CHƯƠNG 4
Mick Stranahan cột mồi vào lưỡi câu rồi quăng dây từ đuôi tàu, vừa để thư giãn vừa để kiếm cá hồng tươi cho bữa tối. Cũng lâu rồi không có đàn bà trên đảo, thành thử Stranahan không biết mình nên cư xử với Joey sao cho phải.
Stranahan không mảy may hoài nghi câu chuyện của Joey, chính xác hơn là không quan tâm. Dính líu nhiều chỉ tổ mệt thân. Không khéo anh còn bị lôi trở lại đất liền, mà anh đã chán ghét chốn thị thành đến tận xương tủy. Mỗi lần từ phố trở về, anh thấy đầu mình nhưng nhức cứ như bị đóng đinh vào óc.
Anh quen sống trên đảo rồi, chỉ về Miami để bổ sung lương thực, sẵn tiện nhận trợ cấp thương tật. Ngày trước, Stranahan vốn là cảnh sát. Anh bắn một tên thẩm phán tham nhũng đã nổ súng bắn anh trước trong khi đang bị bắt giữ. Bản thân Stranahan không xây xước, nhưng Tòa án bang cần một lý do khả dĩ để cho anh hưu non ở tuổi 39. Một vết thương do đạn bắn là hợp lý hơn cả.
Stranahan đâu muốn nghỉ làm ngang xương vậy. Nhưng chính trị mà, Nhà nước không thể giữ lại một nhân viên điều tra (dù mẫn cán) đã bắn chết một vị thẩm phán (dù tham nhũng). Đâu còn cách nào khác, Stranahan chấp nhận sự dàn xếp lố bịch này. Anh mua một căn nhà gỗ ở Vịnh Biscayne, sống yên bình nhiều năm trước khi bão Andrew nổi hứng ghé thăm.
Cái đêm bão tới, Stranahan đang ở nhà bà chị tại Coconut Grove. Bà chị vô phước lấy phải ông chồng vô dụng, chỉ lo bù khú với hội nghị luật sư gì đó ở Boston mà nhất quyết không chịu về gắn cửa sổ cho vợ. Hai ngày sau, khi trời yên biển lặng rồi, Stranahan mới lên xuồng, chèo qua tàn tích của cơn bão để về lại Stiltsville. Trước mắt anh, căn nhà gỗ giờ chỉ còn lại trơ trọi tám cây cọc. Anh bèn gom chúng lại rồi chèo tiếp xuống phía nam.
Cuối cùng anh dừng lại ở một hòn đảo, rộng chừng hơn một bãi san hô. Đảo nhỏ nhưng vẫn đủ chỗ cho một căn nhà hình chữ L nằm án ngữ tại đó. Kết cấu vững vàng giúp nó sống sót qua cơn bão một cách đầy kinh ngạc, dù thủy triều đã đập nát cửa sổ, cuốn đi hết nội thất ở hai tầng, kể cả… người trông coi nó. Mick Stranahan vui vẻ đảm nhận nhiệm vụ người đã khuất để lại.
Chủ căn nhà là một tiểu thuyết gia có tiếng người Mễ. Ông này có đời sống riêng tư rất phức tạp, thành thử thỉnh thoảng phải nương nhờ pháp luật ngoại quốc. Suốt tám năm coi nhà trên đảo, Stranahan nhớ rõ ông chủ nhà ghé qua đúng bốn lần, mỗi lần chỉ ở lại vài ngày. Lần cuối ông ghé, Stranahan nom ông tái nhợt và hốc hác. Anh hỏi thăm tình trạng sức khỏe, ông cười rộ và rủ anh vật tay, ai thua phải mất cho người kia một triệu peso.
Nhưng chỉ vài ngày sau, đúng như anh lo, Stranahan thấy một chiếc tàu tuần tra ghé qua. Người ta thông báo văn sĩ đã qua đời và hòn đảo được bán cho Sở Lâm viên. Stranahan quyết định tiếp tục chăm nom căn nhà cho đến khi có lệnh giải tỏa chính thức.
Bầu bạn duy nhất với anh lúc này là một con Doberman, từng trôi dạt vào đây sau một cơn bão tháng Mười cách đây hai năm. Stranahan đoán con chó mém chết đuối này bị rơi khỏi thuyền của ai đó, nhưng chờ mãi chẳng ai đến nhận. Con chó không chỉ ngu mà còn lì, y hệt như một cái tường đất sét. Thế là anh đặt cho nó biệt danh Đầu Đất. Cũng như mọi con Doberman khác, Đầu Đất rất giỏi ở hai kỹ năng: sủa ỏm tỏi và sùi bọt mép. Phải chi nó đừng vụng về, mắt đừng kèm nhèm thì đã có thể tận dụng làm chó canh nhà. Thành ra Stranahan hay cột nó vào gốc cây dừa. Nếu không nó sẽ lao thẳng ra đê chắn sóng mỗi lần thấy thấp thoáng cái gì giống như một con tàu đi ngang.
Stranahan liếc nhìn con chó đầy thương cảm. Nó đang ngủ say sưa dưới gốc dừa. Ba con cá hồng ú núc đang quẫy đành đạch trong xô nhưng Đầu Đất tuyệt nhiên không nhổm dậy. Nó luôn tỏ thái độ thờ ơ trước hầu hết những hoạt động của chủ, từ câu cá cho đến mấy màn ái tình chớp nhoáng. Phụ nữ ghé lên đảo nó cũng chỉ hít hà mấy cái chiếu lệ. Cứ như thể nó biết mấy bà mấy cô này chỉ là dạng qua đường của ông chủ, nên khỏi làm thân mất công.
Mặc cho ý kiến của con chó, Mick Stranahan chẳng bao giờ coi mình là một kẻ lập dị hay một ẩn sĩ. Dù một gã đàn ông 53 tuổi, sống một mình trên đảo ở rìa Đại Tây Dương, không điện thoại, không chảo vệ tinh, không máy tính, thì nhìn kiểu gì cũng thấy bất thường. Phụ nữ nào đến đây cũng ở được tối đa vài tháng, trước khi sự yên bình và tĩnh lặng vô biên khiến họ phát điên. Stranahan buồn bã tiễn người đi, nhưng vậy vẫn tốt hơn là lấy họ làm vợ, như thói quen hồi còn ở đất liền.
Chưa biết gì nhiều về Joey Perrone, nhưng Stranahan phục lăn thể lực và sự điềm tĩnh của cô. Nhiều tay bơi sẽ bấn loạn hoặc rên rỉ không ngừng sau một đêm mù lòa trên biển. Nhưng Joey vẫn tỉnh táo và minh mẫn. Stranahan dự định sẽ để cô tĩnh tâm bình phục một thời gian, như cô yêu cầu. Nếu Joey thật sự bị mưu sát hụt như cô kể, anh hoàn toàn có thể chia sẻ được.
Nói là sẽ để yên, nhưng Stranahan cũng tò mò muốn biết thêm về Joey quá. Máu thanh tra trong người vẫn còn, anh muốn đặt ra hàng tá câu hỏi và đào sâu vụ án. Nhưng tiếng nói khôn ngoan trong đầu anh đã trỗi dậy. Nó đang bảo anh hãy mặc kệ bà Perrone, để cho cô và vấn đề của mình trở về đất liền cho rồi.
Để cảnh sát xịn người ta lo, mình nghỉ hưu rồi mà, Stranahan tự nhắc nhở mình trước khi gỡ một con cá khác ra khỏi móc câu.
Nghỉ hưu.
Sau chừng ấy năm, nghĩ đến từ này anh vẫn cảm thấy tào lao hết sức.
“Anh làm gì ở ngoài ấy vậy?” Joey hỏi.
“Ngoài nào cơ?”
“Ngoài đại dương ấy, trên con thuyền nhỏ của anh kìa.”
Stranahan nhúng từng miếng phi lê cá vào chén đựng trứng. “Thiệt ra đây cũng chẳng phải đại dương gì đâu. Nó cách Elliott Key có nửa dặm thôi. Lúc tìm thấy cô thì tôi đang đi tìm mấy con cá cháo.”
“Ý là nếu không gặp anh, thì tôi cũng sẽ dạt vào bờ ư.”
“Đúng rồi, kiểu gì cũng sẽ sống.”
“Nghĩa là không thể gọi đó là một màn giải cứu ư? Tôi lại đang thích thú với cái ý tưởng được giải cứu đấy.”
“Coi chừng cái lò kìa,” Stranahan nói.
Anh nhúng từng miếng phi lê đã ngâm trứng vào vụn bánh mì rồi cho lên chảo. Joey nghe tiếng mỡ nóng xèo xèo khi anh làm việc. Tám miếng tổng cộng, cô đếm và tự hỏi nhiêu đó có đủ không. Lần đầu tiên trong đời, cô thấy mình như chết đói.
“Kể chuyện cho tôi nghe đi, anh Mick. Kể những chuyện bí mật nhất cũng được, tôi hứa sẽ kín như bưng.”
“Trong người cô sao rồi? Mắt đã ổn hơn chưa?”
“Không biết nữa, chắc khi nào tháo cái bịt mắt này ra thì mới nói được.”
“Nó cũng chẳng phải đồ bịt mắt gì đâu. Thích thì tháo ra ngay cũng được.”
Anh đã cắt miếng vải ấy từ một cái khăn tắm, nhúng nó vào nước mát với dầu lô hội rồi cột lại nhẹ nhàng quanh chân mày trong lúc cô bất tỉnh. Một tiếng trước đó, Joey ráng đi lòng vòng quanh nhà và té ập mặt vô mớ đồ ăn chó, chút xíu nữa là trật mắt cá chân.
“Tôi chưa biết họ của anh,” cô nói.
“Stranahan.”
“Vậy thưa ông Stranahan, những lúc không vớt đàn bà ngoài khơi xa thì ông làm gì ạ?”
“Thực ra nó cũng không xa mấy. Chỗ tôi vớt cô sâu tầm sáu thước thôi.”
“Ơ, anh này kỳ ghê. Sao cứ nhăm nhe phá hủy chuyến phiêu lưu của tôi vậy,” Joey nói. “Nợ ơn cứu mạng trùm buôn lậu cần sa Jamaica đã quá oải rồi. Giờ anh bảo tôi chỉ còn cách bờ biển có năm phút khi anh thực hiện cuộc-tạm-gọi-là-giải-cứu nữa chớ.”
“Mới tuần trước, tôi thấy một con cá mập đầu búa dài bốn mét rưỡi ngay chỗ tôi vớt cô luôn. Thông tin này có khiến nó ly kỳ hơn chút nào không?”
“Anh nói chơi.”
Stranahan lắc đầu. “Nghiêm túc 100%. Lúc đó nó đang dùng món cá đuối cho bữa trưa.”
“Trời đất!”
“Cô muốn dùng sốt chanh hay sốt tartar?” Anh hỏi.
“Cả hai đi,” Joey hơi giật mình khi anh cầm lấy tay cô.
“Được rồi,” anh nói và dẫn cô ra cái bàn ăn kê trên sàn gỗ ngoài trời. Joey hơi chùn bước vì ánh sáng đột ngột. Anh bảo cô cứ nhắm mắt lại. Dẫu không thấy gì, cô vẫn dễ dàng tìm thấy thức ăn. Joey xử đẹp bốn miếng phi lê cá, ăn cùng hai bát đậu đen và cơm. Ăn xong, Stranahan mời cô chén một miếng bánh chanh và bia lạnh.
“Tôi chưa bao giờ ăn bữa nào ngon thế,” cô nói, vớ thêm một cái khăn ăn.
“Tôi thấy cô đã khỏe lại.”
“Tiếng gì kia, trực thăng hả anh?”
“Đúng rồi. Đội tuần duyên đó,” Stranahan nói, nhìn về phía chiếc đốm màu cam ở ngoài xa.
“Có khi họ đi tìm tôi đấy nhỉ,” Joey nói.
“Dám lắm.”
Cô bỗng nhấp nhổm không ngừng. “Hay mình vô trong đi anh?”
“Ủa sao vậy?”
“Mặt trời đang lặn phải không? Tôi đoán thế vì trời mát hẳn nè. Đẹp lắm phải không anh, cảnh hoàng hôn ấy?”
“Mặt trời xuống biển lúc nào cũng đẹp.”
“Ngày mai tháo khăn bịt mắt ra, tôi sẽ được nhìn thấy anh. Tôi đoán anh giống Clint Eastwood ở tuổi trung niên.”
“Vậy thì sẽ thất vọng não nề thôi.”
“Nhưng anh cao mà, đúng không,” Joey nói. “Anh bao nhiêu tuổi rồi? Gần 50 nhỉ?”
“Năm mấy rồi ấy chứ.”
“Tóc mai anh bạc hết rồi chớ?”
“Làm thêm tí bia nữa không?”
“Lát nữa đi,” Joey nói. “Đưa tay cho tôi mượn lại nhen.”
Stranahan cười to. “Thôi đi. Giờ thì nó toàn mùi cá.”
“Anh ăn bốc hả? Tôi thích thế.”
“Thói quen ăn uống của tôi đã xuống cấp dữ dội,” anh nói. “Chắc tại sống có một mình.”
“Anh có mấy đời vợ rồi? Hỏi vậy bất lịch sự quá, nhưng tại tôi có linh cảm vậy.”
“Sáu,” Stranahan nói. “Sáu lần.” Anh đứng dậy và bắt đầu dọn bàn.
“Chúa ơi, vậy mà tôi đoán có ba lần.”
“Thấy chưa, tôi nhiều điều bất ngờ lắm.”
“Sao mà cưới nhiều dữ vậy hả anh?” Joey hỏi. Nhưng anh đáp lời cô bằng một tiếng sập cửa cái rầm. Rồi cô nghe tiếng vòi nước chảy và tiếng anh rửa chén trong chậu. Khi Stranahan trở lại, cô xin lỗi anh.
“Xin lỗi chuyện gì cơ?” Anh nói.
“Tôi tọc mạch quá mà. Nghe anh đóng cửa, tôi đoán chừng anh giận.”
“Đâu, cái bản lề cũ quá đó mà,” anh nói rồi lại đặt một chai bia lạnh lên tay cô. “Nhưng cưới xin mà tới sáu lần thì cũng chẳng có gì để khoe.”
“Ít ra thì không có ai định giết anh,” Joey nói.
“Một người cũng mém giết tôi đó chớ.”
“Thiệt hả? Rồi cổ có ở tù không?”
“Không. Người chết không ở tù.”
Hơi thở của Joey như nghẹn lại trong cổ họng. Cô uống một ngụm bia lớn để nuốt nó xuống.
Stranahan nói: “Thư giãn đi cưng. Tôi có giết người ta đâu.”
“Mà cô ấy là ai?”
“Khi mới quen á hả? Cổ làm phục vụ, y hệt mấy cô kia.”
Joey kiềm không nổi bèn cười khúc khích. “Anh cưới sáu cô bồi bàn lận hả?”
“Thực ra là năm thôi. Vì cô cuối làm bên đài truyền hình.”
“Trời ơi, anh Mick.”
“Thiệt ra ban đầu cô nào cũng tuyệt vời hết. Hôn nhân sau đó đổ bể thường là do tôi cả.”
“Nhưng cũng… Vừa vừa thôi chứ. Gì mà cưới đến người thứ sáu mới chịu.”
“Tôi có nghĩ ngợi gì đâu,” Stranahan nói. “Yêu đương mà tính toán gì. Bộ cô khác sao?”
Joey Perrone ngả người ra sau, xoay gương mặt băng bó của mình về phía ánh sáng đang dần mờ đi. “Ráng chiều đỏ nhuận chắc đẹp lắm. Trời ơi, đeo cái bịt mắt này hẳn là nhìn tôi phát gớm.”
“Chaz là chồng đầu hả?”
“Chồng hai đó chứ. Chồng đầu của tôi qua đời,” rồi cô thêm vô liền. “Do tai nạn.”
“Trời.”
“Ảnh là dân chơi chứng khoán. Còn Chaz là dân sinh vật.”
Stranahan nói: “Lũ muỗi kéo tới rồi kìa. Thôi vào trong kẻo nó xực cho.”
“Buồn cười hen, mãi đến khi khóc, mắt tôi mới thấy đau. Giá như tôi có thể ngưng được.”
“Thôi nào, nắm tay tôi dẫn vào.”
“Không. Tôi thích ngoài trời. Bọn muỗi mòng chẳng thèm chích tôi đâu,” Joey khịt mũi ngang bướng. “Mà không phải tôi đang khóc vì thằng khốn Chaz Perrone. 99% là tôi đã hết yêu hắn rồi.”
Stranahan không nói gì. Anh là chuyên gia của những mối quan hệ chết dần, sự trống rỗng xâm chiếm cho đến khi một trong hai người chịu hết nổi.
“Nhưng Chaz lại dám làm thế với tôi,” cô nói, chỉ tay về mặt biển. “Nó khiến tôi uất nghẹn. Anh không hiểu cảm giác ấy đâu.”
Có, tôi hiểu chứ, Stranahan nghĩ. Nhưng câu hỏi cứ treo lơ lửng trong đầu, nên anh bèn hỏi: “Vậy sao cô khóc?”
“Chắc tại tôi thấy đời mình sao lạ kỳ. Bao nhiêu năm trời vật vã để rồi dẫn tới giây phút này, nơi chốn này, cái tình trạng hôi hám, te tua này,” cô vung tay giận dữ. “Không có ý xúc phạm anh đâu Mick, nhưng tôi nào dám ngờ mắt tôi sẽ mù dở, thân tôi hoang tàn trên một hòn đảo hoang với một người hoàn toàn xa lạ. Tôi đâu ngờ mình sẽ bước vào tuổi băm theo kiểu này.”
“Rồi mọi chuyện sẽ ổn mà.”
“Ổn sao? Sau khi thằng chồng chó má, xin lỗi tôi nói bậy, ném mình khỏi boong tàu vào đúng kỷ niệm ngày cưới. Làm sao một người phụ nữ có thể bước qua cú sốc đó đây? Làm sao có thể quên đây?”
Stranahan nói: “Nhìn nó tra tay vào còng có khi sẽ đỡ hơn đó. Sao không để tôi gọi cảnh sát gô cổ nó cho rồi?”
Joey lắc đầu nguầy nguậy, mạnh đến mức khăn bịt mắt suýt nữa rơi xuống. “Rồi người ta sẽ mang nó ra tòa, anh Mick. Mà ra tòa là cực hình với tôi. Lời khai của tôi sẽ khác hoàn toàn của nó. Nó sẽ nói tôi say rượu, trượt chân và rơi khỏi tàu. Nó đã nói thế với đội Tuần duyên, dám chắc luôn. Bốn năm trước, lúc còn ở Daytona, tôi từng bị phạt lái xe khi đã uống rượu. Luật sư của Chaz sẽ đào ra vụ này trong hai nốt nhạc. Xin mời bước lên bục, thưa bà Perrone. Phiền bà kể lại cho tòa nghe vụ bạn trai của bà là vận động viên tennis đá bà vì một cô người mẫu áo tắm. Rồi bà đậu xe giữa đường A1A, ngủ ngon lành sau khi đã nốc một chai rượu chát…”
“Nào nào, bình tĩnh lại.”
“Nhưng tôi đúng, phải không? Nó sẽ đấu tới cùng.”
Stranahan đồng ý là trên tòa thì mọi thứ sẽ lộn tùng phèo. “Xin lỗi vì hơi tò mò, nhưng vụ này có dính dáng gì tới tiền không? Cô chết rồi Chaz nó có giàu lên không?”
“Không.”
“Tiền bảo hiểm chẳng lẽ nó cũng chẳng được nhận?”
“Theo tôi biết là không,” Joey nói. “Bởi vậy tôi mới… tôi mới sốc chứ. Chẳng có lý do gì hắn xuống tay với tôi cả. Muốn ly dị thì hắn chỉ cần nói thôi mà.”
Joey hỏi nếu là mình thì Stranahan sẽ làm gì. Anh đáp: “Đầu tiên là tháo cái nhẫn cưới.” Joey ngượng ngùng tháo chiếc nhẫn bạch kim trên tay rồi cầm nó. “Rồi, sao nữa?”
“Rồi đi thẳng tới cảnh sát chớ sao,” Stranahan nói, tự hỏi trong đầu cô còn có phương án nào khác. Nhưng anh không hỏi, vì một cơn gió nhẹ dường như đã thổi bay cơn giận của Joey.
“Cô đang mỉm cười kìa. Coi bộ có tiến triển.”
“Vì nó ướt và nhột quá.”
“Hả, cái gì nhột?”
“Mick, con chó của anh đúng không?”
Stranahan cúi xuống bàn. “Đầu Đất, mày hư dữ vậy,” anh nói, rồi giơ tay túm vòng đeo cổ của con Doberman.
“Tôi nghĩ nó thích mình rồi,” Joey nói, rồi cười chua chát. “Mới đầu ai cũng thích tôi cả.”
Thanh tra Karl Rolvaag chỉ hợp sống ở miền Trung Tây. Anh biết rõ như vậy và ngày nào đi làm cũng được nhắc nhở về điều đó. Bất kỳ nơi đâu ở phía thượng Trung Tây Hoa Kỳ cũng ổn: Michigan, Wisconsin, Minnesota hay thậm chí là hai bang Dakota. Tội ác ở đó chân phương và rõ ràng: không từ lòng tham, dục vọng thì cũng do rượu mà ra. Florida thì phức tạp và cực đoan hơn nhiều, không thể vội vàng đưa ra phán đoán. Mọi âm mưu ghê tởm nhất nước Mỹ sớm hay muộn cũng kéo về đây, làm như chỗ này… hợp phong thủy.
“Tôi chẳng quan tâm mấy về ông Perrone,” Rolvaag báo cáo lại với thủ trưởng.
“Xong rồi à?”
Đội trưởng tên Gallo. Ông thích người cấp dưới vì Rolvaag quả rất được việc, chuyên xử mấy vụ khó nhai nên làm sếp cũng được tiếng thơm. Nhưng về giao tiếp xã hội thì chán thôi rồi.
“Anh nghi thằng cha ấy giết vợ à?” Gallo hỏi. “Coi mòi tìm chứng cớ không ra.”
Rolvaag rụt vai. “Tôi đã nói là không quan tâm đến gã nữa, sếp à.”
Họ đang ngồi uống cà phê ở trạm nghỉ dừng xe tải trên Đường 84. Cũng gần nửa đêm rồi và Rolvaag đang muốn phi ra xe để xem lũ chuột có xổng thoát bên trong hay không.
“Người vợ xấu số ấy,” Gallo vẫn hỏi thêm, “Để lại bao nhiều tiền?”
“Trên dưới 13 triệu. Văn phòng ở quỹ tín thác đang xác định con số.”
“Nhưng thằng chồng thì chẳng rớ nổi một xu nào, đúng không? Ngay cả bảo hiểm nhân thọ cũng không?” Gallo hỏi.
“Theo như thông tin tôi có từ đầu tới giờ là thế, nhưng vẫn còn sớm để kết luận điều gì.”
“Nếu nó mà hót láo với mình thì nó chết chắc.”
“Đúng rồi,” Rolvaag đáp, lén nhìn đồng hồ. Viên thanh tra đã rời cửa hàng thú cưng được sáu tiếng, hy vọng lũ chuột chưa kịp khoét một cái lỗ từ trong hộp đựng giày.
“Nhà vợ có nói gì về Chaz không?” Gallo hỏi tiếp.
“Bố mẹ bà Perrone mất cả rồi, người anh trai duy nhất thì sống ở trại cừu mãi tận New Zealand.”
Gallo cau mày. “Chúa ơi, thế thì chết tiền điện thoại đường dài. Anh có gọi điều tra thì ngắn gọn rốp rẻng dùm.”
“Biết dzồi, ” Rolvaag thỉnh thoảng vẫn nhại kiểu đối thoại trong phim Fargo khi tay sếp nói gì đó ngớ ngẩn. Viên thanh tra đã chuyển nơi ở từ St. Paul đến Fort Lauderdale chỉ vì bà vợ nổi hứng bất tử muốn trải nghiệm khí hậu ẩm ướt. Sau một thập kỷ, bà vợ ly dị chồng rồi trở về Twin Cities, Rolvaag vẫn ở lại Florida, đổ mồ hôi như tắm suốt 11 tháng rưỡi hàng năm.
Nhưng bây giờ, Rolvaag hy vọng tìm thấy một sự cứu rỗi. Trong cặp táp là một lá thư từ Cảnh sát trưởng Edina, Minnesota - một vùng ngoại ô dễ chịu thuộc Minneapolis. Vị này muốn mời Rolvaag về nhận mảng trọng án, mà ở đó thì lâu lâu mới có một vụ. Anh đã định báo tin này với sếp Gallo ngay khi có cơ hội.
“Tôi đồ rằng không ai trên tàu nghe hay thấy gì cả đúng không?” Gallo lại hỏi. “Cô gái đẹp cứ thế đi lại trên boong trong lúc mọi người đang ngủ.”
Tuyệt không một chút mỉa mai, Rolvaag nghiêm túc nói cho sếp nghe là mình không có đủ thời gian để thẩm vấn toàn bộ 2.048 du khách trên tàu. “Cũng không thấy ai tình nguyện khai báo gì luôn,” anh nói thêm.
Gallo xoay chùm chìa khóa trên ngón út của bàn tay phải. “Và đội cứu hộ nữa, họ cũng xong việc rồi chớ?”
“Chiều mai là xong rồi. Họ sẽ ráng giữ trực thăng ngoài đó cho đến khi mặt trời lặn, nhưng chỉ là thủ tục thôi. Chứ khó mà tìm được gì hơn,” Rolvaag nói.
“Gã chồng thì sao, có tức giận hay lộ ra cảm xúc gì không?”
“Nói năng cực kỳ chuẩn mực, cứ như từ kịch bản viết ra.”
Gallo mỉm cười gian giảo. “Karl này, ngay cả khi cô ta có nổi lên ở đâu đó…”
“Sếp khỏi nói, tôi biết.”
“Thì anh cũng phải tìm cho ra vết xiết cổ hay vết trói thì mới…”
“Rõ ràng. Chúng ta rất khó chứng minh gã có tội.”
“Gã có bồ nhí chăng?”
“Tôi đang rình vụ đó.”
“Nhưng ngay cả khi gã có bồ đi nữa…”
“… thì cũng không thể chứng minh được là gã đã giết vợ,” Rolvaag chen vào. Anh quá rành cái tính trăng hoa của sếp Gallo, dám ông ta phần nào thông cảm cho kẻ bội bạc.
“Tôi thấy rõ mồn một là anh không tin gã Perrone này,” Gallo nói.
“Tôi tin là mình chưa nhìn được toàn cảnh vụ hôn nhân của gã.”
Gallo phá ra cười. “Karl, ông nội anh cũng không nhìn được đâu. Đừng nói là của gã, mà là của mọi thằng đàn ông trên đời, kể cả… chính anh luôn.”
“Nhưng vợ của sếp đâu có bị mất tích trên biển.”
“Cậu có vẻ khó chịu vụ này nhỉ? Tôi thấy nó lồ lộ trên gương mặt cậu.”
Rolvaag cố rặn ra một nụ cười. “Cũng chỉ là một vụ, như bao vụ khác thôi,” anh nói, dù không thật sự cảm thấy như vậy.
“Anh còn nuôi mấy con trăn chà bá ở nhà chớ,” sếp Gallo hỏi.
“Còn hai con à. Mà mỗi con dài có hai mét chứ nhiêu.”
“Và anh vẫn cho tụi nó xơi chuột sống?”
“Chứ nó chịu ăn thịt xào thì tôi đỡ rồi sếp.”
“Ban quản lý chung cư chưa đuổi cổ cậu đi kể cũng tài.”
“Họ hăm miết đó chớ.”
Đa số hàng xóm cùng chung cư với Rolvaag đều có nuôi chó nhỏ. Họ lúc nào cũng nơm nớp thú cưng của Rolvaag xổng chuồng. Vì nuôi hai con trăn, Rolvaag đã phải nộp phạt hơn 6.000 đô.
“Chúa ơi, tụi nó là bò sát đó. Sao không ném phứt đi cho rồi?”
“Tôi thích tụi nó.”
“Nhưng quan trọng hơn là tụi nó có thích cậu không?”
“Bọn tôi vẫn đang hòa hợp mà sếp. Tôi cho chúng thức ăn và chỗ ở, chúng trao cho tôi sự hờ hững vô điều kiện.”
Gallo bảo ông ta biết một vũ công ngực trần ở Oakland Park sẵn sàng nhận nuôi mấy con mãng xà để phục vụ cho tiết mục biểu diễn. “Cho cổ đi. Ở đó tụi nó sẽ có một mái nhà lý tưởng. Mái nhà tất cả chúng ta đều mơ ước.”
“Thôi khỏi, cám ơn sếp,” Rolvaag đã đứng dậy. “Tôi phải đi thôi, kẻo lũ chuột xổng ra và cạp nát đống dây nhợ trong xe tôi.”
“Cậu quả là tên cứng đầu,” Gallo hỉ hả. “Thôi chốt vụ Perrone trước thứ Sáu nhé.”
“Gì mà thứ Sáu?”
“Karl nè, đâu phải lúc nào mọi thứ cũng trôi chảy. Thỉnh thoảng phải chấp nhận là mình không thể làm gì thêm.”
Đặc biệt là trong vỏn vẹn có sáu ngày, Rolvaag bực dọc nghĩ. Anh nói: “Chồng cô ta có nói một chi tiết mà tôi cho là quan trọng: cô ta là ngôi sao bơi lội hồi học đại học.”
“OK, thì sao. Trường đại học có dạy môn bơi giữa đại dương hay bơi cùng cá mập luôn hả? Thứ Sáu là thứ Sáu, Karl. Anh cứ để ngỏ vụ án, nhưng nhét nó dưới đáy chồng hồ sơ hộ tôi.”
“Được dzồi. ”
Sau đó, khi lên xe đi về cùng lũ chuột, Rolvaag mới sực nhớ là mình quên nói vụ lá thư. Anh tự trách mình sao không nói với Gallo cho xong. Ba vụ giấy tờ thuyên chuyển công tác này mất thời gian phết.
Thôi thứ Hai mình làm liền, viên thanh tra thề thốt. Anh muốn trốn khỏi cái nóng hầm hập như trong nồi áp suất này để quay về Minnesota. Muốn lắm luôn.