CHƯƠNG 5
Charles Regis Perrone trở thành nhà sinh vật học vì hoàn toàn không có lựa chọn khác.
Ban đầu nó muốn làm bác sĩ, xác định theo khoa X-Quang cho nhàn. Chaz mê mẩn bổng lộc của ngành y, nhưng vốn là người mắc bệnh tưởng trầm trọng, viễn cảnh phải tiếp xúc hằng ngày với người bệnh làm nó nổi gai ốc. Nghiên cứu mấy tấm phim X-Quang trong phòng sạch sẽ vô trùng sẽ giải quyết việc ấy, lại còn dư dả thời gian để đi chơi bời nữa.
Kế hoạch hoành tráng ấy gặp trở ngại vì chính thói hiếu dâm của nó. Suốt mấy năm sơ cấp, Chaz chi tiền mua bao cao su nhiều hơn sách chuyên ngành. Hậu quả là với điểm GPA có 2.1, không ban nào trong đại học Florida dám chứa. Ngành y càng không đời nào nhận sinh viên loại C. Nhưng Chaz cũng chẳng lấy làm phiền muộn. Nó tự nhủ: làm bác sĩ bận chết, thời gian đâu mà giao lưu xã hội. Ta phải làm giàu cách khác.
Trong lúc chờ đợi, nó đã bước vào đời với gương mặt bô trai, khả năng chịch vô độ và tấm bằng cử nhân của cái ngành bất đắc dĩ: sinh vật học. Ba tháng sau khi tốt nghiệp, nó miễn cưỡng dọn tới ăn nhờ ở đậu nhà mẹ. Lúc này, bà mẹ đã đi thêm bước nữa với một cựu phi công RAF tên Roger. Tay này rất thích hành hạ Chaz với những trò quái đản. Chẳng hạn cứ mỗi lần Chaz vào nhà tắm quay tay (một ngày chừng chục lần chứ mấy), thằng cha dượng lại mở bài Irish Rover to hết cỡ, đập cửa rồi cất cái giọng nam cao quái đản: “Quay đều, quay đều!”
Kiếp ở nhờ ê chề là thế, nhưng thất nghiệp mà, Chaz còn biết đi đâu. Nó cũng ứng tuyển chỗ này chỗ kia nhưng chỉ duy nhất một nơi tỏ ra hứng thú: Hội Nhân đạo quận Bay. Chỗ này đang tuyển người làm sạch cống rãnh hai lần một ngày.
Rồi Chaz dần nhận ra: chỉ có một thứ mới cứu mình thoát khỏi cuộc đời của một người làm công ăn lương hạng bét: tấm bằng thạc sĩ. Vì thế nó quyết định mua ngay một cái. Ở Colorado có nguyên đường dây làm bằng giả. Người đăng ký sẽ theo học một khóa đào tạo tám tuần bao đậu với chi phí 999 đô la. Tiền này tất nhiên Chaz phải mặt dày xin mẹ. Luận văn thạc sĩ chỉ cần có dính tới sinh vật học, kèm thêm một ràng buộc nữa: phải giãn hàng đôi giữa các dòng. Chaz bỏ ra tận một buổi chiều tại siêu thị địa phương để lấy tư liệu làm luận văn, nhan đề: “So sánh và phân tích những loại trái cây cuối vụ: cam, bưởi hồng và quýt lai.”
Mười ngày sau khi gửi công trình nghiên cứu của mình đi, đính kèm một tấm séc xác nhận chuyển khoản ngay trang bìa, Chaz nhận được phản hồi. Thư thông báo “trung tâm đào tạo” đã bị đóng cửa, tước giấy phép, văn phòng bên trong một trung tâm thương mại cũng bị yêu cầu tháo dỡ ngay tức khắc.
Chaz chấp nhận sự thật đau lòng: muốn có bằng thạc sĩ thì đành phải trở lại trường. Nhìn thằng con sống bám, bà mẹ cũng nản, chưa kể mấy phen té chổng gọng vì đống tạp chí khiêu dâm của nó. Bà quyết định gây áp lực lên một người em họ, vốn là giảng viên của Đại học Khoa học Khí quyển và Hàng hải Rosenstiel ở Miami. Dù điểm GRE của Chaz tệ chẳng thua gì bảng điểm, nhưng nhờ “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, nó cũng được nhận vào chương trình thạc sĩ của trường.
Thế là chàng nghiên cứu sinh hăm hở nhập học tại trường Rosenstiel ở Virginia Key. Nó đã hào hứng vẽ lên viễn cảnh nằm dài trên du thuyền, quan sát bọn cá heo đáng yêu. Một tay cầm ống nhòm, tay kia cầm một ly margarita mát lạnh.
Nhưng đời không như là mơ. Nếu chịu khó đọc chương trình đào tạo, có lẽ nó đã không sốc đến thế trước sự buồn tẻ kinh hoàng của ngành sinh vật học. Bài tập đầu tiên cho Chaz là hỗ trợ một vị Tiến sĩ tương lai nghiên cứu về rận biển, một trải nghiệm càng củng cố thêm lòng căm ghét của nó dành cho mọi chủng loài thiên nhiên, từ lớn đến bé.
Một trong những nhiệm vụ của Chaz là thu thập các loài tảo dại mang những hạt nhỏ trên người. Những hạt này không phải chấy rận, mà là ấu trùng của loài sứa Linuche unguiculata . Chaz không ưa gì thiên nhiên và thiên nhiên có lẽ cũng thế. Mới được hai ngày, thứ ấu trùng ấy lọt vào áo lặn và khiến toàn bộ thân trên của nó mưng mủ, ngứa ngáy. Những loại nước hoa rẻ tiền mà nó xức lên người càng góp phần làm tình hình thêm tệ. Trước khi học kỳ 1 kết thúc, Chaz trông tơi tả như vừa được lôi ra từ đám cháy ở giàn khoan. Nó nói với giảng viên hướng dẫn: lý do duy nhất loài người nghiên cứu về rận biển là để tìm ra thứ thuốc độc để có thể quét sạch chúng khỏi hành tinh.
Chaz rõ ràng không có chút năng lực hay sự thích thú cần thiết cho việc nghiên cứu khoa học. Tệ hơn, nó cũng đếch thèm quan tâm tới những giống loài thấp kém. Gã nghiên cứu sinh ôm mớ kiến thức lộn xộn của mình qua từng học phần, học gạo vừa đủ để không bị đánh rớt. Nhưng ngoài thực địa thì chuyện ăn gian là không thể. Công việc diễn ra trong tiết trời oi ả, lặp đi lặp lại và vô cùng cực nhọc. Cứ mỗi lần nó hỏi “chừng nào mới đi ngắm cá heo” là y như rằng đều bị sai đi vớt tảo biển.
Không vì mối quan hệ gia đình, Chaz đã bị tống cổ ra đường từ lâu. Nó được chuyển sang một đề tài khác ít phải va chạm với thiên nhiên hơn, ấy là nghiên cứu chu kỳ sinh sản của loài cá bắt muỗi. Sau hai năm ảm đạm quanh những bể cá, rốt cục Chaz cũng “vớt” được tấm bằng thạc sĩ chuyên ngành hải dương học. Hôm tốt nghiệp, cả trường Rosenstiel nhất loạt đứng dậy vỗ tay nhiệt liệt khi Chaz lên bục nhận bằng. Ai nấy đều vui, vì từ đây không phải nhìn thấy bản mặt của nó nữa.
Tấm bằng còn chưa ráo mực, Chaz đã có việc làm tức thì. Công việc này không cần kiến thức về hải dương học, cũng chẳng màng tới điểm số lè tè của nó. Một công ty mỹ phẩm danh tiếng đang tìm một gương mặt có bằng cấp để về làm đại diện. Đây là loại công việc mà các nhà sinh vật học chân chính khinh bỉ vô cùng. Vị đại diện ấy chẳng phải làm gì ngoài việc chứng nhận trong các sản phẩm nước hoa có chứa hàm lượng chất độc, acetone và carcinogen trong mức cho phép. Phía công ty này rất ấn tượng với dáng vẻ chải chuốt đẹp trai của Chaz. Đây sẽ là một vũ khí giúp nhãn hàng gia tăng uy tín, nhất là để lôi kéo thêm những khách hàng nữ.
Chaz được mời đến làm tại văn phòng công ty ở Jacksonville. Ở đó nó có phòng làm việc riêng, cùng một phòng thí nghiệm nhỏ với khởi điểm là một trăm con chuột bạch. Lâu lâu nó được giao nhiệm vụ xịt lên người lũ chuột những lọ Blue Passion, Shiver hoặc bất kỳ dòng sản phẩm nước hoa nào chuẩn bị tung ra thị trường. Thỉnh thoảng lũ chuột cũng dị ứng và nổi mấy cục u to như trái quất. Chaz giải quyết vấn đề cấp kỳ, lấy vỉ kẹp thịt nướng cố định con “quái vật” và ném nó xuống cái cống phía sau tòa nhà. Đôi bàn tay sạch như lau như ly của Charles Regis Perrone không bao giờ động vào mấy sinh vật bệnh tật, nhất là với mức lương rẻ mạt ba mươi tám ngàn đô mỗi năm.
Rồi một buổi sáng kia, trong lúc Chaz cắt giấy báo để lót lồng chuột, tình cờ đập vào mắt nó một bài báo sẽ giúp nó đổi đời. Bài có nhan đề: “QUỐC HỘI CÂN NHẮC CHI 8 TỶ ĐÔ LA CHO KẾ HOẠCH KHÔI PHỤC HỆ SINH THÁI EVERGLADES.”
Một món hời rớt thẳng vào cuộc đời Chaz. Với tinh thần hăm hở chắc hẳn sẽ làm các giáo sư ở trường cũ lé mắt, nó lao vào một chiến dịch nghiên cứu đầy tham vọng và rốt cuộc bắt liên lạc được với một người tên là Samuel Johnson Hammernut, thường được bạn bè lẫn kẻ thù biết đến với biệt danh “Red”.
Chaz đã biết đến cái tên Hammernut từ trước, thông qua mấy tờ báo mà nó cắt để lót lồng chuột. Trong những bài viết ấy, Hammernut hiện lên như một hung thần với chính đồng loại của mình, đặc biệt là những nông dân nhập cư. Và gã cũng là kẻ thù của chính hành tinh này nốt. Ban đầu, Hammernut “Red” khá e dè trước đề nghị táo bạo của Chaz, nhưng rồi chúng kết thân với nhau rất nhanh. Và bây giờ, chính gã đang gọi điện đến khách sạn Marriott cho Chaz lúc 3 giờ sáng.
“Nói to lên, tao chẳng nghe gì hết!” Hammernut gào lên, không biết gã đang ở đâu mà nghe ù ù như trong ống dẫn gió của NASA.
Chaz nhìn cái đồng hồ điện tử: “Anh đang ở đâu mà ồn vậy?”
“Châu Phi chớ đâu, chú mày quên à?”
Hammernut “Red” đang trên đường săn lùng con cá cháo to kỷ lục thế giới. Gã gọi điện cho Chaz bằng điện thoại vệ tinh trên con tàu mẹ đang neo đâu đó gần bờ biển Gabon. Gã hỏi tiếp: “Thế vụ Joey là sao? Lũ báo đài nói đúng không?”
Chaz ngồi dậy, đột ngột cảnh giác: “Thật vậy đó, Red à. Hai vợ chồng em đang yên lành thì vợ em… chắc nó rơi khỏi thuyền. Người ta tìm mãi chẳng thấy tăm hơi gì.”
“Đù má.”
“Mà sao anh biết?”
“Đọc trên báo Fort Lauderdale. Lisbeth nó fax cho tao.”
“Ý em là sao anh biết em ở đây mà gọi?”
“Tao gọi con phóng viên viết bài rồi bảo tao là chú của mày. Ha ha ha!”
“Ồ.”
Chaz hiểu ra cuộc gọi này chẳng phải để cảm thông hay chia sẻ gì đâu. Hammernut “Red” mà có lòng trắc ẩn chắc trời sập. Gã chỉ hóng chuyện và nhắc khéo Chaz về trách nhiệm lớn lao của nó.
“Em không biết Joey nó bị sao nữa,” Chaz dụng ngôn cẩn trọng, vì sợ Thanh tra Rolvaag đang nghe lén phôn của khách sạn. “Nửa đêm Joey nổi hứng lên boong tàu rồi không quay lại nữa. Không có ai nhìn thấy cổ rơi xuống biển, nhưng mọi giả thiết đều khẳng định như vậy.”
“Thì chỉ có vậy thôi, chứ vợ mày còn đi đâu được nữa?” Tiếng Hammernut méo mó trong điện thoại. “Sao mà khốn nạn thế. Thật khốn nạn mà. Ê cu nói tao nghe coi, người ta còn đang tìm vợ mày không? Cái lũ tuần duyên ấy.”
“Họ vẫn đang tìm đó, nhưng tới trưa mai thì ngừng.”
“Trời má, kỳ vậy!”
Chaz có thể hình dung ra dáng vóc của “Red” ngay lúc này: thân hình mập mạp lùn chủn chễm chệ trong cabin du thuyền, tay vỗ nhẹ vào cái cốc đựng Jack Daniel’s. Cặp giò tròn lẳn như đùi heo lấm chấm tàn nhang chắc đang đỏ tấy lên vì phơi nắng. Mái tóc thưa chẻ ngôi màu đồng hẳn đã xơ xác vì gió biển. Còn đôi mắt lác chắc đang được tô điểm thêm hai vòng tròn trắng ởn vì hằn vết cặp kiếng bơi quá khổ, nhìn xa nom y hệt con vượn cáo.
“Chú mày cần gì cứ nói tao một tiếng nha Chaz,” Hammernut nói. “Tao có thể cử sáu chiếc trực thăng ngay sáng sớm mai. Tụi mình tự tổ chức tìm kiếm và cứu hộ luôn.”
Tự dưng Chaz đâm lo, không biết “Red” đã nốc mấy chai rồi. Nó đáp lại: “Anh nghĩa hiệp quá. Nhưng họ đã quần nát bờ biển cả chục bận rồi, có tăm hơi gì của Joey thì họ phải biết chớ. Chỗ đó lại toàn cá mập không.”
“Bỏ mẹ,” Hammernut “Red” giật mình. “Mày nghe tiếng gì không?”
“Dạ có.”
“Gió giật như trúng thuốc, cỡ ba mươi hải lý chứ không ít.”
“Anh cẩn thận nha.”
“Ủa mà cu, sao mày không hỏi tình hình câu cá của tao thế nào?”
“Ừ nhỉ, câu tốt không anh?” Chaz cảm giác mình nên kết thúc cuộc nói chuyện thật sớm, trước khi “Red” kịp nhớ ra vụ kia.
“Tốt mẹ gì, đen đéo đỡ được. Bốn ngày trời mà tụi tao chẳng câu nổi một con nào trên 45 ký. Mày là nhà khoa học biển, mày nói tao nghe coi chớ mấy con cá lớn đi đâu cả rồi?”
Chaz biết gì đâu. Nó trả lời đại: “Chắc đang mùa đẻ trứng.”
Hammernut cười rú lên như bị chọc tiết: “Đẻ đái gì mày! Đừng nói với tao là người ta đào tạo Tiến sĩ ra chỉ để giải thích vớ vẩn vậy nha. Bằng Tiến sĩ đó tao mua cũng được à.”
“Có phải chuyên môn nghiên cứu của em đâu,” Chaz cố giấu sự khó chịu.
“Cái gì không phải chuyên môn nghiên cứu?”
“Mấy vụ cá di cư này nè.”
Hammernut lại cười hô hố: “Mẹ nó, mày biết thì đỡ quá. Chuyến này ngốn của tao tới ba ngàn một ngày đó.”
Vậy thì mày chỉ nên câu cá rô hay cá trê thôi, Chaz muốn nói toẹt ra cho rồi. Hammernut chỉ vừa nghiện môn câu cá thể thao này ba tháng trở lại đây.
“Không chừng ngày mai hên hơn đó,” Chaz xoa dịu, nhưng thằng khốn kia vẫn chưa chịu kết thúc câu chuyện.
“Tao nghĩ là chú mày sẽ rành về cá mập hơn là cá cháo,” gã nói. “Mày hiểu ý tao không?”
Thằng khốn này ghê tởm thật, Chaz nghĩ, dám lôi cái chết của vợ mình ra đùa.
“Hình như mất sóng rồi hay sao ấy,” Chaz hét vào ống nghe. “Anh bảo trọng, khi nào về rồi nói chuyện tiếp.”
“Ừ, chắc rồi,” Hammernut nói. “Mà nè, tao chia buồn vụ vợ mày nhé. Cú này ám ảnh thiệt.”
Tên vô lại đang hạ giọng thương tiếc, nhưng Chaz không tin lấy nửa lời. Gã này có trái tim của một con bọ cạp.
“Mà mày cũng cẩn thận là vừa,” Red nói thêm, trong giọng đã có mùi cảnh báo. “Mày hiểu ý tao đúng không? Tuyệt đối cẩn thận nghe chưa. Nghe lủng chưa?”
“Lủng rồi, Red à!”
Joey Perrone tỉnh giấc lúc mặt trời còn chưa lên. Cô gỡ miếng gạc băng mắt. Mí còn sưng to do vết cắn của con sứa biển, nhưng đã có thể nhìn mọi thứ rõ ràng rồi. Cô nhẹ nhàng vào phòng tắm, cố lờ đi bộ dạng lôi thôi lếch thếch của người phụ nữ trong gương.
Tối qua, cô đi ngủ với chiếc áo thi đấu của trường Stanford to quá cỡ, cùng cái quần chạy bộ màu trắng vốn là của cái cô làm bên truyền hình, một trong những người vợ cũ của Mick Stranahan. Joey hỏi cuộc hôn nhân này kéo dài bao lâu, Mick bảo: “Còn tùy là cô hỏi về phía người nào.”
Joey rửa mặt chậm rãi, ráng súc miệng mà không gây ra tiếng động nào. Rồi cô quờ quạng trong hộp đồ trang điểm và tìm thấy sợi dây thun buộc tóc. Stranahan nằm dài trên sofa phòng khách. Joey rón rén đi tới chỗ anh, rồi đánh bạo cúi xuống nhìn cho tạng mặt. Trong ánh sáng lờ mờ, cô đã kịp nhìn thấy diện mạo anh và mỉm cười.
Cũng được quá chớ, cô nghĩ, mình biết mà.
Cô dừng lại ở bếp, vớ lấy hai quả táo và một quả chuối chín. Lẻn ra cửa sau, cô đóng cánh cửa lại nhẹ nhàng hết cỡ. Đầu Đất ngẩng đầu nhìn theo khi cô đi chân không ra ngoài bờ cảng. Joey vuốt cái mõm của nó rồi thì thào: “Cưng đẹp mã lắm, chó ngoan. Một ngày nào đó ông chủ khó ưa sẽ tìm bạn gái cho cưng.”
Lúc trèo lên thuyền, Joey đã thoáng nghĩ: Mình cũng vô ơn thiệt, ít ra cũng phải để lại vài dòng.
Nhưng nghĩ thế thôi, vì cô tháo dây cột và đẩy thuyền khỏi bờ. Khi con thuyền nhẹ nhàng trôi đi, Joey ngồi xuống sau bánh lái, lột vỏ trái chuối mang theo và chờ đợi. Chưa thể nổ máy ngay được, Stranahan sẽ giật mình thức dậy mất và cô thì đang cảm thấy tội lỗi ngập lòng.
Điện thoại của Stranahan vẫn đang cắm sạc trong khoang điều khiển. Vậy là anh không thể gọi cảnh sát khi phát hiện cả thuyền lẫn người đều đã mất tích. Một lần nữa Joey cảm thấy hối hận, nhưng cô rất cần thời gian để thực hiện những việc cần làm trước khi Mick đánh động mọi người.
Khi con thuyền trôi dần xa, Joey đã ăn hết quả chuối và đặt vỏ dưới ghế ngồi. Ở đuôi tàu có một cái bóng mồi xăng. Cô bóp nó cho đến khi nó cứng lại trong nắm tay cô. Joey cũng có chút kiến thức về thuyền bè. Mấy năm trước cô từng dạy chồng đầu của mình chơi trượt nước. Hai đứa đã mua một chiếc Aquasport 150 mã lực của Yamaha.
Con thuyền Evinrude già nua của Stranahan cũng chịu nổ máy sau lần thử thứ ba. Cô nhích cái van bướm về phía trước và ngoái đầu nhìn lại cảnh vật sau lưng. Chưa thấy bóng dáng Mick nhưng con Doberman thì đang ngó theo từ đuôi tàu, tai vểnh cao và mông lắc liên tục ra chiều háo hức. Cô vẫy tay chào nó rồi lái thuyền về hướng Miami.
“Nữa hả trời,” Stranahan lầm bầm, rồi co chân đá một quả dừa trên cát.
Anh ngồi xuống bàn ăn cùng tách cà phê, con Đầu Đất ngồi cạnh chân chủ. Joey không phải là người phụ nữ đầu tiên giông khỏi đảo trên thuyền của anh. Nhưng cô là người đầu tiên bỏ đi khi chưa kịp ngủ với nhau, sống với nhau và cãi nhau một trận ra trò. Trước khi giông thuyền bỏ đi, đám phụ nữ này bao giờ cũng kịp để lại một màn than thân trách phận. Tất cả dần trở thành nghi thức.
Người cuối cùng thực hành nghi thức ấy là Susan, một nữ luật sư thành công bên mảng sở hữu trí tuệ. Cô này tỏ ra thích thú với đời sống biệt lập trên đảo. Ngặt nỗi thỉnh thoảng cô ả nổi khùng vì không kết nối được con Blackberry với vệ tinh - để làm gì không biết - vì bầu khí quyển thất thường tại đây. Cũng có thể cô ả không chỉ điên vì mỗi việc ấy, Stranahan kết luận sau đó.
Susan lẻn đi vào một buổi hoàng hôn. Sau khi đánh mê Stranahan với rượu rum pha Coke và thuốc ngủ, cô luật sư thu dọn hành lý, nhào lên thuyền của anh và nhanh chóng lao thẳng vô tảng đá ngầm của Ragged Keys. Xương đòn của cả Susan và trục chân vịt của con Evinrude đều bị gãy, khiến Stranahan đi sửa hết 1.800 đô la.
“Lạy Chúa! Sao không nói anh đưa em về?” Stranahan hỏi cô luật sư trong phòng cấp cứu.
“Tại em sợ anh giận,” cổ nói. “Em biết tính anh mà.”
Bọn họ đều nói thế: “Em biết tính anh mà.” Thực ra chẳng có ma nào biết cả. Họ nào có hiểu gì anh đâu. Vấn đề là Stranahan cũng không giỏi trong việc cởi mở tâm tình nên cũng không trách được họ đã đọc nhầm tín hiệu. Tai nạn của Susan đã thực sự khiến anh đặt câu hỏi nghiêm túc về cách hành xử của mình. Nhưng trước khi tìm ra câu trả lời cho câu hỏi nghiêm túc ấy, anh phải tìm cách bảo vệ con thuyền tội nghiệp khỏi mấy cô tình nhân bất mãn cái đã.
Với ống nhòm chuyên dụng, Stranahan dễ dàng nhìn thấy Joey, chỉ cách đảo chưa đầy hai dặm. “Đi với tao không mày?” Stranahan hỏi Đầu Đất, con này ngồi xuống liếm bi thay cho lời từ chối.
Stranahan vào kho, lôi chiếc kayak màu vàng ra và hạ thủy. Anh cởi áo, đá đôi dép tông sang một bên rồi lên xuồng. Chẳng mấy chốc anh đã tiến ra biển, với những nhịp chèo ngắn và mạnh mẽ. Vết cháy nắng trên vai dễ chịu quá. Nếu gió cứ thổi thuận chiều thế này thì chỉ 20 phút là sẽ đến được con thuyền què quặt ngoài kia.
Lúc anh tới nơi thì Joey đang ngồi đung đưa chân ở mũi thuyền. Cô nói: “Được giải cứu hai lần trong ba ngày. Sao mà ê chề thế cơ chứ!”
Stranahan nhảy lên thuyền, cột con kayak vào phía sau: “Vụ này không tính là giải cứu. Chỉ là một màn chơi khăm.”
“Mick, tôi không có ý chôm thuyền của anh. Thiệt đó.”
Anh mở cửa trước, cố đưa đầu và cánh tay vào trong.
“Tôi định cột nó ở đâu đó tại Dinner Key,” Joey nhấn mạnh. “Tôi không có ý phá hư nó. Để tôi đền cho anh nhen.”
Từ dưới hầm tàu, anh nói vọng lên: “Ai nói cô nó hư?”
“Ủa chưa hư sao?”
“Chạy ngon nữa là khác,” anh leo lên, chùi tay vào ống quần kaki, ngồi vào bàn điều khiển, mở khóa, con thuyền đã nổ máy.
Joey hờn dỗi hỏi: “Anh làm sao tài vậy?”
“Có một cái van tay, dẫn xăng từ thùng vào máy. Tối hôm qua tôi đã khóa nó,” anh bảo. “Chắc do thói quen.”
“Van dẫn xăng?”
“Đúng vậy. Cô xài hết số xăng còn sót lại trong máy sáng nay. Xăng không vào máy nữa thì nó ngỏm thôi.”
“Thông minh quá!” Joey há hốc mồm.
“Cũng không phải lần đầu người ta chôm thuyền tôi.”
“Cũng không lạ.”
Anh giúp cô leo lên mui thuyền. Joey đến thùng nước đá, cúi người xuống nhìn anh xoay bánh lái, chuẩn bị lái con thuyền về lại đảo.
Anh nói: “Tôi không trách cô đâu. Thất vọng là điều khó tránh mà. Cô mong dạt lên đảo với Clint Eastwood, ai ngờ chỉ có tôi thôi.”
Joey trợn mắt.
Stranahan lái con thuyền chầm chậm trở lại. Chiếc xuồng kayak dập dềnh phía sau đuôi. “Nếu cô muốn về đất liền cứ nói một tiếng, tôi sẽ đích thân chở cô về.”
“Tôi sợ anh sẽ gọi tuần duyên hoặc cảnh sát. Mà tôi thì không muốn thế.”
“Vậy chứ cô định làm gì?”
“Tôi định hù thằng chồng một phen. Nhìn bản mặt nó khi nó biết tôi còn sống mới thật khoái chí.”
“Rồi sao nữa? Để nó thử giết cô lần nữa hả?”
“Thì nghe cũng không thông minh lắm. Nhưng tôi điên đến chết mất. Tôi định lẻn vào nhà, đợi nó tắm thì chui vào trong nhà tắm, giật mạnh rèm ra. Nó mà đứng tim chết ngay tại chỗ thì hay quá.”
“Cảnh tượng tuyệt vời đấy,” Stranahan nói. “Nhưng kế hoạch bết quá…”
“Tôi có một kế hoạch hay hơn nè, anh muốn nghe không?”
“Khỏi,” anh nói.
“Tôi mới nghĩ ra khi con thuyền chết máy vài phút trước thôi. Tôi nghĩ anh sẽ ưng kế hoạch này,” cô nói.
“Nghi quá,” Stranahan nói. “Nhưng phải nói ngay kẻo cô quên: tôi là người giữ lời. Cô không cần phải trốn chạy như thế. Tôi sẽ không gọi cảnh sát cho đến khi cô sẵn sàng.”
Joey gỡ dây buộc tóc: “Ngộ nhỡ tôi không bao giờ sẵn sàng thì sao?”
“Kế hoạch mới nghĩ ra vài phút trước đó hả? Muốn mọi người tiếp tục tin mình đã chết?”
“Chủ yếu là thằng chồng chó đẻ của tôi thôi.”
Stranahan hỏi tiếp: “Rồi sau đó là gì? Đến một thành phố xa lạ để sống? Lấy một cái tên mới, rồi làm lại cuộc đời?”
“Đâu có. Tôi phải xử thằng chồng cho ra ngô ra khoai chớ.”
“Một màn báo thù ngọt ngào.”
“ Công lý thì đúng hơn là báo thù.”
“Trời đất,” Stranahan phá ra cười. Cô gái này thiệt dữ dội.
“Joey, còn gia đình và người thân của cô thì sao? Bạn bè nữa? Cô thực sự muốn họ phải gánh chịu nỗi đau mất người thân sao?”
Cô kể anh nghe chuyện mình mồ côi từ sớm, còn anh trai duy nhất thì đang ở xa tận nửa vòng trái đất.
“Tôi sẽ nói với ảnh sau,” cô nói “Và ảnh sẽ ủng hộ tôi thôi.”
“Còn sếp thì sao? Cả đồng nghiệp nữa?”
“Lấy chồng rồi thì tôi nghỉ việc ở nhà,” cô nói. “Tiện đây nói cho anh biết là tôi có tiền, rất nhiều tiền, đủ xông xênh để xử thằng Chaz lên bờ xuống ruộng.”
“Chúa ơi, cô nói thiệt đó hả?”
“Hoàn toàn nghiêm túc. Anh ngạc nhiên là phải,” Joey quay lưng đi, đưa tay che mắt khỏi ánh nắng.
Khi thuyền của họ cập bến, Đầu Đất nhảy cả xuống nước vì phấn khích. Stranahan cột thuyền, kéo kayak vào trong kho và bỏ đi chiên trứng. Joey đã thay một chiếc váy màu vàng rực và đội một cái mũ rơm to đùng.
Bữa sáng có thêm nước ép bưởi được dọn ra trên boong thuyền, phía dưới bầu trời gợn mây. Stranahan đợi xong bữa rồi mới bắt đầu thuyết phục Joey.
“Nghe tôi đi. Không thể giết chồng rồi thoát tội được đâu. Đừng tưởng giả chết là xong chuyện. Mấy kịch bản kiểu này chỉ có trên phim thôi.”
Cô ngước nhìn anh qua kẽ hở của chiếc nón quá khổ, mặt ánh lên sự khoái chí: “Mick này, tôi đâu có muốn giết Perrone. Tôi muốn chơi cho nó lăn lê bò toài, đến mức nó thà tự sát còn sướng hơn!”
Stranahan giật mình khi thấy mình có vẻ thích thú với ý tưởng này. Anh hy vọng cô không nhìn thấy điều đó.
Cô cố ý ngồi chồm lên phía trước một chút: “Có bao giờ anh bị ám sát chưa? Kể thiệt tôi nghe đi.”
“Có. Sự thiệt đó.”
“Rồi anh làm gì?”
“Hai chuyện khác nhau mà, Joey. Tôi là người bên hành pháp.”
Joey đập tay lên bàn đắc thắng. “Tôi biết mà! Đoán trúng phóc luôn!”
“Ý là từng làm. Tôi nghỉ lâu rồi.”
“Trả lời câu hỏi đi, Mick. Anh đã làm gì với kẻ muốn giết anh?”
Anh hít một hơi thật chậm rồi trả lời: “Thì tôi giết tụi nó.”
Cô ngả người ra sau cái phịch như có ai xô. “Trời đất ơi!”
“Ăn đu đủ không?”
“Anh vừa bảo tụi nó? Ý là anh giết nhiều người lắm rồi hả?”
“Hồi đó tôi có đi lính nữa,” Stranahan nói. “Chờ tôi chút.”
Anh đi vào bếp. Khi trở ra, anh đặt lên bàn hai ổ bánh mì vòng và một đĩa đu đủ tươi đã cắt sẵn.
“Kể tôi nghe hết đi,” mắt Joey sáng lên.
“Thôi bỏ đi.”
Stranahan có hai chủ đề cấm kỵ: vợ cũ và những người mà anh đã giết, về chủ đề thứ hai, tên quan tòa tha hóa Raleigh Goomer là vụ nổi tiếng nhất. Trước và sau đó, anh còn giết thêm nhiều mạng. Mấy vụ ấy nhìn chung đều có lý do chính đáng, từ những kẻ thù anh bắn trên chiến trường, hay tên sát thủ chậm chân bị anh xiên thanh kiếm qua người. Đấy đều là những câu chuyện hấp dẫn cả, nhưng Stranahan không muốn kể cho một người trẻ tuổi xa lạ.
Joey nói: “Chắc tôi nên sợ anh là vừa.”
Anh lắc đầu. “Tôi sợ cô thì có.”
“Tôi nói anh rồi mà, Mick, tôi đâu có muốn giết Chaz. Đến ruồi muỗi mà tôi còn không nỡ giết. Nhưng nó phải trả giá cho tội ác của mình.”
“Vậy thì tống nó vào tù thôi!” Stranahan nói. “Tin tôi đi, bóc lịch mười năm ở Raiford hãi hùng hơn mọi hình phạt mà cô nghĩ ra đó.”
Joey lấy thêm một miếng đu đủ nữa. “Muốn tống nó vào tù thì phải ra tòa đúng không? Nhưng nhân chứng và động cơ đều không có cả. Tôi nói đúng không?”
“Phải có động cơ, Joey. Những vụ như này chắc chắn phải có.”
“Tôi vẫn chưa rành mọi ngóc ngách của vụ việc. Nhưng tôi quá rành Chaz, nó mưu mô quỷ quyệt kinh khủng, mồm nó trơn như bôi mỡ. Tôi tả vậy không biết anh mường tượng ra được chưa?”
“Cũng được rồi,” Stranahan nói.
“Nghĩ đến cảnh phải cãi nhau với nó trên tòa là tôi nổi hết gai ốc. Tôi không mạo hiểm đâu.”
Stranahan buộc phải tán thành sự e dè của Joey. Tòa án ở Nam Florida lôm côm có tiếng.
“Trước khi gặp tôi, Chaz làm cho một công ty mỹ phẩm,” Joey nói. “Công ty dùng bằng cấp của nó như một kiểu bảo lãnh khoa học. Nó từng cho tôi coi một đoạn băng ghi lại nó đứng ở bục nhân chứng, anh biết sao không? Chém gió là nghề của nó luôn rồi. Nó mà hót thì cả tòa chỉ có tin sái cổ.”
Stranahan biết là mình nên khuyên nạn nhân phải tin vào cơ chế, khổ cái anh còn không tin thì làm sao dám mở miệng. Chẳng phải anh đã từng tận mắt chứng kiến mấy tên tội phạm máu lạnh rời khỏi tòa khơi khơi mà không phải lãnh một bản án nào đó sao?
“Vậy giờ mình làm gì đây?” Joey hỏi. “Anh định làm gì với tôi?”
Anh định trả lời thì nhìn bất ngờ thấy chiếc trực thăng màu cam đang bay tầm thấp từ biển vào. Con Đầu Đất cũng đã nhìn thấy và giờ nó đang sủa loạn lên, vừa sủa vừa chạy vòng vòng. Chiếc nón rơm khổng lồ của Joey bay thẳng về hướng chiếc trực thăng khi cô ngẩng đầu nhìn. Stranahan để ý thấy nhân viên đội Tuần duyên đang ngồi ở cửa trực thăng. Người này đang đội một chiếc mũ bảo hiểm trắng, mắt gắn chặt vào ống nhòm, rõ ràng là đang đi tìm bà Charles Perrone mất tích trên biển.
Để chấm dứt mọi phiền toái, Stranahan chỉ việc đứng dậy, giơ tay ra hiệu rồi chỉ tay về phía người phụ nữ váy vàng vừa đội lại cái nón rơm lên đầu. Người phụ nữ ấy đang nhìn anh hồi hộp. Anh có quá đủ lý do để làm thế. Nhanh gọn, rốp rẻng, anh thấy mình quá già cho mấy chuyện kiểu này. Nhưng rồi anh không vẫy, cũng không chỉ, càng không ra một tín hiệu nào. Thay vào đó, anh kéo bàn tay trái của Joey lại gần rồi đặt lên đó một cái hôn. Một nụ hôn phớt nhưng đủ dài để người cảnh vệ biển kia nhìn thấy.
Và từ trên trực thăng, người cảnh vệ (hoặc bất kỳ ai) làm sao nghĩ được người phụ nữ trong cái áo đầm thậm thượt kia lại là một người từ biển dạt vào cho được. Kiểu gì cũng là vợ hay bồ của cái tay trung niên số hưởng kia!
Và vì nghĩ thế, nên chiếc trực thăng đổi hướng bay mất. Họ cùng nhìn cho đến khi chiếc trực thăng chỉ còn là một cái chấm bé nhỏ trên nền trời xanh dương. Thỏa mãn vì hoàn thành nhiệm vụ phòng vệ, Đầu Đất ngưng sủa và lại cuộn tròn trên cát. Trên đầu họ, một đàn hải âu vỗ cánh bay ngang qua.
“Cám ơn anh,” Joey Perrone nói với Stranahan. “Vậy giờ tôi ở lại đây với anh đúng không?”
“Tôi điên mẹ nó rồi,” anh nói.