← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 6

Đội Tuần duyên gọi điện cho Chaz vào đúng 12 giờ trưa.

“Các anh nỡ lòng nào bỏ cuộc!” Chaz bắt đầu diễn qua phôn, kế bên là đống hành lý đã được dọn từ cả tiếng trước. “Vợ tôi đang trôi dạt đâu đó ngoài kia, lỡ cổ còn sống thì sao?”

“Cơ hội thấp lắm. Tôi rất tiếc, ông Perrone à.”

Rời khỏi khách sạn Marriot, Chaz lái xe về nhà, lòng nhẹ nhõm và đắc thắng. Nó vừa thực hiện một tội ác hoàn hảo. Ba mươi bảy tiếng đồng hồ đã trôi qua mà người ta vẫn chưa tìm thấy dù là sợi tóc của Joey. Biển khơi đã giải quyết mọi thứ.

Bước vào nhà, lòng nó trỗi dậy một cảm xúc mãnh liệt. Cái gì thế nhỉ? Chẳng phải lòng trắc ẩn, mà là một cơn hứng tình đang ào tới trong cái không gian thoang thoảng mùi nước hoa quen thuộc. Cái mùi yêu thích của Joey luôn làm Chaz rạo rực. Nó tinh tế hơn hẳn loại dầu thơm trái cây mà Ricca hay dùng. Chaz tự nhủ: mai mốt mình phải xui con bồ đổi qua xài cái hiệu của Joey mới được.

Chaz mở hộp thư thoại, nghe cả đống tin nhắn nghẹn ngào từ bạn bè của Joey, những người đã kịp biết tin qua báo đài. Chaz nghĩ mình thật may mắn khi cưới một người phụ nữ gần như tứ cố vô thân. Chứ không thì phiền phải biết. Joey vẫn còn ông anh ruột, nhưng Chaz chưa từng gặp người anh vợ này lần nào. Và nó đang thắc mắc cái chết của Joey có đủ mạnh để lôi ông Corbett Wheeler rời khỏi đất nước New Zealand yêu thích hay không.

Nhìn đống quần áo của Joey treo trong tủ đồ, Chaz cũng bồi hồi chút đỉnh. Nhưng sau khi dọn sạch cái tủ, dọn luôn đống mỹ phẩm và đồ dùng cá nhân trong nhà tắm như xà bông, kem, dưỡng ẩm, dưỡng thể, dầu xả… thì chút bồi hồi ấy cũng tan biến. Chaz đi lòng vòng gom đồ của vợ, rồi bày hết lên trên cái giường ngủ cỡ bự của cả hai, không bỏ sót một thứ gì, ngoại trừ cái áo ngực ren và một đôi quần lót gợi cảm. Ricca mà giảm được vài kí thì mặc vừa y. Nữ trang của Joey cũng được để lại, đống ấy phải tới mười hai ngàn đô chứ ít gì.

Nhà Chaz không có cái thùng nào đủ lớn để chứa hết đống đồ của vợ. Thế là nó chạy đến trạm chuyển phát gần BrandsMart, mang về mấy cái thùng các tông khổng lồ. Vừa đánh xe vào nhà, nó phát hiện một con Ford sedan màu xám đậu ngay trước sân. Một người đang chờ trước cửa, chính là Karl Rolvaag.

Theo lẽ thường, mấy tên sát nhân sẽ để lại mớ thùng trong xe để sắm tròn vai kẻ mất vợ đau khổ, tránh bị nghi ngờ. Nhưng Chaz hết sức bình tĩnh, không chút nao núng.

“Ông lái chiếc gì thế?” Rolvaag hỏi. “Một trong những con Hummer mới ra nhỉ?”

Không hồi đáp, Chaz mở cửa nhà và mang mớ thùng các tông vào trong. Nó đi thẳng đến chỗ phòng ngủ, viên thanh tra cũng im lặng theo sau.

“Tôi không chịu nổi khi nhìn thấy đồ đạc của cổ ở đây. Đau lòng lắm, ông biết không?” Chaz bắt đầu hót. Nó bắt đầu ném váy vủng, quần áo vào cái thùng tivi Sanyo 40 inch. “Nhìn đâu cũng thấy hình ảnh của cổ hết,” Chaz chuyển sang sụt sịt. “Tôi còn chưa dám mở đống hành lý mà cổ mang đi du lịch ra nữa kìa.”

Rolvaag nhìn quang cảnh trước mắt, nghĩ ngợi rồi nói: “Mỗi người đều có cách phản ứng khác nhau trước những mất mát. Có người giữ nguyên mọi thứ, đồ ở đâu thì để yên đấy, từ chăn màn cho tới quần áo dơ. Ông sẽ choáng khi biết một số người giữ nguyên bàn chải đánh răng của người thân xấu số trong ly. Giữ như vậy suốt nhiều năm liền luôn.”

Chaz tiếp tục cho đồ vào hộp: “Tôi không phải kiểu ấy. Mấy vật dùng này nhắc tới cổ, giữ nó lại thì mỗi sáng làm sao tôi thức dậy nổi.”

“Rồi ông định làm gì với đống đồ này?”

“Tôi chưa biết nữa. Có khi mang cho từ thiện.”

Viên thanh tra chồm tới, vớ lấy cây lược chải đầu đồi mồi: “Tôi lấy cái này được không?”

“Cứ tự nhiên,” Chaz đáp lời ngay. Nhưng sau một chốc suy nghĩ thì nó hỏi: “Mà ông lấy làm gì?”

“Sau này có khi cần đến ông à.”

“Vậy hả?”

“Biết đâu sau này người ta tìm được gì đó,” Rolvaag nói. “Một phần cơ thể hay bất kỳ thứ gì. Tôi không hứa hẹn gì đâu, ông Perrone, nhưng khả năng nhỏ nhất thỉnh thoảng vẫn xảy ra đó.”

“Ồ, tôi hiểu rồi. Ông muốn có DNA của Joey.”

“Chuẩn rồi. Tóc trên cây lược này cũng đủ để ta đối chiếu, nếu cần,” viên thanh tra nói. “Ông có phiền không?”

“Tất nhiên là không!” Chaz đáp ngay tức khắc, rồi lấy mấy cái ví trên giường cho vào thùng.

Rolvaag bỏ cây lược của Joey vào túi áo khoác, nói tiếp: “Từng có mấy vụ xảy ra ngay tại Florida này, lúc ngư dân câu được cá mập bự. Khi người ta hạ con cá mập xuống boong tàu, có con ọe ra một phần xác người. Người ấy được báo mất tích cả mấy tuần lễ trước, còn con cá mập thì cũng bơi được hai, ba trăm dặm so với lúc xảy ra tai nạn.”

Chaz cắt ngang, mặt như muốn nôn mửa: “Thôi, tôi hiểu rồi.”

“Xin lỗi ông Perrone. Tôi nghĩ ông đâu có lạ gì mấy việc này, có khi ông từng thấy mấy vụ ở Rosenstiel ấy nhỉ?”

Ánh nhìn của Chaz từ mấy cái thùng liếc nhanh lên mặt viên thanh tra. “Đúng, chúng tôi cũng từng nghe mấy chuyện đó.” Chaz nghe giọng mình có đôi phần giận dữ. Gã này rõ ràng đã điều tra lý lịch nó.

“Cần gì thì cứ lấy,” Chaz chỉ về mớ đồ của Joey. “Tôi sẽ hết sức hợp tác để vụ việc kết thúc tốt đẹp.”

Viên thanh tra nở một nụ cười mà Chaz dịch ra là sự thông cảm. “Kết thúc được thì tốt,” Rolvaag nói. “Có đau lòng thì vẫn là một bước tiến. Tôi xin lỗi vì đã đường đột xâm phạm nơi riêng tư của ông.”

Chaz tiễn thanh tra ra cửa và nói: “Bên tuần duyên có gọi. Họ bảo sẽ ngưng cuộc tìm kiếm vào chiều nay.”

“Tôi biết rồi,”

Chaz giả bộ đía thêm: “Họ rà soát cả khu vực ba nghìn dặm mà không tìm ra được gì!”

“Ồ, họ có tìm được vài thứ,” Rolvaag nói. Chaz chợt thấy rét run, một tay cố giữ tay nắm cửa. “Bốn kiện cần sa chứ đâu có ít.”

Chaz chờ đợi cơn sợ hãi qua đi. “Trời đất ơi!” Nó nói. “Chắc là của đám giang hồ bạt mạng ở Colombia.”

“Thật ra đống cần sa ấy đến từ Jamaica. Nhưng ông nói đúng, họ không bao giờ tìm ra được ai đã ném chúng xuống và ném từ đâu. Dòng hải lưu Gulf Stream hẳn đã lôi chúng đến đảo.”

Chaz khịt mũi: “Vậy là nó từ Bermuda, chứ sao Jamaica được nhỉ?”

“Ý ông là sao?”

“Dòng Gulf Stream đúng không? Nó chảy từ bắc xuống nam mà.”

Cặp chân mày vàng hoe của Rolvaag cau lại: “Lần cuối tôi ở đó thì ngược lại đó ông Perrone. Tôi cam đoan là dòng hải lưu ấy chảy về phía bắc.”

Chaz tự nhiên nổi cơn ho. Lỡ tên thanh tra rách việc này đúng thì sao nhỉ? Chaz tự hỏi. Nghĩa là thủy triều sẽ mang xác Joey từ vùng rìa xa xôi vào thẳng trung tâm của cuộc tìm kiếm cứu hộ.

“Ừ nhỉ, có khi ông đúng,” Chaz tằng hắng. “Đầu óc tôi mấy nay rối bời, không còn phân biệt được mặt trăng với mặt trời nữa là.”

“Tôi hiểu mà. Thôi ông cố nghỉ ngơi,” Rolvaag trả lời rồi đi về phía xe mình.

Chaz đóng cửa, rồi tựa lưng vào đó chết lặng. Trong hàng triệu người không biết chút gì về hướng chảy của dòng Gulf Stream, nó có lẽ là kẻ duy nhất có bằng hải dương học. Gọi ngay cho một giáo sư trong trường cũ là biết đáp án, nhưng làm thế thì chỉ tổ chuốc thêm ê chề cho cái sự dốt của mình. Đây là một trong những lần hiếm hoi Chaz hối hận vì hồi đó học ngu quá.

Cuộc tự vấn trôi qua cấp kỳ, vì nó đã quay lại dọn nốt đống đồ. Vừa dọn vừa trấn an bản thân rằng lũ cá mập dọc bờ biển Miami ăn tạp y như đám ở Keys. Joey rõ ràng đã bị thịt rồi, nếu không thì bên cứu hộ phải thấy xác chứ.

Những hồ nghi cứ vang lên trong đầu, thế nên khi Ricca gọi tới, Chaz kiềm không nổi hỏi ngay tức thì: “Cục cưng, dòng Gulf Stream chảy về hướng nào thế?”

“Ủa mình chơi trắc nghiệm hả anh? Có mấy đáp án nè?”

“Chảy về phía bắc hay phía nam?” Chaz nói.

“Em không biết cưng à.”

“Bố khỉ!”

“Ủa sao anh lên cơn với em? Trong hai đứa thì ai mới là Tiến sĩ tầm cỡ vậy?”

Ricca nói chính xác điều Karl Rolvaag nghĩ trong đầu khi lái xe về lại trạm tuần duyên.

Năm hai mươi hai tuổi, Corbett Wheeler chuyển đến sống tại New Zealand. Anh biết nếu còn nấn ná ở lại nước Mỹ thì e sẽ phải dành cả thanh xuân để bảo vệ món tiền thừa kế trước bà dì “tay nhám”.

Cobertt đã năn nỉ em gái đi cùng, nhưng Joey chỉ yêu Florida. Anh không ngạc nhiên mấy khi em mình kết hôn với Benjamin Middenbock, chỉ bất ngờ là thằng em rể chơi chứng khoán hóa ra lại rất ngay thẳng, không thèm đoái hoài đến số tiền thừa kế. Sau này, chỉ khi Benny chẳng may bị tay nhảy dù đè cho bẹp dí, Corbett mới biết là nhỏ em mình không hề hé môi nửa lời với chồng về số tiền kia. Rồi Corbett đâm lo, không biết em gái có biết tự chăm sóc bản thân sau cú sốc này không.

Nhưng lúc đó thì anh đã trót yêu New Zealand mất rồi. Đất đai ở đây bạt ngàn và tráng lệ y hệt California, nhưng là một phiên bản không có tiếng còi xe. Ngoài ra, anh còn đâm nghiện mấy cái trang trại cừu, đúng giai đoạn giống Đông Friesia của Thụy Điển bắt đầu được nhập về. Đông Friesia là giống cừu lấy sữa năng suất nhất thế giới. Phối giống chúng với bọn cừu New Zealand thì sẽ cho ra một đàn cừu béo tròn, lông mềm và xốp. Corbett Wheeler kiếm bộn tiền từ trang trại cừu. Nhưng anh đâu còn màng đến tiền bạc nữa, chỉ ngày càng mê mẩn cái thú điền viên tao nhã. Không gì làm anh vui hơn được ngồi bên hàng rào nông trại, phì phèo cần sa, phóng tầm mắt ra sườn dốc xanh mướt, lốm đốm nào là cừu con, cừa cha, cừu mẹ…

Một đêm nọ, Joey gọi đến, giọng hào hứng rõ, thông báo cho anh là bà dì chị em song sinh với mẹ đã vào tù vì tội gian lận bảo hiểm. Bà dì ấy tên Dottie Babcock, kiếm sống ở Los Angeles bằng nghề “nạn nhân chuyên nghiệp”. Cứ mỗi tháng mụ lại dàn dựng mấy vụ tai nạn, rồi thông đồng với một tay bác sĩ lưu manh để làm hồ sơ bệnh án giả. Sau mỗi vụ dàn cảnh, hồ sơ bệnh án của Dottie Babcock lại dày thêm một chút: nào gãy xương sống, nào nứt xương chậu, nào bong võng mạc…

Một tờ báo đã âm thầm lần theo mụ và cuối cùng ưu ái cho mụ lên luôn trang nhất. Trong bức ảnh, mụ đang mang đôi giày trượt patin, kế bên là tay huấn luyện viên thể lực ở Santa Monica. Chính quyền buộc phải vào cuộc và vị thẩm phán tuyên Dottie 8 đến 12 năm tù giam. Joey gọi cho anh trai để thông báo, mong cái tin tốt lành này sẽ dụ được anh trở lại Mỹ. Nhưng Corbett một mực chối từ. Từ khoảng cách địa lý xa xôi (lại còn thông qua lăng kính của BBC), anh thấy xã hội Mỹ ngày càng điên loạn và ghê gớm. Quan trọng hơn, Corbett Wheeler biết sống làm sao nếu không có lũ cừu.

Thực ra anh cũng từng về lại Mỹ một lần, để dự đám tang của thằng em rể Benjamin Middenbock. Nhưng chỉ lưu lại chưa đầy 48 tiếng. Sự thô tục của miền Nam Florida làm anh phát ốm. Bay vội về Christchurch, Corbett quyết định từ nay sẽ ở ẩn, chỉ chuyên tâm chăm sóc lũ cừu. Anh vẫn điện thoại cho em gái thường xuyên, qua đó anh biết Joey đang ngày càng nghi ngờ sự chung thủy và đàng hoàng của thằng chồng thứ hai, ngài Tiến sĩ Charles Perrone. Nhưng trong cuộc hội thoại, chưa bao giờ Joey thoáng chút sợ sệt cho an nguy của mình.

“Nó dám xô em khỏi tàu thật ấy hả?” Corbett Wheeler thấy cánh tay đang cầm điện thoại của mình run lên. “Nó làm thế nào? Mà tại sao lại làm thế hả trời ơi?”

Joey kể anh nghe tường tận chuyện đêm ấy. Chuyện đúng hồi hộp, nhưng đến khúc nhỏ em mình vớ phải nguyên bó cần sa thì thằng anh chịu hết nổi phải phá ra cười.

“Rồi ai giải cứu em lên, bọn DEA à?”

“Không anh, khác xa.”

“Nhưng em báo cảnh sát rồi chứ hả?”

Joey không trả lời.

“Ủa chứ em tính sao?”

“Chaz nó đã tính cả đường em tố nó rồi,” Joey nói. “Nó đóng kịch hơi bị siêu, anh Corbett à. Siêu hơn em chắc.”

Corbett Wheeler suy nghĩ một chốc rồi hỏi: “Nhưng em phải có tính toán gì rồi, đúng không?”

“Sẽ phải có thôi. Nhưng em cần anh giúp.”

“Cứ nói anh nghe thử. Nhưng em đang ở đâu?”

“Trên một hòn đảo nào đó.”

“Cái gì rùng rợn vậy? Em ở đó một mình hả?”

“Dạ hông, trên này còn có cái anh đã cứu em nữa.”

“Trời má, Joey ơi, nữa hả!”

“Em tin ảnh,” Joey nói.

“Cũng như em từng tin thằng Chaz,” Corbett Wheeler nói, “Sáng mai anh sẽ bay qua liền.”

“Đừng, khoan vội đã anh.”

Em gái anh tuy có những lúc yếu lòng, nhưng Corbett biết nó là một đứa rắn rỏi.

“Rồi chính xác là em định làm gì đây?”

Gác máy, Joey bước ra ngoài và thấy Mick Stranahan đang câu cá trên đê biển, kế bên là con Đầu Đất đang ngủ gục.

“Sớm nhất là khi nào Chaz có thể báo tử?” Cô hỏi. “Vài tuần hay vài tháng? Ý tôi là nếu người ta không thấy xác?”

“Theo luật Liên bang là năm năm.” Stranahan nói.

Joey hài lòng khi biết câu trả lời, dù cô không định rình thằng chồng khốn nạn lâu đến vậy. Cô đang cần một kế hoạch thật nhanh và hiểm.

“Anh Corbett đang gọi cho cảnh sát rồi,” cô nói. “Ảnh sẽ bảo với họ vụ này không thể là tự tử hay tai nạn được.”

“Cô muốn cảnh sát rờ đến Chaz sớm vậy sao?”

“Càng sớm càng vui mà anh. Nhưng mà họ cũng không cách gì kết tội nó. Chính anh nói vậy còn gì.”

“Không có lời khai của cô, tất nhiên là quá khó.”

“Nhưng họ vẫn sẽ thẩm vấn và khiến nó bất an, với tôi vậy là vui rồi.”

“Nó sẽ mất ngủ hàng đêm và lo không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo,” Stranahan nói.

“Đúng rồi. Mắt thao láo nhìn lên trần nhà.”

“Nhưng vụ này sẽ kết thúc ra sao?”

“Tôi không biết nữa,” Joey nói. “Anh có cao kiến gì chăng? Tôi cá là anh có.”

Stranahan kéo con cá hồng lên bờ và quăng nó vào xô. “Cô hoàn toàn có quyền hận thằng đó. Nó đã định giết cô mà.”

“Nhưng tôi quan tâm đến lý do hơn,” Joey nói. “Bất kể hậu quả nào giáng xuống đầu Chaz cũng không thể làm tôi thỏa mãn, chừng nào tôi chưa biết tại sao nó muốn giết tôi. Tôi đã nói anh nghe là nó trẻ hơn tôi chưa nhỉ?”

“Chưa.”

“Nhỏ hơn gần năm tuổi. Thật sai lầm khi cưới một thằng oắt con.”

Cô ngưng lại, như lo ngại một sự diễn dịch nào đấy, bèn nói tiếp: “Nói vậy không có nghĩa là tôi sẽ đột nhiên chuyển sang hẹn hò mấy gã lớn tuổi.”

“Trời ơi, tôi xui dữ,” Stranahan nói, mắt không hề rời khỏi mặt nước.

Joey cau mày. “Mấy màn châm biếm ấy chẳng có gì hay cả. Thằng Chaz đặc biệt khoái trò này.”

“Trò trộm cắp tài sản người khác thì hay hơn chắc?”

“Anh nói gì?”

“Cô chôm thuyền của tôi mà, không nhớ à?”

“Ôi Chúa ơi!”

Cô đang cố gắng đưa ra một vài quy tắc giữa hai người, chỉ có thế. Cô không muốn Stranahan hiểu lầm về mối quan hệ lạ lùng này. Sau tai nạn với Chaz, cô quyết định mọi mối quan hệ khác giới từ nay sẽ phải thẳng thắn, rõ ràng. Và Stranahan là thử nghiệm đầu tiên.

“Mick, tôi muốn trả thù lao cho anh vì đã cứu mạng tôi. Trả luôn chi phí bữa giờ, tiền ăn, tiền phòng…”

“Trả thì trả, nhưng tôi không hứa là sẽ không tán cô đâu,” anh nói. “Cứ thấy cô nào xinh tươi là tôi đều cố tán cho được. Tôi cần phải thẳng thắn thế cho cô biết.”

“Cám ơn anh đã thành thật.”

“Nhưng chớ lo. Dẫu có muốn rủ cô lên giường thì tôi cũng sẽ đánh động rùm beng. Tôi không phải dạng bóc hốt.”

“Không ư?”

“Sẽ phải có vang Pháp, ánh trăng và Neil Young, tuyệt đối cổ điển. Đừng cười, tôi biết vậy là sến lụa.”

“Còn tùy coi anh mời rượu gì nữa,” Joey nói.

Cô đang nhớ lại cách anh hôn tay cô khi đội Tuần duyên đang bay trên đầu họ. Cô tự hỏi liệu cái hôn ấy có phải chỉ là để đuổi chiếc trực thăng đi.

Stranahan nói: “Nếu cô là em gái tôi…”

“Hoặc con gái.”

“Lạy Chúa. Tôi đâu già dữ vậy.”

“Anh nói tiếp đi,” Joey nói.

“Nếu cô là em gái tôi, tôi sẽ khuyên cô xách mông ra khỏi hòn đảo này càng nhanh càng tốt.”

“Bởi vì…”

“Bởi vì tôi có thể là Chủ tịch hội fan của Ted Bundy. Hoặc tôi có thể là một tên sát nhân kiêm hiếp dâm hàng loạt.”

“Vậy nên bây giờ anh đang cố nói ngọt để tôi mất cảnh giác đúng không?”

Stranahan kéo lên thêm một con cá hồng, bảo thế là quá đủ cho bữa tối. Anh đứng dậy huýt sáo kêu Đầu Đất theo mình đến chỗ làm cá.

“Nó thích vờn mấy con hải âu.” Stranahan nói.

“Đêm nào anh cũng ăn cá ư?”

“Không. Thỉnh thoảng đổi món ăn tôm hùm, rồi lâu lâu cũng ăn cua đá nữa.”

“Ở đây không cô đơn sao?”

“Cũng phải nghỉ ngơi sau mấy năm miệt mài yêu đương chớ.”

Stranahan rút con dao mũi cong ra và bắt tay vào việc. Lũ cá khá nhỏ nên đây quả là một công việc cần sự chú tâm và tinh tế. Nhưng những nhát cắt từ bàn tay to lớn chai sần của anh lại chắc chắn và chính xác. Joey ngắm người đàn ông moi ruột cá với một sự cung kính như thể đây là nghi lễ tôn nghiêm.

“Để hôm nào tôi rủ cô đi thuyền tới Key Biscayne,” anh nói. “Ở đó có mấy nhà hàng rất được.”

“Mick, anh có súng không?” Cô đột nhiên hỏi.

“Đây là Florida đó cưng.”

“Tôi hỏi thật mà.”

“Chứ tôi giỡn sao? Sếp sòng của sở thương mại Miami cũng trữ một khẩu Uzi đã lên đạn dưới gối bả,” Stranahan đáp. “Nên câu trả lời là có, tôi cũng trữ một cây.”

“Anh chỉ tôi xài súng nhé.”

“Thôi đi.”

“Chỉ phòng khi Chaz nó phát hiện ra thôi.”

“Nguy hiểm lắm!”

“Không chỉ thì thôi,” Joey thầm nghĩ: một con khỉ đầu chó cũng biết súng xài thế nào mà.

“Chính xác thì chồng cô làm nghề gì?” Stranahan hỏi.

“Tôi kể rồi mà. Nhà sinh vật học.”

“Cụ thể là làm cái gì kìa?”

“Nó đang làm cho dự án Everglades, liên quan đến quản lý nước thải của quận.”

“Có giỏi không?”

“Có trời mới biết. Tôi mít đặc về khoa học. Tôi chỉ giỏi mấy môn tay chân thôi à.”

“Thu nhập của nó được không?” Stranahan vừa hỏi vừa ném một mớ ruột cá vào nước. Một con hải âu đậu lên ghế, mặc kệ tiếng sủa inh ỏi của con Đầu Đất.

“Đâu đó cỡ sáu mươi hai ngàn một năm. Tôi chỉ biết sau khi nó bị IRS kiểm toán.”

“Nó có thể rớ vào tiền của cô không? Cái này mới quan trọng nè.”

Cô đảm bảo với Stranahan là Chaz khỏi động được vào tài sản của mình.

“Mà Chaz cũng ký hợp đồng hôn nhân rồi. Ban đầu nó còn dụ tôi xé cái hợp đồng ấy, nhưng thuyết phục mãi chẳng ăn thua nên nó cũng thôi.”

“Vậy thì lạ quá!”

“Không đâu. Nó có quỹ riêng. Tôi cũng chẳng mảy may quan tâm,” Joey nói. “Nó cũng không soi mói gia sản của tôi làm gì. Bọn tôi không bao giờ phải cãi nhau vì tiền như anh nghĩ đâu. Thứ gì cần tiêu tiền là hai đứa chia đều hết. Tiền thuế còn nộp riêng mà.”

“Tiền bạc là vấn đề của mọi cuộc hôn nhân, Joey à. Cứ hỏi bất kỳ vị luật sư ly hôn nào là biết,” Stranahan lại thả miếng xương cá lấp lánh vào nước, nó chìm dần trong một màu đỏ sẫm.

“Ba mẹ thằng Chaz khá không?” Anh hỏi.

“Ba nó làm bảo dưỡng sân golf ở Panama City,” Joey nói. “Chaz bảo vì suốt ngày phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu nên ổng bị mát mát. Một hôm ông thức dậy và khẳng định mình chính là Tướng William Westmoreland. Rồi ông Tướng lái xe xuống cảng, lấy gậy đánh golf và một cái cào đất tấn công một thuyền câu tôm. Khổ thân, chỉ vì thuyền trưởng và thủy thủ đoàn là dân Việt Nam nhập cư.”

“Trời đất. Chaz kể cô nghe hả?”

Joey gật đầu. “Nó giữ lại mấy bài báo viết về vụ này mà. Kết cục là ông già nó phải vào tù. Bà mẹ làm việc trong siêu thị Target, ít lâu sau thì tái hôn với một cựu phi công người Anh.”

“Ba má bết vậy thì quỹ đen của Chaz ở đâu mà ra?” Stranahan đã rửa sạch phi lê cá và đang dọn bàn. “Nó xài tiền dữ không?”

“Nó không hay xài lớn đâu,” Joey nói. “Nhưng ba tháng trước nó đột nhiên nổi hứng mua một con Hummer H2 mới toanh. Không phải trả góp nghe, mua dứt điểm cái rụp. Màu vàng chói nữa chứ. Nó bảo làm việc ở khu đầm lầy, cần phải có một con bốn bánh.”

Stranahan khúc khích: “Hay nhỉ!”

“Nhưng khi tôi hỏi mua hết bao nhiêu thì nó lại nổi đóa,” Joey nhớ lại. “Mà tôi nào có tra hỏi gì đâu. Chỉ tò mò xem chiếc xe đắt hay rẻ thôi. Nó cũng hay tò mò xem tôi mua cái váy hay đôi giày mới hết bao tiền. Nhưng lần này khi tôi hỏi, nó bảo hãy mặc xác nó. Đã thế còn rủa tôi là con đàn bà lắm chuyện.”

“Rồi lúc đó cô phản ứng sao?”

“Tôi bảo là còn nói cái giọng ấy lần nữa, bà thề sẽ thọc tay vào cổ họng, xuống tận hai hòn dái mày và móc ra ngoài cho biết tay,” Joey nói. “Ờ, tôi cũng hơi nóng.”

Stranahan hứa sẽ nhớ chi tiết này.

“Đêm đó khi đã lên giường,” Joey nói, “Chaz xin lỗi vì đã hơi nóng, vừa nói vừa trèo lên người tôi như thường lệ. Nó bảo tiền mua xe từ phí đền bù tai nạn hồi trước.”

“Hồi nào?”

“Cũng lâu rồi, trước khi gặp nhau nữa. Nó bị một tên say rượu lái xe đâm phải ở Tampa, khiến lưng bị thương khá nặng. Nó bảo phải chống nạng hết cả nửa năm lận.”

“Vậy mà cưới nhau phải đến gần hai năm, nó mới kể cho cô nghe cái tai nạn khủng khiếp suýt nữa khiến nó đi đời nhà ma,” Stranahan giễu.

“Có khi nó nghĩ… mà tôi cũng không rõ nữa,” Joey lắc đầu. “Biết đâu nó xấu hổ vì nhờ kiện tụng mà mới có tiền.”

“Rõ rồi. Có lẽ nó muốn cô nghĩ nó vừa giành giải Nobel, hoặc giải MacArthur.”

Joey đang cảm thấy mình ngu ngốc hơn bao giờ hết. “Nói cách khác thì…”

“Giờ thí dụ những gì Chaz nó nói là xạo hết đi,” Stranahan nói. “Vậy thì con Hummer cô nghĩ tầm bao tiền?”

“Gần sáu mươi ngàn, tính cả phụ kiện. Tôi có xem giá trên mạng.”

Nghe tiếng ăng ẳng, họ quay người lại. Đầu Đất đang loạng choạng khốn khổ trong vịnh, lũ chim thì bay vòng vòng trêu chọc ngay trên đầu nó. Stranahan bình tĩnh nhảy xuống nước, kéo con chó bự xự về phía mình. Joey vội vàng lấy chiếc khăn tắm.

Lát sau, khi chờ cá chín, Stranahan mở một chai rượu vang.

“Đừng lo,” anh nói với Joey. “Vang California, không phải vang Pháp.”

“Nghĩa là không có màn mượn rượu tỏ tình chớ hả?”

“Ghi nhận cho tôi chút đi.”

“Nhưng cái tụi mình đang nghe chính là Neil Young mà?”

“Đúng là Neil Young, hồi còn trong ban Buffalo Springfield. Cô còn trẻ mà nghe nhiều phết đấy.”

Stranahan rót thêm rượu vào ly cô. “Ngày mai mình vào đất liền tí nhỉ?”

“Được đó. Anh phải tận mắt nhìn thấy con Hummer ấy,” Joey nói.

“Tôi tò mò về chủ của nó hơn,” Stranahan bảo. “Cái thằng ăn lương nhà nước ba cọc ba đồng mà mua con bốn bánh sáu mươi ngàn tiền mặt.”

Viên hạ sĩ quan tên là Yancy.

Yancy nói: “Nó đây nè sếp.”

Bốn kiện cần sa được đặt nằm ngang trên sàn một phòng giam trống. Đám cần sa sũng nước nhão nhoét bốc lên thứ mùi nồng nồng. Cô chỉ tay vào kiện thứ ba. Karl Rolvaag cúi xuống để nhìn cho rõ.

“Lạ quá hen sếp,” cô hạ sĩ quan phát biểu.

Vải gói rách ở hai chỗ. Rolvaag cẩn thận quan sát tấm vải nhàu nát bằng đầu bút bi. Ông tìm thấy rất nhiều đường cào dài, mảnh, có những vết cào sâu đâm thủng gói hàng.

“Cô giúp tôi một việc được chứ?” Viên thanh tra ngoắc tay Yancy tiến lại.

Yancy làm theo những gì anh bảo. Rolvaag cầm lấy tay trái cô và đặt lên vị trí của một vết rách trên kiện hàng. Sau đó lại cầm tay phải cô đặt lên chỗ còn lại. Các hình dạng gần như trùng khớp, mỗi ngón tay của Yancy đều trùng với những vết cấu xé trên vải.

“Thấy chưa?” Rolvaag nói.

Giọng Yancy trở nên căng thẳng: “Sếp ơi, không phải em đâu. Em thề luôn. Lúc vớt lên là nó đã như vậy rồi!”

“Bình tĩnh,” thanh tra nói. “Tôi có nói là do cô đâu.”

“Sếp yêu cầu em báo cáo nếu tìm thấy cái gì khác thường,” cô nói. “Bất cứ một thứ gì trông không giống bình thường.”

“Đúng rồi. Và cái này rất hữu ích. Tôi không biết cám ơn cô sao cho đủ.”

“Đỡ đần sếp một tay một chân là vui rồi ạ.”

“Mọi người tìm thấy cái đống này ở đâu?”

“Angelfish Creek á sếp,” Yancy nói.

“Thiệt hay giỡn? Vậy là xa lắm!” Nó có nghĩa là Joey Perrone đã rớt xuống biển rất lâu trước thời điểm mà thằng chồng khai.

“Tôi cần cô giúp thêm hai việc nhỏ nữa.” Rolvaag bảo Yancy. “Thường thì cô sẽ đốt hết mớ cần sa tịch thu được đúng không?”

“Đúng vậy, thưa sếp. Bọn em gom hết hàng lậu sang cho bên cảnh sát Liên bang. Họ sẽ hủy một lượt.”

“Mớ cần sa này thì khoan hủy vội, nói họ dùm tôi một tiếng,” Rolvaag nói. “Hãy đánh dấu nó là vật chứng và cất vào chỗ an toàn hộ tôi.”

“Vật chứng. Rõ thưa sếp!”

“Việc nữa là cô có cái nhíp và túi zip nào ở đây không nhỉ?”

“Để em xem trong tủ thuốc cấp cứu,” Yancy nói.

Khi cô nhân viên đi khỏi, Rolvaag ngồi lên một kiện cần sa khác, khịt mũi dữ dội. Anh bị dị ứng với một số loại hạt giống và phấn hoa. Trong danh sách ấy thì mùi cần sa ướt đứng đầu bảng.

Trên tường phòng giam có ai đó đã khắc lên chữ Libertad! . Vị thanh tra tự hỏi không biết kẻ viết chữ ấy đã bị đày đến đâu rồi. Mặc dù chán ghét Nam Florida, thỉnh thoảng anh vẫn tự an ủi là quanh đây vẫn còn những chỗ tồi tệ hơn nhiều, so với những chỗ ấy thì Hialeah cứ như thành phố Emerald trong Phù thủy xứ Oz .

Yancy đã quay lại, mang theo những thứ được yêu cầu. Rolvaag cẩn thận dùng nhíp vạch theo từng vết hằn của ngón tay trên lớp vải bọc. Và chỉ mất một lát, anh đã tìm được manh mối mình cần.

“Mở dùm tôi cái túi zip với,” anh bảo Yancy.

“Vâng, sếp tìm ra được cái gì vậy?”

Viên thanh tra bóp mạnh cái nhíp, đưa vật vừa tìm thấy lên cho Yancy quan sát.

“Móng tay phải không sếp?”

“Tôi nghĩ là vậy đó, tôi dám cá luôn là móng tay phụ nữ.”

“Và cô ta đã tìm cách mở cái kiện hàng này?”

“Không,” Rolvaag thả mẫu móng tay vào túi zip. “Người phụ nữ ấy đã cố bám lấy kiện hàng để thoát chết.”

Cô hạ sĩ quan Yancy quan sát vết cào trên kiện hàng, Rolvaag thấy cô rùng mình.

“Ý sếp là người phụ nữ mà bữa giờ chúng ta tìm? Cái cô mất tích trên du thuyền đấy ư?”

Thanh tra nói dám lắm chứ.

“Quái đản,” Yancy nói thầm. “Quá quái đản luôn.”

“Đúng vậy,” Rolvaag nói và tiếp tục dõi mắt về đống cần sa ướt. “Để coi còn gì nữa không.”