- 36 - Mũi tên gãy
Nhưng Số phận lại thọc những mũi sắt,
Và luôn luôn len mình vào giữa.
Andrew Marvell
Hai con linh thú đi qua ngôi làng yên ắng, vào rồi lại ra khỏi những bóng râm, bước đi trong dạng mèo ngang qua bãi tập trung ngập tràn ánh trăng, dừng lại bên ngoài cánh cửa nhà Mary đang mở.
Chúng thận trọng nhòm vào bên trong. Do chỉ thấy người phụ nữ đang say ngủ, chúng lui ra rồi lại bước đi trong ánh trăng, về phía thân cây.
Những cái cành dài rủ đám lá xoắn vặn thơm nức xuống sát mặt đất. Rất từ tốn, rất cẩn thận không để quệt vào một cái lá hay làm gãy một cành rụng nào, hai hình bóng luồn vào trong qua bức màn lá và thấy thứ mà mình đang tìm kiếm: cậu bé và cô bé, say ngủ trong vòng tay nhau.
Hai con linh thú tiến lại gần trên nền cỏ và khẽ chạm vào những kẻ say ngủ bằng mũi, chân, râu, đầm mình trong hơi ấm của sự sống mà chúng tỏa ra, nhưng lại hết sức cẩn thận để không đánh thức chúng.
Trong lúc chúng đang kiểm tra hai bản thể người của mình (dịu dàng liếm sạch vết thương đang chóng lành của Will, nâng lọn tóc ra khỏi mặt Lyra), có một tiếng động khe khẽ phát ra từng phía sau lưng.
Lập tức, trong im lặng tuyệt đối, cả hai con linh thú nhảy bật người lại, biến thành sói: những đôi mắt sáng rực điên loạn, hàm răng trắng ởn nhe ra, từng đường nét đều tỏa ra sự đe doạ.
Một người phụ nữ đứng đó, viền sáng trong ánh trăng. Đó không phải là Mary, khi cô lên tiếng, chúng nghe thấy rất rõ dù cho giọng cô không tạo ra âm thanh nào.
“Đi với ta,” cô nói.
Trái tim linh thú của Pantalaimon nảy lên trong lồng ngực, nhưng nó không nói gì cho tới khi đã đi xa khỏi những kẻ say ngủ dưới gốc cây để chào đón cô.
“Serafina Pekkala!” Nó mừng rỡ kêu lên. “Cô đã ở đâu vậy? Cô có biết chuyện gì đã xảy ra không?”
“Suỵt. Cùng bay đến một nơi mà chúng ta có thể nói chuyện nào,” cô nói, lưu tâm đến các dân làng đang ngủ.
Cành thông mây của cô nằm bên cánh cửa nhà Mary. Trong lúc cô cầm nó lên, hai con linh thú hóa thành chim - một con chim sơn ca và một con cú - rồi bay cùng với cô qua những mái nhà lợp tranh, trên vùng đồng cỏ, qua dãy đồi, về phía khoảnh rừng cây bánh xe gần nhất, to lớn như một tòa lâu đài, đỉnh của nó trông giống như bạc kết tụ dưới ánh trăng.
Tại đó, Serafina Pekkala đáp xuống cành cây cao nhất mà vẫn có thể đứng thoải mái, giữa những bông hoa nở đang nuốt lấy Bụi, rồi hai con chim đậu xuống gần đó.
“Các ngươi sẽ không còn làm chim lâu đâu,” cô nói. “Chẳng mấy chốc hình dạng của các ngươi sẽ được ổn định. Hãy nhìn quanh và ghi nhớ cảnh tượng này vào trong kí ức.”
“Chúng tôi sẽ biến thành gì?” Pantalaimon hỏi.
“Các ngươi sẽ biết sớm hơn mình nghĩ đấy. Nghe này,” Serafina Pekkala nói, “ta sẽ kể cho các ngươi nghe vài câu chuyện dân gian của phù thủy mà không ai ngoài các phù thủy biết tới. Lí do mà ta có thể làm việc đó là vì các ngươi đang ở đây với ta, còn những con người của các ngươi lại ở dưới đó, say ngủ. Những người duy nhất có thể làm được điều đó là ai?”
“Các phù thủy,” Pantalaimon đáp, “và pháp sư. Nên…”
“Bằng cách để lại cả hai ngươi trên bờ của thế giới của người chết, Lyra và Will đã làm một điều, dù bản thân chúng không hề biết, mà các phù thủy đã làm từ khi phù thủy lần đầu xuất hiện. Có một vùng thuộc miền đất phía bắc của chúng ta, một nơi tan hoang tồi tệ, nơi một thảm họa khủng khiếp đã xảy đến vào thuở ấu thơ của thế giới, nơi mà kể từ đó chẳng còn thứ gì sinh sống. Không linh thú nào có thể vào đó. Để trở thành phù thủy, một cô gái phải một mình băng qua nó và để linh thú của mình lại. Các ngươi biết họ hẳn phải trải qua cảm giác đau đớn đến thế nào. Nhưng sau khi đã thực hiện điều đó, họ thấy rằng linh thú của mình không bị cắt đứt như ở Bolvangar; họ vẫn là một thể toàn vẹn; nhưng giờ họ có thể đi lại thoải mái, tới những nơi xa xôi, chứng kiến những điều lạ lùng và đem kiến thức về.
“Các ngươi cũng không bị cắt rời đúng không?”
“Không,” Pantalaimon nói. “Chúng tôi vẫn là một. Nhưng chuyện đó thật đau đớn, và chúng tôi đã rất sợ hãi…”
“Ừ,” Serafina nói, “hai người bọn chúng sẽ không bay được như phù thủy, chúng cũng sẽ không sống thọ được như chúng ta; nhưng nhờ vào việc mình đã làm, các ngươi và họ là phù thủy ở tất cả mọi mặt trừ những điều đó.”
Hai con linh thú cân nhắc sự lạ lùng của thứ kiến thức này.
“Thế nghĩa là chúng tôi có thể làm chim, giống như linh thú của phù thủy sao?” Pantalaimon hỏi.
“Cứ bình tĩnh đã.”
“Mà Will làm sao làm phù thủy được? Tôi cứ nghĩ phù thủy toàn là nữ chứ.”
“Hai đứa trẻ đó đã làm biến đổi nhiều thứ. Tất cả chúng ta đều học hỏi những cách thức mới, kể cả phù thủy đi nữa. Nhưng có một điều không hề thay đổi: Các ngươi sẽ phải giúp đỡ con người của mình chứ không phải làm cản đường chúng. Các ngươi phải giúp chúng, dẫn lối cho chúng và khuyến khích chúng tiến tới tri thức. Đó là lí do linh thú tồn tại.”
Hai con linh thú im lặng. Serafina quay sang con chim sơn ca và hỏi: “Tên ngươi là gì?”
“Tôi không có tên. Tôi không biết mình đã được sinh ra cho tới khi bị giằng ra khỏi trái tim của cậu ấy.”
“Vậy thì ta sẽ đặt tên ngươi là Kirjava.”
“Kirjava,” Pantalaimon thử phát âm. “Nó có nghĩa là gì vậy?”
“Các ngươi sẽ sớm hiểu được ý nghĩa của nó thôi. Nhưng bây giờ,” Serafina nói tiếp, “các ngươi phải lắng nghe thật kĩ, vì ta sắp nói cho các ngươi biết mình nên làm gì.”
“Không,” Kirjava quả quyết nói.
Serafina dịu dàng nói: “Ta có thể đoán được từ giọng của ngươi rằng ngươi biết ta định nói gì.”
“Chúng tôi không muốn nghe điều đó!” Pantalaimon nói.
“Còn quá sớm,” con chim sơn ca nói. “Quá quá sớm.”
Serafina trở nên im lìm, vì cô đồng tình với chúng, và cô cảm thấy âu sầu. Nhưng cô vẫn là nhân vật thông thái nhất ở đó, cô phải dẫn chúng đến với điều đúng đắn; nhưng cô để cho sự kích động của chúng dịu xuống trước khi nói tiếp.
“Trong lúc đi lang thang, các ngươi đã đi những đâu?” Cô hỏi.
“Qua nhiều thế giới,” Pantalaimon đáp. “Cứ chỗ nào tìm thấy một ô cửa sổ là chúng tôi lại đi qua. Có nhiều cửa sổ hơn chúng tôi nghĩ.”
“Và các ngươi đã thấy…”
“Phải,” Kirjava đáp, “chúng tôi đã nhìn rất kĩ, và thấy chuyện đang diễn ra.”
“Chúng tôi còn thấy nhiều thứ khác nữa,” Pantalaimon vội nói. “Chúng tôi thấy thiên thần và nói chuyện với họ. Chúng tôi thấy thế giới của những người tí hon, những người Gallivespia. Ở đó có cả người cỡ lớn nữa, chúng đang cố giết họ.”
Chúng kể với cô phù thủy nhiều hơn về những gì mình đã thấy, chúng đang cố làm cô xao nhãng, cô biết vậy; nhưng cô cứ để chúng nói, bởi tình yêu mà chúng cảm thấy đối với tiếng nói của kẻ còn lại.
Nhưng cuối cùng chúng cũng hết chuyện để kể với cô nên đành trở nên im lặng. Âm thanh duy nhất là tiếng thì thầm dịu dàng bất tận của lá cây, cho tới khi Serafina Pekkala nói:
“Các ngươi đã tránh xa Will và Lyra để trừng phạt chúng. Ta biết tại sao các ngươi lại làm vậy; Kaisa của ta đã làm điều y hệt sau khi ta ra khỏi vùng đất cằn cỗi tan hoang kia. Nhưng cuối cùng ông ấy cũng đến với ta, vì chúng ta vẫn yêu thương nhau. Hai đứa trẻ sẽ sớm cần đến các ngươi để giúp chúng thực hiện việc cần làm tiếp theo. Bởi vì các ngươi cần phải kể cho chúng những gì mình biết.”
Pantalaimon hét toáng lên, một tiếng hét lạnh lẽo thuần khiết của loài cú, một âm thanh chưa từng được nghe thấy trong thế giới này. Trong các hang và tổ đó một quãng xa, hay bất cứ nơi nào một sinh vật ăn đêm nhỏ xíu đang săn mồi, gặm cỏ, hay ăn xác thối, một nỗi sợ mới mẻ và khó quên vừa bùng lên.
Serafina đứng nhìn từ gần đó, không cảm thấy gì ngoài lòng thương hại cho tới khi quay sang nhìn linh thú của Will, con chim sơn ca Kirjava. Cô nhớ lại lần nói chuyện với phù thủy Ruta Skadi, người đã hỏi sau khi mới gặp Will một lần rằng liệu Serafina đã nhìn vào mắt cậu bé chưa; và Serafina đã trả lời rằng cô không dám nhìn. Con chim nhỏ màu nâu này đang tỏa ra sự hung bạo khôn nguôi, rõ rệt như một luồng hơi nóng, khiến Serafina phải e sợ.
Cuối cùng tiếng hét hoang dại của Pantalaimon cũng tắt, Kirjava liền nói:
“Chúng tôi phải nói cho họ biết.”
“Phải,” cô phù thủy nhẹ nhàng nói.
Dần dần vẻ hung bạo rời khỏi ánh nhìn của con chim nâu nhỏ, và Serafina lại có thể nhìn vào nó. Thay vào đó, cô thấy một nỗi buồn tang thương.
“Có một con tàu đang đến,” Serafina nói. “Ta đã rời khỏi nó để bay đến đây tìm các ngươi. Ta đến cùng với những người du mục, tít từ thế giới của chúng ta. Thêm khoảng một ngày nữa là họ sẽ tới nơi.”
Hai con chim đậu sát gần nhau, và một lúc sau, chúng đã biến hình, trở thành hai con chim câu.
Serafina nói tiếp:
“Đây có lẽ là lần cuối cùng các ngươi được bay. Ta có thể thấy trước đôi chút; ta thấy được rằng cả hai ngươi sẽ có thể trèo lên được độ cao này miễn là có những cái cây lớn cỡ này; nhưng ta nghĩ các ngươi sẽ không phải là chim khi hình dạng được ấn định. Hãy tiếp nhận mọi thứ có thể, và nhớ kĩ lấy. Ta biết rằng các ngươi, Lyra và Will sẽ phải suy nghĩ rất vất vả và đau đớn, nhưng ta biết các ngươi sẽ có được lựa chọn tốt nhất. Lựa chọn đó là của các ngươi chứ không ai khác.”
Chúng không nói gì. Cô cầm lấy cành thông mây rồi bay lên khỏi những ngọn cây đứng sừng sững, lượn vòng tít trên cao, cảm nhận trên làn da mình sự mát lạnh của gió nhẹ, sự râm ran của ánh sao và thứ Bụi đang hào phóng rơi lắc rắc mà cô chưa từng bao giờ nhìn thấy.
Serafina bay xuống dưới làng một lần nữa rồi lặng lẽ bước vào trong nhà của người phụ nữ. Cô không biết gì về Mary ngoại trừ việc bà tới từ chính thế giới của Will, và rằng đóng góp của bà vào những sự kiện này mang tính chất quyết định. Liệu bà dữ tợn hay thân thiện, Serafina không có cách nào để biết được; nhưng cô phải đánh thức Mary dậy mà không làm bà giật mình, có một câu thần chú cho việc đó.
Cô ngồi xuống sàn nhà bên cạnh đầu người phụ nữ và nhìn qua đôi mắt nhắm hờ, hít vào thở ra cùng lúc với bà. Ngay lập tức, thị trường phân nửa của cô bắt đầu hiện những hình dáng lờ mờ mà Mary đang nhìn thấy trong giấc mơ của mình, cô liền điều chỉnh tâm trí mình để cộng hưởng với chúng, giống như đang lên dây đàn vậy. Rồi, với một nỗ lực mạnh mẽ hơn, đích thân Serafina bước vào giữa chúng. Một khi đã ở đó, cô có thể nói chuyện với Mary, và cô làm vậy với một thiện cảm dễ dàng tức khắc mà đôi khi chúng ta nhận thấy với những người mình gặp trong giấc mơ.
Một lúc sau, họ đang nói chuyện với nhau trong một tràng lầm rầm vội vã mà sau đó Mary sẽ không còn nhớ chút gì, rồi bước qua một phong cảnh ngớ ngẩn của những luống sậy và máy biến thế điện năng. Đã đến lúc Serafina đảm nhận trách nhiệm.
“Trong vài phút tới,” cô nói, “bà sẽ tỉnh dậy. Đừng lo sợ. Bà sẽ thấy tôi đang ngồi bên cạnh. Tôi đánh thức bà bằng cách này để bà biết được rằng mọi sự an toàn và không có gì làm hại bà cả. Sau đó chúng ta có thể nói chuyện hẳn hoi với nhau.”
Cô rút khỏi, đưa theo Mary trong mơ đi cùng, cho tới khi cô thấy mình lại đang ở trong nhà, ngồi khoanh chân trên nền đất, với đôi mắt Mary lấp lánh khi chúng nhìn vào cô.
“Cô hẳn phải là cô phù thủy đó,” Mary thì thầm.
“Đúng vậy. Tên ta là Serafina Pekkala. Tên bà là gì?”
“Mary Malone. Tôi chưa từng được đánh thức dậy khẽ khàng đến thế. Tôi đang tỉnh đó chứ?”
“Phải. Chúng ta cần phải nói chuyện với nhau, mà nói chuyện trong mơ rất khó để kiểm soát, lại khó nhớ nữa. Tốt nhất là nói chuyện trong lúc tỉnh táo. Bà muốn ở trong nhà hơn, hay sẽ tản bộ với ta trong ánh trăng?”
“Tôi sẽ đi,” Mary nói rồi ngồi dậy vươn vai. “Lyra và Will đâu rồi?”
“Đang ngủ dưới gốc cây.”
Họ rời khỏi nhà và đi qua thân cây với bức màn lá che phủ tất cả, rồi bước xuống con sông.
Mary quan sát Serafina Pekkala với một cảm xúc lẫn lộn giữa cảnh giác và khâm phục: Bà chưa từng thấy một người nào có vóc dáng mảnh khảnh và duyên dáng đến thế. Trông cô dường như còn trẻ hơn cả Mary, dù Lyra đã nói rằng cô đã hàng trăm năm tuổi rồi; dấu vết tuổi tác duy nhất hiện ra trong biểu cảm của cô, một biểu cảm đầy vẻ buồn bã phức tạp.
Họ ngồi bên bờ sông, trên mặt nước đen lấp lánh ánh bạc, Serafina nói với bà rằng cô đã nói chuyện với linh thú của hai đứa trẻ.
“Hôm nay hai đứa đã đi tìm chúng,” Mary nói, “nhưng có một việc khác đã xảy ra. Will chưa được nhìn thấy linh thú của mình một cách hẳn hoi, trừ lúc chúng chạy trốn khỏi cuộc chiến, mà lúc đó chỉ trong có tích tắc. Thằng bé còn không biết chắc là mình có linh thú nữa.”
“Nó có đấy. Cả bà cũng thế.”
Mary đăm đăm nhìn cô phù thủy.
“Nếu có thể nhìn thấy nó,” Serafina nói tiếp, “ bà sẽ thấy một con chim đen với đôi chân đỏ và một cái mỏ vàng sáng, hơi cong. Một con chim của vùng núi.”
“Quạ mỏ vàng núi Alps… Làm sao cô thấy được nó?”
“Chỉ cần nhắm hờ mắt, ta có thể nhìn thấy nó. Nếu chúng ta có thời gian, ta có thể dạy bà cách nhìn thấy nó, và thấy linh thú của những người khác trong thế giới của bà nữa. Thật kì lạ đối với chúng ta khi nghĩ rằng bà không thể thấy chúng.”
Rồi cô kể với Mary những gì mình đã nói với đám linh thú, và nó có ý nghĩa gì.
“Vậy hai con linh thú sẽ phải nói cho chúng nghe à?” Mary hỏi.
“Ta đã nghĩ đến việc đánh thức chúng để tự mình nói cho chúng nghe. Ta nghĩ tới việc kể cho bà và giao phó lại trách nhiệm cho bà. Nhưng khi nhìn thấy linh thú của chúng; ta biết rằng đó là lựa chọn tốt nhất.”
“Chúng đang yêu.”
“Ta biết.”
“Chúng mới chỉ vừa khám phá ra điều đó…”
Mary cố gắng hấp thu mọi ngụ ý mà Serafina đã nói cho bà nghe, nhưng việc đó quá khó.
Sau khoảng một phút, Mary nói: “Cô có thấy được Bụi không?”
“Không, ta chưa từng nhìn thấy nó. Cho tới khi cuộc chiến nổ ra, chúng ta chưa bao giờ nghe nói về nó.”
Mary lấy cái ống nhòm từ túi áo ra rồi đưa nó cho cô phù thủy. Serafina đặt nó lên mắt, rồi há hốc miệng kinh ngạc.
“Đó là Bụi sao… Đẹp quá!”
“Hãy quay lại nhìn cái cây ẩn náu đi.”
Serafina làm theo, và lại kêu lên. “Chúng làm điều này à?” Cô hỏi.
“Có chuyện gì đó đã xảy ra vào hôm nay, hoặc hôm qua, nếu lúc đó là sau nửa đêm,” Mary nói, cố gắng tìm từ ngữ để giải thích và nhớ lại cảnh tượng dòng Bụi tuôn chảy không khác gì một con sông khổng lồ như Mississippi. “Một điều gì đó nhỏ nhoi nhưng có tính cốt yếu… Nếu muốn đổi hướng một con sông lớn vào một lộ trình khác mà tất cả những gì ta có chỉ là một hòn đá cuội đơn độc, ta vẫn có thể làm được, miễn là phải đặt viên đá vào đúng chỗ để đẩy tia nước đầu tiên theo hướng đó chứ không phải hướng này. Một thứ giống như thế đã xảy ra ngày hôm qua. Tôi không biết nó là gì. Chúng đã nhìn nhận nhau khác đi hay gì đó… Cho tới lúc đó chúng không cảm thấy như vậy, nhưng rồi đột nhiên chuyện đó xảy ra. Và rồi Bụi bị chúng thu hút, một cách mãnh liệt, khiến nó ngừng trôi đi theo hướng khác.”
“Thì ra mọi thứ diễn ra như vậy!” Serafina ngạc nhiên thốt lên. “Giờ thì an toàn rồi, hoặc sẽ an toàn khi các thiên thần lấp đầy khe nứt khổng lồ dưới địa ngục.”
Bà kể cho Mary nghe về vực thẳm, và về việc bản thân cô đã tìm ra như thế nào.
“Ta đang bay cao,” cô giải thích, “tìm kiếm một dải đất liền, thì gặp một thiên thần, một nữ thiên thần. Bà ta rất kì lạ; vừa già lại vừa trẻ,” cô nói tiếp, quên mất rằng chính cô cũng như vậy đối với Mary. “Tên bà ta là Xaphania. Bà ta đã kể cho ta nghe rất nhiều chuyện… Bà nói rằng toàn bộ lịch sử của loài người vẫn luôn là một cuộc đấu tranh giữa thông tuệ và xuẩn ngốc. Bà và các thiên thần chống đối, những người theo đuổi thông tuệ, vẫn luôn cố gắng khai mở trí óc; Đấng Quyền Năng và các Giáo hội của ông ta lại luôn cố gắng đóng nó lại. Bà ta đã cho ta rất nhiều ví dụ từ thế giới của ta.”
“Tôi có thể nghĩ ra rất nhiều trường hợp từ thế giới của mình.”
“Vậy nên trong phần lớn thời gian, trí tuệ đã phải hoạt động bí mật, thì thầm những từ ngữ của mình, di chuyển như một mật thám qua những nơi xoàng xĩnh trên thế giới trong lúc các tòa án và cung điện lại bị kẻ thù của nó chiếm đóng.”
“Phải,” Mary nói, “tôi cũng nhận ra điều đó.”
“Đến giờ cuộc đấu tranh đó vẫn chưa ngã ngũ, dù cho các lực lượng của vương quốc đã đến hồi thoái trào. Rồi họ sẽ tập hợp lại dưới một chỉ huy mới và trở lại đầy mạnh mẽ, chúng ta phải sẵn sàng để chống lại.”
“Nhưng chuyện gì đã xảy ra với Ngài Asriel vậy?” Mary hỏi.
“Ông ấy đã tìm thấy Nhiếp chính của thiên đường, thiên thần Metatron, và vần hắn ta rơi vào vực thẳm. Metatron đã biến mất vĩnh viễn. Cả Ngài Asriel nữa.”
Mary nín thở. “Còn Phu nhân Coulter thì sao?” Bà hỏi.
Để trả lời, cô phù thủy lấy một mũi tên từ bao đựng ra. Cô từ tốn lựa chọn nó: mũi tên tốt nhất, thẳng nhất, thăng bằng hoàn hảo nhất.
Rồi cô bẻ mũi tên làm đôi.
“Có một lần ở thế giới của mình,” cô nói, “ta đã chứng kiến một người đàn bà tra tấn một phù thủy, và ta đã thề với bản thân rằng mình sẽ bắn mũi tên đó thẳng vào họng bà ta. Giờ thì ta sẽ không bao giờ làm điều đó. Bà ta đã hi sinh bản thân cùng với Ngài Asriel để chiến đấu với thiên thần kia, và khiến thế giới an toàn cho Lyra. Họ không thể thực hiện được điều đó một mình, nhưng họ đã làm được vì có nhau.”
Mary đau buồn nói: “Chúng ta nói với Lyra thế nào bây giờ?”
“Hãy đợi cho tới khi con bé hỏi,” Serafina nói. “Mà có thể nó sẽ không hỏi đâu. Dù sao nó cũng có cái máy đọc biểu tượng của mình; cái máy sẽ cho con bé biết mọi thứ nó muốn.”
Họ ngồi im lặng một cách thoải mái trong một lúc, dưới những vì sao đang chầm chậm quay trên bầu trời.
“Cô có thể nhìn thấy tương lai, và đoán được chúng sẽ lựa chọn làm gì không?” Mary hỏi.
“Không, nhưng nếu Lyra trở về thế giới của chính mình, ta sẽ làm chị của con bé cho đến hết đời nó. Bà sẽ làm gì?”
“Tôi…” Mary bắt đầu, rồi thấy rằng mình chưa hề nghĩ tới điều đó. “Tôi nghĩ mình thuộc về thế giới của bản thân. Mặc dù tôi sẽ rất buồn phải rời khỏi nơi đây; tôi đang sống rất hạnh phúc ở đây. Hạnh phúc nhất từ trước tới giờ, tôi nghĩ vậy.”
“Nếu bà thật sự trở về nhà, ta sẽ lại có một người chị em ở một thế giới khác,” Serafina nói, “và ta cũng vậy. Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong một ngày hay tầm đấy, khi con tàu cập bến, rồi chúng ta sẽ nói chuyện nhiều hơn trên hành trình về nhà; sau đó sẽ chia tay mãi mãi. Hãy ôm ta đi, người chị em.”
Mary làm theo, rồi Serafina Pekkala bay đi trên cành thông mây, qua bãi sậy, qua vùng đầm lầy, qua thềm bùn và bãi biển rồi qua biển cả, cho tới khi Mary không còn có thể nhìn thấy cô nữa.
Vào khoảng cùng thời gian đó, một trong những con thằn lằn xanh to lớn bắt gặp xác của Cha Gomez. Will và Lyra đã trở về làng vào chiều ngày hôm đó theo một lộ trình khác, nên không nhìn thấy cái xác; tên linh mục nằm im lìm nơi Balthamos đã đặt hắn xuống. Thằn lằn là lũ ăn xác thối, nhưng chúng là những sinh vật hiền hòa và vô hại. Bằng một thỏa thuận từ xa xưa với người mulefa, chúng có quyền ăn bất cứ sinh vật nào bị bỏ mặc cho chết sau khi trời tối.
Con thằn lằn lôi xác tên linh mục về tổ của mình, các con của nó đã được ăn uống thỏa thuê. Còn về khẩu súng trường, nó nằm lẫn trong cỏ nơi Cha Gomez đã đặt xuống, lặng lẽ hóa dần thành gỉ sắt.