tới khi chúng đến được trung tâm khu rừng.

Chính giữa khoảnh rừng là một khoảng trống nhỏ với nền trải cỏ mềm và những tảng đá phủ rêu. Những cành cây đan xen nhau phía trên đầu, gần như che lấp cả bầu trời, chỉ để lọt qua những đốm sáng nhỏ lay động như kim sa hay mảng bạc dát, khiến mọi thứ đều lốm đốm vàng bạc lấp lánh.

Không gian thật tĩnh lặng. Chỉ có tiếng suối róc rách và tiếng lá đôi lúc xào xạc phía trên cao trong một luồng gió cuộn mới phá vỡ sự yên lặng.

Will đặt gói đồ ăn xuống; Lyra đặt cái balô nhỏ xuống. Chẳng có dấu hiệu nào của những cái bóng linh thú ở bất cứ đâu. Chúng hoàn toàn đơn độc.

Chúng cởi giày và tất rồi ngồi xuống trên những tảng đá rêu phong bên mép dòng suối, nhúng chân vào dòng nước lạnh toát và cảm nhận cú sốc từ đó tiếp thêm sinh lực cho dòng máu chảy trong mình.

“Tớ đói quá,” Will nói.

“Tớ cũng thế,” Lyra nói, mặc dù cô đang cảm thấy nhiều hơn thế, một thứ gì đó vừa êm dịu vừa cấp bánh, nửa vui sướng nửa đau đớn, khiến cô không chắc lắm nó là gì.

Chúng gỡ tấm vải ra rồi ăn chút bánh mì và pho mát. Vì lí do nào đó, đôi tay chúng đã trở nên chậm chạp và lóng ngóng, chúng cũng gần như chẳng nếm được mùi vị của đồ ăn, dù cho bánh mì căng đầy và giòn tan từ những phiến đá nướng nóng rực, còn pho mát thì bông xốp, đậm đà và rất tươi ngon.

Sau đó Lyra lấy một trong những quả đỏ nhỏ xíu. Với trái tim đập rộn ràng, cô bé quay sang cậu và nói: “Will..”

Rồi cô dịu dàng đưa thứ ngọt quả lên miệng cậu.

Cô có thể thấy từ ánh mắt cậu rằng cậu đã hiểu ngay ý cô là gì, và rằng cậu quá vui sướng để có thể thốt nên lời. Những ngón tay của cô vẫn đặt trên môi cậu, và cậu cảm thấy chúng run rẩy, cậu đưa tay lên để giữ lấy tay cô ở đó, và rồi không ai trong chúng có thể nhìn nhau; chúng đang quá bối rối; chúng đang tràn ngập hạnh phúc.

Tựa như hai con bướm đêm vụng về va vào nhau, với trọng lượng không lớn hơn thế, đôi môi chúng khẽ chạm. Rồi trước khi biết được chuyện đó xảy ra như thế nào, chúng đã ôm chặt lấy nhau, mặt ép vào nhau một cách mù quáng.

“Như Mary đã nói…” Cậu thì thầm “… ta sẽ biết ngay lập tức khi ta thích một ai đó - lúc cậu đang ngủ trên núi, trước khi bà ta đưa cậu đi, tớ đã nói với Pan…”

“Tớ có nghe,” cô thì thầm, “tớ vẫn thức, tớ cũng đã muốn nói với cậu điều đó. Giờ tớ đã biết điều mà mình hẳn đã cảm nhận được suốt thời gian qua: Tớ yêu cậu, Will ạ, tớ yêu cậu…”

Một chữ yêu đã khiến tâm trí cậu rực cháy. Cả người cậu rộn lên, và cậu đáp lại cô bằng cũng những từ ngữ đó, không ngừng hôn lên gương mặt nóng bừng của cô, say sưa tận hưởng mùi hương từ cơ thể cô, mái tóc ấm áp có mùi mật ong và đôi môi ẩm ngọt ngào mang vị của loại quả đỏ nhỏ xíu.

Chẳng có gì xung quanh chúng ngoài sự tĩnh lặng, như thể cả thế giới đang nín thở.

Balthamos đang hoảng sợ.

Ông leo ngược lên dòng suối, tránh xa khỏi khu rừng, giữ chặt lấy con linh thú côn trùng đang cào cấu, đốt, cắn, và cố gắng ẩn mình hết mức có thể khỏi gã đàn ông đang lập bập đuổi theo.

Ông không được phép để hắn theo kịp. Ông biết rằng Cha Gomez sẽ giết mình chỉ trong một nốt nhạc. Một thiên thần ở cấp độ của ông chẳng thể nào đấu nổi với con người, dù cho thiên thần đó có khỏe mạnh đi nữa, trong khi Balthamos thì lại chẳng hề như thế; hơn nữa, ông còn đang đờ đẫn vì nỗi tiếc thương Baruch và sự tủi nhục vì đã bỏ rơi Will trước đó. Ông thậm chí còn không còn sức để bay nữa.

“Khoan, khoan,” Cha Gomez kêu lên. “Làm ơn hãy đứng yên. Tôi không thể thấy ông được - từ từ nói chuyện đã, xin ông - đừng làm đau linh thú của tôi, tôi xin ông…”

Trên thực tế, con linh thú lại đang làm Balthamos đau. Vị thiên thần có thể lờ mờ thấy cái thứ màu xanh nhỏ xíu qua mu bàn tay đang ụp vào của mình, còn nó thì đang liên tiếp cắm ngập bộ hàm mạnh mẽ vào lòng bàn tay ông. Ông chỉ cần hé tay ra một chút là nó sẽ bay mất ngay. Balthamos giữ cho tay thật khít.

“Lối này,” ông nói, “đi theo ta. Rời xa khỏi khu rừng đi. Ta muốn nói chuyện với ngươi nhưng chỗ này lại không phù hợp.”

“Nhưng ông là ai? Tôi không nhìn thấy được ông. Lại gần đây - nếu không thấy ông thì sao tôi biết được ông là thứ gì chứ? Yên nào, đừng có đi nhanh thế!”

Nhưng đi nhanh là biện pháp phòng vệ duy nhất mà Balthamos có. Vừa cố lờ đi con linh thú đang đâm chích, ông vừa thận trọng leo lên khe núi nhỏ nơi con suối chảy ra, bước từ hòn đá này sang hòn đá khác.

Rồi ông phạm một sai lầm: Trong lúc cố ngoái nhìn phía sau, ông đã bị trượt và cắm một bàn chân xuống nước.

“A,” một tiếng thì thầm mãn nguyện phát ra khi Cha Gomez thấy nước bắn tóe lên.

Balthamos lập tức rút chân lên rồi vội vàng đi tiếp - nhưng giờ đây một dấu chân ướt xuất hiện trên những hòn đá khô mỗi khi ông đặt chân xuống. Tên linh mục nhìn thấy thế liền lao tới trước, tay lướt thấy lông vũ.

Hắn dừng khựng lại vì kinh ngạc: Từ thiên thần dội tới trí não hắn. Balthamos nắm lấy thời cơ để lại chật vật tiến về phía trước. Tên linh mục thấy mình bị lôi theo sau ông khi một cơn đau nhói tàn khốc khác siết lấy tim hắn.

Balthamos nói vọng lại qua vai: “Xa hơn một chút nữa, chỉ tới đỉnh đồi thôi, rồi chúng ta sẽ nói chuyện, ta hứa đấy.”

“Nói ở đây đi! Dừng lại ngay chỗ đó, tôi thề sẽ không động tới ông đâu!”

Thiên thần không trả lời: Quá khó để có thể tập trung. Ông phải chia sự chú ý thành ba hướng: phía sau để tránh gã đàn ông, phía trước để xem mình đang đi đâu, và lên con linh thú đang cuồng nộ, dằn vặt đôi tay ông.

Còn về tên linh mục, trí óc hắn đang nhanh chóng làm việc. Một đối thủ thực sự nguy hiểm sẽ giết chết linh thú của hắn ngay lập tức và kết thúc vấn đề tại đó: Tên địch này sợ phải ra đòn.

Với suy nghĩ đó trong đầu, hắn để cho mình sảy chân, rồi thốt lên những tiếng rên đau đớn khe khẽ, cầu xin người kia dừng lại một hay hai lần - trong suốt lúc đó lại kĩ càng quan sát, tiến lại gần hơn, ước lượng xem kẻ kia to lớn ngần nào, hắn có thể di chuyển nhanh ra sao, hắn đang nhìn hướng nào.

“Làm ơn,” hắn yếu ớt nói, “ông không biết điều này đau đớn thế nào đâu - tôi đâu thể làm hại ông được - làm ơn, chúng ta có thể dừng lại nói chuyện được không?”

Hắn không muốn rời khỏi tầm nhìn tới khu rừng. Giờ họ đã lên tới điểm khởi nguồn của dòng suối, và hắn có thể thấy hình dạng bàn chân của Balthamos chạm xuống cỏ rất khẽ. Tên linh mục đã quan sát từng chút một trên đường, và giờ hắn biết chắc được nơi thiên thần đang đứng.

Balthamos quay lại. Tên linh mục nhướn mắt nhìn nơi mà hắn cho rằng sẽ là khuôn mặt của thiên thần, và lần đầu tiên nhìn thấy ông: Chỉ là một khối sáng lung linh trong không khí, nhưng không thể nhầm lẫn được.

Nhưng hắn đang không ở đủ gần để lao tới chỉ bằng một bước, và trên thực tế, sức kéo lên con linh thú của hắn khiến hắn đau đớn và yếu dần. Có lẽ hắn nên tiến thêm một hoặc hai bước…

“Ngồi xuống,” Balthamos nói. “Ngồi xuống ngay tại đó. Không được tiến thêm bước nào.”

“Ông muốn gì?” Cha Gomez hỏi, không nhúc nhích.

“Ta muốn gì à? Ta muốn giết ngươi, nhưng ta không có đủ sức.”

“Nhưng ông là thiên thần sao?”

“Quan trọng gì chứ?”

“Có thể ông đã phạm sai lầm đó. Có khi chúng ta thuộc cùng một phe.”

“Không đâu. Ta đã theo dõi ngươi lâu rồi. Ta biết ngươi thuộc phe nào - không, không, đừng có cử động. Ở yên đó.”

“Giờ ăn năn cũng chưa quá muộn đâu. Kể cả thiên thần cũng được phép làm điều đó. Hãy để tôi nghe lời thú tội của ông.”

“Ôi, Baruch, giúp tôi với!” Balthamos tuyệt vọng hét lên rồi quay đi.

Đúng lúc ông hét lên, Cha Gomez liền lao tới. Vai hắn đập vào vai thiên thần, khiến Balthamos mất thăng bằng; và trong lúc hất tay để tự cứu lấy bản thân, thiên thần đã thả con linh thú côn trùng ra. Con bọ lập tức bay thoát, Cha Gomez cảm thấy một sự nhẹ nhõm và sức lực trào dâng. Nhưng thực ra, hắn không thể ngờ rằng đó lại chính là thứ giết chết mình. Hắn lao người thật lực vào hình dạng mờ ảo của thiên thần, hắn ước tính rằng phản lực ngược trở lại sẽ lớn hơn nhiều nên đã không thể giữ được thăng bằng. Hắn trượt chân theo đà lao thẳng xuống dòng suối; còn Balthamos, nghĩ tới việc Baruch sẽ làm, đạp bàn tay của tên linh mục sang một bên khi hắn vung ra tìm điểm tựa.

Cha Gomez nặng nề rơi xuống. Đầu đập mạnh vào một hòn đá, hắn ngã lăn ra bất tỉnh với khuôn mặt chìm trong nước. Cái lạnh đột ngột lập tức đánh thức hắn, nhưng trong lúc hắn ngạt thở, cố gắng vùng dậy một cách yếu ớt, Balthamos, trong tuyệt vọng, mặc kệ con linh thú đốt vào mặt, vào mắt, vào mồm, và dùng toàn bộ sức nặng nhỏ nhoi của mình để ấn đầu gã đàn ông xuống nước. Ông giữ hắn ở đó, tiếp tục giữ, tiếp tục giữ ở đó.

Khi con linh thú đột nhiên biến mất, Balthamos thả gã đàn ông ra. Hắn đã chết. Ngay khi đã chắc chắn, Balthamos lôi cái xác ra khỏi dòng suối rồi cẩn thận đặt nó lên cỏ, khoanh hai tay linh mục lên ngực và khép mắt hắn lại.

Sau đó Balthamos đứng dậy, nôn nao, mệt mỏi và đầy đau đớn.

“Baruch,” ông kêu lên, “ôi Baruch thân yêu, tôi không thể cố được nữa rồi. Will và đứa con gái đã được an toàn, và mọi thứ sẽ ổn thôi, nhưng tôi đến hồi kết rồi, mặc dù tôi đã thật sự chết khi anh tan biến, Baruch thương mến của tôi.”

Một lúc sau, ông đã ra đi.

Trong cánh đồng đậu, gà gật trong sức nóng của buổi chiều muộn, Mary nghe thấy giọng Atal, bà không đoán được đó là sự phấn khích hay hoảng hốt nữa: Lại một cái cây nữa đổ xuống sao? Gã đàn ông với khẩu súng trường xuất hiện rồi à?

Nhìn đi! Nhìn đi! Atal đang nói, dùng vòi thúc vào túi Mary nên bà lấy cái ống nhòm ra và làm như bạn bảo, chĩa nó lên trời.

Cho tôi biết nó đang làm gì đi! Atal nói. Tôi có thể cảm thấy sự khác biệt, nhưng tôi không nhìn được.

Dòng lũ khủng khiếp của những hạt Bụi trên bầu trời đã ngừng trôi. Đương nhiên là nó không đứng yên. Mary rà soát cả bầu trời với những lăng kính hổ phách, nhìn thấy một dòng chảy ở đây, một vòng xoáy ở kia, một cơn lốc ở xa hơn; chúng đang chuyển động không ngừng, nhưng không còn trôi đi nữa. Trên thực tế, có chăng là nó đang rơi xuống như những bông tuyết.

Bà nghĩ tới đám cây bánh xe: Những bông hoa nở hướng lên trời sẽ uống lấy cơn mưa vàng óng ánh này. Mary gần như có thể cảm thấy chúng đang chào đón cơn mưa chảy vào cổ họng khô khốc tội nghiệp của mình, một cấu trúc được tạo hình hoàn toàn vì nó, một nơi đã bị bỏ đói quá lâu.

Những đứa trẻ, Atal nói.

Mary quay lại, tay cầm ống nhòm, để thấy Will và Lyra đang quay về. Chúng vẫn còn cách đó một đoạn, và không hề tỏ ra vội vàng. Chúng đang nắm tay nhau, nói chuyện với nhau, đầu tựa sát, lãng quên mọi thứ khác; thậm chí từ xa bà cũng có thể nhận ra điều đó.

Suýt chút nữa bà đã đưa ống nhòm lên mắt, nhưng bà đã kịp kìm lại và trả nó lại về túi áo. Không cần đến cái kính; bà biết mình sẽ nhìn thấy điều gì; trông chúng sẽ như được làm từ vàng tuôn chảy. Trông chúng sẽ như hình ảnh thực sự về thứ mà con người luôn luôn có thể trở thành, một khi đã được thừa hưởng từ chúng.

Bụi tuôn chảy xuống từ những vì sao đã lại tìm được một ngôi nhà để sinh sống, và những đứa trẻ không còn là trẻ con này, với tình yêu chan chứa, là nguyên nhân của tất cả.