CHƯƠNG 7
Khu quy hoạch mang tên “Đồi cát Tây Boca Giai đoạn II”.
“Đồi cát?” Mick Stranahan ngạc nhiên hỏi lại. “Chúng ta cách bờ biển những 15 dặm kia đấy.”
“Chaz đã cố mua từ khi nó còn ở Giai đoạn I, vì sát ngay sân golf,” Joey Perrone giải thích. “Nhưng lúc ấy người ta đã bán sạch.”
“Căn nào cũng như căn nào nhỉ?”
“Quy hoạch theo mẫu mà. Tất cả ba trăm lẻ bảy căn hộ đều được thiết kế đồng bộ trong tiểu khu hiện đại Florida của chúng tôi,” Joey nhại giọng cò đất: “Khác chăng là vị trí đặt phòng ngủ lớn. Sẽ có những căn đặt ở hướng tây và những căn hướng đông. Ngoài ra còn có cả hồ bơi.”
Stranahan hạ thấp ống nhòm. “Nhưng căn của cô đâu có hồ bơi?”
Joey nói: “Chaz nó ghét bơi lội lắm.”
“Trong khi cô lại là trùm bơi hồi đại học, đúng không?”
“Chuyện ngày xửa ngày xưa rồi.”
“Nhưng có hồ bơi trong nhà thì vẫn thích chứ.”
“Đúng rồi!”
“Đi mua thêm chút đồ nhen?” Stranahan đề nghị.
Họ ghé qua một khu chợ trời tại bãi biển Pompano. Anh chất lên xe thêm một mớ rau quả tươi. Chiếc xe giờ có mùi như hai tấn salad trái cây Địa Trung Hải.
Joey Perrone nói: “Cũng may là anh còn có hòn đảo làm vốn đó nhen Mick,” cô vừa nói vừa vỗ lên cái bảng hiển thị trên xe. “Bởi vì cái đồ quỷ này cua gái không ăn thua đâu.”
“Ý cô là sao?”
“Quá xa so với định nghĩa của Chaz về một chiếc xe xịn.”
Stranahan đáp: “Cordoba là một con xe tự động cổ điển. Hàng hiếm. Cô nên cảm thấy vinh hạnh khi được đặt mông lên thứ da thượng hạng của nó.”
“Đúng là xe ngày xửa ngày xưa.”
Mấy năm nay, Stranahan vẫn đậu con xe rỉ sét của mình dưới bóng cây si gần bến thuyền Dinner Key. Đấy cũng là nơi anh neo thuyền lại mỗi khi vào thành phố. Con Chrysler tuy tàn nhưng chưa phế. Dàn máy chẳng hiểu sao vẫn chạy êm ru, quả là một phép màu.
Joey nói: “Mình nên đi thôi, đậu lâu thêm chút nữa là sẽ có người gọi cảnh sát đó.”
Mick Stranahan phải thừa nhận là con Cordoba cổ lỗ sĩ nhìn chẳng ăn nhập gì với lũ SUV đời mới cáu cạnh đang đậu dọc hai bên đường của khu quy hoạch Đồi cát Tây Bora Giai đoạn II. Joey bảo anh tìm cách vào nhà trong lúc cô tìm chỗ giấu chiếc xe.
“Có khi tôi phải đập bể cửa sổ,” anh nói.
“Có khóa dự phòng ở chỗ để đồ ăn cho chim phía sân sau.”
“Lỡ chuông báo động réo thì sao?”
“Nó hư rồi. Mười phút nữa gặp lại nhé.”
Stranahan đang mặc một chiếc áo sơ mi ngắn tay - đồng phục của công ty điện lực và chiếu sáng Florida, trên đầu là nón bảo hộ trắng. Anh bước đến sân trước, bấm chuông. Sau đó anh đi một vòng quan sát ngôi nhà giả bộ như kiểm tra đồng hồ điện, cốt để đám hàng xóm nhiều chuyện của Joey khỏi nghi ngờ.
Thùng đồ ăn cho chim được treo trên một cành cây olive màu đen. Đấy là cái cây duy nhất trong vườn nhà Perrone. Chìa khóa dính đầy nước dãi của con nhồng, Stranahan chùi sạch nó trên cỏ. Vừa mở cửa được vào trong, anh lập tức rửa tay rồi đeo đôi găng tay làm bếp vào. Khi Joey gõ cửa thì anh đã đợi sẵn ở cửa trước.
“Nhìn tôi thế nào?”
“Nhận không ra luôn,” Stranahan nói.
Joey đang đội tóc giả màu đỏ, mặc chiếc váy sơ mi cổ điển màu xám dài đến gối, trên tay còn cầm cuốn Kinh Thánh. Toàn bộ “dụng cụ hóa trang” đều được mua ở một tiệm bán đồ si-đa, gần cửa hàng bán trái cây tươi ban nãy.
Stranahan ra dấu bảo cô vào trong và đóng cửa lại. Cô đứng lặng người trên sảnh nhà mình, vai cứng lại, không thốt nên lời. Anh nắm lấy cùi chỏ cô và nói: “Không sao. Ổn thôi mà.”
“Có cái gì tôi không nên ngó tới chăng?”
“Tôi chưa kiểm tra hết căn nhà, nhưng có cái này ở phòng bếp.”
Đó là một bài báo in trong tờ Sun-Sentinel.
Joey đọc lớn tiêu đề: “‘Đội Tuần duyên chính thức ngưng tìm kiếm hành khách mất tích trên du thuyền.’ Chúa ơi. Tôi kìa. ‘Một người phụ nữ trong vùng nghi bị chết đuối.’ Có tin nổi không?”
Cô đánh rơi cuốn Kinh Thánh và nắm chặt tờ báo bằng cả hai tay. “Tôi biết tỏng mà, Mick. Nó bảo tôi xỉn và té xuống biển.”
“Người ta có viết thế đâu.”
“Đúng, nhưng nó ám chỉ rành rành nè. ‘Perrone khai với cảnh sát là vợ chồng ông đã uống rất nhiều rượu đêm ấy. Cả hai đang kỷ niệm hai năm ngày cưới.’ Thằng chó đẻ!”
Joey vò tờ báo rồi hậm hực ném vào thùng rác, “Tôi gọi cho Rose đây,” cô nói.
“Là ai vậy?”
“Bạn thân nhất của tôi. Chúng tôi cùng sinh hoạt trong một hội đọc sách.”
Mick Stranahan chờ trong phòng khách, cố tìm hiểu coi ai là người trang trí căn nhà này. Sofa và hai cái ghế đọc sách nhìn rất thoải mái và tao nhã, có lẽ là sản phẩm của Joey. Cái TV plasma và con ghế dựa Natuzzi đen bóng chắc là của thằng Chaz. Còn cái bể cá thê thảm thì của ai được nhỉ? Stranahan hơi sốc vì không thấy quyển sách nào, trong khi tạp chí golf thì giăng mọi nẻo. Ảnh gia đình cũng khỏi có một tấm, kể cả ảnh cưới.
Joey trở lại phòng khách, hai tay cầm hai chai bia lạnh. Cô đưa Stranahan một chai. “Rose nó sợ muốn xỉu. Nó cứ tưởng tôi gọi từ dưới mồ. Ủa mà mùi gì gớm như xác chết vậy?”
“Tôi nghi là mùi bể cá.”
Joey lại gần bể cá, nghiến răng: “Thằng chó đẻ lại quên cho cá ăn.”
Lũ cá giờ đã ngửa bụng, nhìn bóng loáng như hạt châu trang trí. Joey quay mặt giận dữ. Stranahan theo sau lưng cô, rảo một vòng quanh nhà, hết phòng này sang phòng khác. Họ im lặng, cho đến khi Joey vào phòng tắm.
“Vui chưa. Đồ đạc của tôi bị dọn sạch.”
“Tất cả hả?”
“Kem đánh răng, đồ trang điểm,” Joey mở banh hết mấy cái ngăn kéo và cửa tủ. “Kem dưỡng da và cả băng vệ sinh. Nó dọn sạch. Chịu nổi không?”
Cô chạy vội vào phòng ngủ, lục tung tủ quần áo rồi thét lên. “Quần áo của tôi nó cũng không tha.”
Stranahan kéo ngăn trên cùng của một cái kệ cổ: “Nó chừa lại đồ lót nè!” Stranahan nói, giọng coi bộ hồ hởi hơi quá.
“Mẹ nó,” Joey sập cửa tủ mạnh đến mức cánh cửa trật khỏi bản lề.
Stranahan nói: “Tôi nghĩ tình huống này mình nên đóng vai ăn trộm hơn là phá hoại đó.”
Anh cầm cửa tủ, cố định nó lại chỗ cũ. Joey lấy hết áo ngực và quần lót ra khỏi ngăn kéo, ngồi bần thần ở một góc giường.
“Tôi sắp khóc và anh đừng có giở giọng an ủi. Đừng nói một chữ nào hết!”
“Khóc đi mà. Cứ tự nhiên.”
“Khỏi có màn ôm vào lòng, vuốt tóc vỗ về vớ vẩn nhé. Chừng nào tôi cho rồi hãy…”
“Rồi, được rồi!”
“Đây là nhà của tôi, Mick. Cả cuộc đời tôi ở đây. Và nó quét tất cả mọi thứ ra đường như quét rác.”
Rồi cô nhắm mắt lại. Quái đản thay, cô nhớ về cái đêm mà Chaz đã năn nỉ để được cột cô vô thành giường. Dù nó đã chọn cái khăn lụa mềm Alsace, nhưng do cột quá chặt nên ngón tay và ngón chân cô gần như tê dại tức thì. Đấy là một trong rất ít lần cô phải giả vờ lên đỉnh. Nhưng đấy đâu phải là điều ám ảnh nhất. Thứ khiến cô mãi không quên là nó lăn ra ngủ luôn trên người cô sau khi thỏa mãn, trong một tư thế dâm dục quái đản. Nó nằm phải cả tiếng như vậy, ngáy khò khò, nước dãi chảy như suối giữa khe ngực cô, không khác chi một con chó Saint Bernard. Đã vậy, cái ấy của nó còn cứng ngắc và yên vị trong người cô. Lúc ấy, Joey thấy mình hoàn toàn bất lực, y hệt một con bướm hóa thạch bị ghim lên bảng.
Hồi tưởng lại cái màn “nghỉ xả hơi” giữa hai hiệp ấy càng làm cho Joey thêm củng cố kết luận của mình: tỉnh táo hay đang ngủ, nó đều tư duy bằng đầu… buồi!
“Bấy lâu nay, mình sống chung với loài súc vật mà không nhận ra,” Joey than thở trong chán chường. “Một thằng mọi rợ với cái bằng Tiến sĩ. Sao mình có thể ngu si mà đi lấy nó vậy trời?”
“Joey nè,” Stranahan cắt ngang màn tự vấn của Joey. Anh đang đứng ở ngưỡng cửa phòng ngủ, xoay cái nón trên tay mình.
“Sao?”
“Sao cô chưa khóc đi? Khóc lẹ vì chúng ta còn phải đi nữa.”
“Cho tôi năm phút ở một mình được không?”
“Rồi, năm phút,” Stranahan nói.
“Năm phút rồi quay lại đây, quàng tay và ôm tôi, nói với tôi mọi chuyện rồi sẽ ổn. Cứ làm đúng theo bài vậy nhen.”
“Thiệt chứ?”
“Thiệt. Thử coi hiệu quả không. Nhưng trước hết, anh làm ơn tháo đôi găng tay vớ vẩn kia ra dùm.”
Một lát sau, hai người phát hiện đống đồ của Joey được nhồi nhét trong ba cái thùng các tông. Chaz đã vứt chúng trong ga-ra, kế bên chiếc Toyota của Joey. Trong khi Joey bắt đầu phân loại đống đồ thì Stranahan nhắc nhở: “Chaz mà thấy mất cái gì là nó nghi liền.”
“Và đừng có nghĩ đến chuyện lái con xe này ra khỏi đây luôn,” anh nói.
Cầm một cái giỏ xách màu cam lên, Joey ủ rũ nói: “Tôi mua cái này trong chuyến đi vừa rồi.”
Rõ ràng Chaz đã không kiểm tra cái túi này. Trong đó còn 650 đô và thẻ American Express. “Tôi phải giữ cái thẻ này,” cô nói với Stranahan. “Có khi tụi mình sẽ cần.”
“Cả tiền nữa chứ.”
“Anh đến đây phụ tôi moi đồ với,” Joey chỉ vào một cái thùng khác.
“Moi đồ để làm gì mới được chớ?”
“Kiếm cái gì bự bự chút,” cô nói. “Đủ bự để cái thằng chồng mọi rợ của tôi biết là có người lấy đi ấy.”
Bình minh vừa ló rạng, sấm đã đánh đoàng, còn lũ chuột thì gào rít. Lũ trăn đói bụng của Karl Rolvaag tỉnh dậy đòi ăn.
Viên thanh tra đứng dưới vòi sen lạnh đến tận mười phút để mạch máu căng lại, chuẩn bị cho hành trình trở về Minnesota. Rolvaag đinh ninh là sống ở Nam Florida lâu quá thì con người sẽ trở nên ẻo lả.
Sếp Gallo đã khuyên anh nghỉ phép ít ngày cho khuây khỏa, nhưng đời Rolvaag biết làm gì ngoài công việc đây. Khi Rolvaag cạo râu và lên đồ xong thì bọn trăn đã kịp dùng xong bữa sáng. Anh nghe thấy tiếng bà Shulman đập cửa. Bà sống ở căn 7-G và đang giữ chức vụ Phó Ban quản lý chung cư Sawgrass Grove. Nhiệm vụ hiện tại của bà là trục xuất Rolvaag đi chỗ khác.
“Chào buổi sáng, bà Nellie,” Rolvaag nói sau khi mở cửa.
“Tôi lại nghe thấy tiếng kêu gào thảm thiết của những sinh vật kia, ông cảnh sát bệnh hoạn ạ.”
“Chúng cũng phải ăn để sống chứ bà,” viên thanh tra nói. “Giống tôi với bà thôi.”
“Nếu không vì ông là cảnh sát, người ta đã tống ông vào tù vì tội ngược đãi động vật.”
Bà Shulman, nặng hơn 40 kí lô một chút, vung tay như thể chuẩn bị thụi vào ngực Rolvaag tới nơi. Cánh tay xương xẩu của bà đang siết lại căm hờn.
Viên thanh tra nói: “Năm ngoái, Ban quản lý chung cư đã tốn hết bao nhiêu tiền để diệt lũ gặm nhấm nhỉ? Hình như ba, bốn ngàn gì đó phải không bà?”
Bà Shulman nhếch mép: “Đừng có mà lẻo lự!”
“Không có luật nào cấm tôi nuôi bò sát cả.”
“Trang 119 của nội quy có ghi rõ ràng là cấm động vật nguy hiểm nhé.”
“Con chó của bà đã xực bốn người,” Rolvaag chỉ ra. “Còn mấy con trăn nhà tôi chưa làm ai bị thương bao giờ.”
“Nhưng nó làm ảnh hưởng đến sự yên bình của chung cư. Bọn chuột khốn khổ đã gào thét bất lực lúc chầu trời. Thật kinh khủng. Tôi phải tăng gấp đôi liều Xanax cũng là tại ông!”
“Bà Nellie ơi, lũ chuột cống ấy vừa to vừa ranh nữa, không phải chú chuột Stuart bé nhỏ trong phim hoạt hình đâu. Mà nhân tiện, nhân viên của công ty môi trường dùng thứ thuốc độc đó hả? Uống cái ấy vào bao tử chúng vỡ ra liền.”
Bà Shulman rú lên, giật lùi lại.
“Sao chúng ta không để chuyện này cho luật sư nhỉ?” Rolvaag nói.
“Ông là một tên khốn bệnh hoạn. Hèn chi chẳng có ai thèm lấy!”
“Hèn chi chồng bà bị điếc.”
Đôi mắt bà nhíu lại trên gương mặt nhăn nheo. Bà kết luận: “Ông sẽ phải rời khỏi nơi đây muộn nhất là tháng Bảy, đồ lưu manh!”
“Xích con Petunia cho kỹ lại,” Rolvaag nói với theo, “thì đâu có gì phải lo!”
Sau khi ăn bữa sáng trễ, viên thanh tra lái xe đến văn phòng, đưa cho sếp Gallo lá thư của cảnh sát trưởng Minnesota.
“Thật nực cười,” Gallo nói. “Edina là ở chỗ quái nào?”
“Khu Twin Cities.”
“Có bài hát về chỗ này phải không? Cái gì mà không đâu yên bình như buổi sáng Edina.”
“Tôi thực sự muốn chuyển công tác về đó.”
“Anh quên đi!”
“Tôi muốn sống ở một nơi bình thường, sếp à!”
“Và chết trong nỗi buồn chán,” Gallo đưa cho cấp dưới của mình một mảnh giấy. “Một gã tên Corbett Wheeler đã gọi đến. Đây là số của y.”
“Anh trai của bà Perrone.”
“Gọi lúc 1 rưỡi sáng. Cái thằng vô duyên, cứ nghĩ ai cũng sống theo múi giờ kangaroo nhà nó.” Gallo nói. “Làm ơn chuyển máy cho ai đó có thẩm quyền càng sớm càng tốt. Chuyện này quan trọng lắm.”
Rolvaag đã cố bắt liên lạc với Corbett Wheeler từ chiều thứ Bảy mà không được. Giờ thì đầu mối đang ở trước mắt. “Tôi gọi liền đây,” viên thanh tra nói.
“Chọn cuộc gọi mà bên nghe trả tiền ấy!”
“Sếp giỡn?”
Gallo nhún vai: “Chính gã yêu cầu thế đấy.”
Ở đâu đó trên một ngọn đồi New Zealand, anh trai của Joey Perrone bắt máy ngay sau tiếng chuông đầu tiên. Karl Rolvaag đã mong đợi sẽ nghe giọng Úc châu như anh chàng chuyên vật cá sấu trên TV, nhưng Corbett Wheeler vẫn nói đặc giọng Mỹ.
“Anh lo vụ của em tôi hả?” Corbett hỏi.
“Đúng vậy,” Rolvaag đáp.
“Vậy nghe cho kỹ: em tôi không hề say xỉn và rớt khỏi thuyền,” Corbett Wheeler trình bày. “Thằng chồng nói gì cũng đừng có tin. Em tôi nó cũng không rảnh hơi mà nhảy xuống biển vào giờ đó.”
Đường truyền điện thoại quá bết, Rolvaag nghe tiếng mình vọng lại sau khi nói. “Tôi biết là cú sốc này rất lớn với ông. Nhưng cảm phiền cho tôi hỏi vài câu nhé!”
“Vụ việc đã được đăng trên báo Boca. Một người bạn của Joey gọi điện báo tôi.”
Rolvaag nói: “Chúng tôi cố liên lạc với ông từ thứ Bảy đến giờ. Em rể của ông có đưa tôi vài số, nhưng không gọi được số nào.”
“Đúng kiểu nó rồi đó,” Corbett Wheeler nói. “Vô dụng và vô lại.”
“Lần cuối ông gặp anh ta là khi nào?”
“Còn chưa gặp lần nào, nói chuyện cũng chưa nốt. Nhưng Joey kể tôi nghe đầy chuyện. Và tôi cam đoan nó là giống ăn tạp!”
Rolvaag đã từng nghe những nhận xét tương tự khi hỏi mấy người bạn của Joey. Nhưng không ai có bất kỳ manh mối gì về việc Charles Perrone ngoại tình.
“Ông nghi Chaz liên quan đến vụ mất tích của em gái mình hả?”
“Tôi sẵn sàng cá nguyên cái nông trại của mình,” Corbett Wheeler nói.
“Từ ngoại tình đến giết người xa lắm.”
“Từ những gì Joey kể tôi nghe thì thằng chó đó có thể làm mọi thứ.”
Rolvaag nghe tiếng cừu kêu phía đầu dây bên kia.
“Có lẽ chúng ta nên gặp nhau ông ạ,” viên thanh tra đề nghị.
“Thú thiệt là tôi lười đi lắm,” anh trai của Perrone nói. “Nhưng tôi sẵn sàng bay xuyên đêm để nhìn thấy thằng chó má ấy bị cột trên ghế điện và cháy khét như sân vận động Dodger.”
“Dạo này tử tù thường chọn thuốc độc cho nhẹ nhàng.”
“Cái gì? Tử tù mà cũng được chọn hả?”
“Tôi e luật cho phép chúng chọn đó,” Rolvaag nói. “Mà tiếng gì ghê vậy ông?”
“Một con cừu của tôi đang cố sinh ba đó mà.”
“Chừng nào tôi gọi lại cho ông được?”
“Đừng, để tôi chủ động gọi,” anh trai của Joey Perrone nói. Và bên kia đầu dây đã nghe tiếng cúp máy.
Vô dụng, vô lại, ăn tạp, thằng chó… quả là một tập hợp những biệt danh ấn tượng dành cho Chaz Perrone. Rolvaag báo cáo ngay với sếp Gallo về cáo buộc của Corbett Wheeler, sếp chỉ rụt vai và nói: “Phải đổ thừa chứ, chẳng lẽ thừa nhận em gái mình là một đứa vụng về mê trai. Anh có nói với hắn về vụ em gái bị phát hiện lái xe khi say rượu chưa?”
“Tôi chưa nói.” Rolvaag có thể kể tên hàng chục đứa bạn bị tóm vì lỗi lái xe sau khi uống rượu. Nhưng xỉn đến độ văng khỏi du thuyền là chuyện khác. “Lỡ ông Wheeler đúng về ông Perrone thì sao sếp?”
“Thì anh sẽ phải chứng minh là ổng đúng chứ sao và khi ấy chúng ta sẽ trở thành những thiên tài của ngành hình sự,” Gallo nói. “Nhưng nhớ chứng minh trước thứ Sáu.”
Rolvaag quá hiểu sếp mình nên chưa vội báo cáo về mấy cái móng tay trên kiện cần sa. Anh cần đợi kết quả kiểm tra DNA đã. Chi phí cho quy trình này không hề rẻ, sếp Gallo sẽ cáu tiết nếu phát hiện anh hành động mà không xin xét duyệt.
Gallo trả lại bức thư của cảnh sát trưởng ở Edina. Rolvaag gấp nó rồi bỏ lại vào phong bì. “Ba tuần liệu có đủ không sếp?”
“Ơ kìa, lãng tai hay gì? Thứ Sáu, Karl, và sau đó mình đóng vụ này lại.”
“Tôi không nói vụ này,” viên thanh tra nói. “Tôi nói vụ nghỉ việc ấy, sau ba tuần là xong thủ tục để nghỉ việc đúng không?”
Gallo ngồi xuống, lầm bầm: “Ừ, ba tuần. Anh thích thì tôi chơi.”
Chaz Perrone đậu con Hummer trên bờ đê cách đập tràn khoảng nửa dặm. Nó vẫn để máy lạnh, húp ngụm cà phê và đưa mắt nhìn mông lung ra phía xa xa của vùng Everglades. Gió đang thổi hiền hòa trên ngọn cỏ và tạo ra những gợn sóng trên mặt hồ nước đen.
Đám sâm cầm nhón gót băng qua những khóm dạ hương và huệ tây. Một con diệc vừa sục cái mõm của nó vào đàn cá tuế, trong khi con cá vược phóng khỏi mặt nước để đớp lấy một con chuồn chuồn. Giữa những diễn biến sinh động của thiên nhiên hoang dã, có một kẻ đau khổ đến cùng cực, đó chính là Chaz Perrone.
Trước quang cảnh thiên nhiên tuyệt vời, nó tuyệt đối không lay động. Bốn bề hùng vĩ, thủy ba dập dờn chẳng khiến nó thấy mình nhỏ bé, cũng không hề được xoa dịu. Với Chaz, những gì diễn ra trước mắt không xua nổi cảm giác nóng bức, hôi thối, vô vị và đầy bất an. Sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu nếu bây giờ đang được đứng trên mặt cỏ của sân golf Eagle Trace.
Red Hammernut chính là người đã thúc ép Chaz không được xao nhãng lịch làm việc, đề phòng giám sát viên của Chaz ở viện kiểm sát chất lượng sông nước xuống kiểm tra bất tử. Chính Red đã sắm con Hummer này cho Chaz sau mấy tháng trời nghe nó rên rỉ bùn lầy đã làm hỏng bộ giảm xóc của chiếc Chevy cỡ trung.
Chaz đã chọn một con Hummer vàng chóe vì tin màu sắc sặc sỡ của chiếc xe sẽ làm bọn báo đang núp lùm tại vùng Everglades phải hoảng sợ và bỏ đi nơi khác. Không hiểu sao Chaz rất sợ cái cảm giác bị một con báo nhảy ra vồ, dù trước giờ làm gì có vụ báo tấn công người. Chưa kể lũ báo còn trên đà tuyệt chủng. Thiên nhiên hoang dã giờ còn có sáu, bảy chục con.
Một đồng nghiệp trong ngành đưa ra cho Chaz một so sánh nhỏ: tỷ lệ bị một con báo Florida nhảy ra vồ sảng cũng ngang ngửa với việc bị thiên thạch rơi thẳng vào đầu. Chaz lắc đầu: tôi không chơi trò đánh cược à nha. Đến khi biết lũ báo thực sự mù màu, tức là dù cái xe có sơn màu gì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến chúng thì Chaz cũng không thất vọng mấy. Vì gạt đàn báo qua một bên, đàn bà có vẻ rất thích con xe màu vàng.
Chaz bước ra khỏi ghế tài, lập tức bị đám muỗi bâu vào xâu xé. Nó vụt tay đập loạn, miệng cằn nhằn không ngớt, cố nhét chân vào đôi ủng cao su bự chảng vừa mua ở khu săn bắn chuyên dụng. Một con rùa giật mình rơi khỏi tảng đá đánh tõm, khiến Chaz quay lại dòm trừng trừng vào những vòng tròn trên mặt nước. Năm lên bảy, Chaz được mẹ mua cho một chú rùa con, giống hay sinh hoạt ở khu vực ao hồ. Chaz đặt tên con rùa là Timmy. Vì con rùa cứ hay đi bậy ra nhà nên Chaz đã dạy cho nó bài học bằng cách quăng vào bồn toilet rồi giật nước.
Bì bõm bước vào đầm lầy tăm tối, Chaz không lo bị rùa tấn công vì biết rõ rùa không có răng. Nhưng lũ cá sấu thì khác, cái đám táo tợn, nhung nhúc ở nơi này. Chưa có một nhà khoa học nào ở Everglades từng bị cá sấu cấu xé hay ăn thịt, nhưng Chaz tin việc ấy sẽ xảy ra, không sớm thì muộn. Khu này mà không cấm vũ khí, nó đã vác theo khẩu súng trường hạng nặng. Đây không phải là lúc để bị khiển trách, đuổi việc hay chuyển công tác. Như vậy mọi thứ sẽ hỏng bét, bao gồm cả mối quan hệ rất có lợi với Red Hammernut.
Vậy là vũ khí phòng thân của Chaz chỉ còn độc nhất một cây gậy đánh golf. Nói cho cùng, Chaz dùng gậy hăm họa lũ bọ sát và côn trùng coi bộ hiệu quả hơn vụt banh. Bước xuống lối mòn ẩm ướt qua đám cỏ, Chaz vung cây gậy búa xua và gầm gừ như một con mèo rừng bị trĩ. Thiên nhiên run sợ thoái lui khi nó đập nước văng tung tóe, xộc thẳng vào khóm tảo, làm gãy nát cành non và dập tơi tả bụi hoa súng. Trong đôi ủng cỡ bự, nó bước dềnh dàng nom như Frankenstein. Kết quả thật mỹ mãn: toàn bộ động vật trong chu vi một dặm quanh đó đều tháo chạy.
Chỉ còn lại lũ muỗi và ruồi trâu vẫn đeo bám Chaz Perrone. Tiếng vo ve của chúng là thanh âm duy nhất của sự sống còn vang lên khi Chaz đến chỗ cái ao nước, nơi đặt trạm theo dõi đầu tiên. Còn lại, mọi thứ im như thóc và Chaz chỉ mong có vậy. Nó đứng ngay rìa mép nước sâu, thở hổn hển, chờ cho tiếng sóng dập dềnh do chính mình tạo ra chấm dứt.
Tại đây nó buộc phải ngâm mình dưới nước, vốn cao đến tận nách. Đôi ủng cao su bảo vệ cặp giò khỏi bị xây xước vì cỏ nhọn hay nọc độc của rắn hổ mang lúc này đây lại không có ích gì trong việc bơi lội. Nếu vận động mạnh, nước tràn vào ủng thì nó sẽ trở thành cái neo kéo Chaz xuống sâu. Thế nên nó chờ mặt nước bình lặng trở lại thận trọng quan sát coi có cái mũi cá sấu nào khả nghi gần đó không. Chaz luôn ám ảnh mình bị lũ cá sấu phục kích ngay tại đây - trong cái ao này - vì nó hoàn toàn trơ trọi và không có vũ khí phòng vệ. Nhiều lần nó ù té chạy khỏi trạm theo dõi vì nghi đang bị cá sấu truy sát ngay sau lưng. Hôm nay, “đối tượng khả nghi” chỉ là một con bé xíu, vừa đủ nhét vào hộp giày. Nhìn kích cỡ của đối thủ, Chaz tự tin bước tới, vung gậy golf đập một phát và hụt (như thường lệ). Ngay khi con cá sấu con bơi đi, Chaz cũng di chuyển.
Cầm cây gậy golf lên cao quá đầu, nó lội bì bõm nặng nhọc qua bùn lầy. Tuy Chaz đã vào tư thế sẵn sàng tấn công mọi thứ xuất hiện trên mặt nước bất kể lớn nhỏ, ăn thịt hay ăn cỏ, nhưng không có gì nhảy xổ ra đe dọa nó. Trong lúc di chuyển, Chaz chịu khó dừng lại nhiều lần để nhổ rễ mấy cây đuôi mèo con, một hành động nhỏ mà Chaz tin sau này sẽ giúp cho mình giàu có và sung sướng.
Chỉ mất ba phút là Chaz đã lấy xong mẫu nước thử từ trạm theo dõi. Chaz thực hiện động tác này chuyên nghiệp và nghiêm túc, dù nó đảm bảo chẳng có ma nào trong bán kính ba mươi dặm quanh đây. Red Hammernut bảo thỉnh thoảng người ta vẫn cử trực thăng theo dõi mấy nhà sinh học, nhưng Chaz chẳng tin điều đó. Sở dĩ nó làm việc này nghiêm túc vì Red yêu cầu nó làm thế. Mà Red là người cuối cùng mà nó dám giỡn mặt.
Chaz quay trở lại lối cũ sau khi xong việc, vẫy đạp la lối y hệt lúc đi vô. Sau khi bỏ mẫu thử vào con Hummer, Chaz lột đôi ủng ẩm ướt dơ bẩn ra khỏi chân. Nó lấy chai Gatorade vị xoài từ thùng đá, ngồi trên thanh chắn xe mà uống, “vũ khí” là cây gậy golf vẫn trong tầm với. Chaz lau mồ hôi bằng cánh tay áo lem luốc, thầm rủa: “Chỗ này cứ như hố cứt. Đéo thể tin được là người ta lấy chín tỷ tiền thuế của dân để cứu cái đống này.”
Chaz dùng ống nhòm kiểm tra bốn phương tám hướng dọc theo đường đê, không phát hiện ra phương tiện đi lại nào khác. Trên đầu không thấy trực thăng hay máy bay gì, chỉ có lũ côn trùng bay lào xào theo chiều kim đồng hồ.
Charles Regis Perrone thỏa mãn nốc hết chai Gatorade, quẳng luôn cái vỏ nhựa vào bụi cỏ. Sau đó nó mở nắp hộp chứa mẫu thử, đổ thứ nước có màu trà lên vết bẩn dưới chân mình.
Sông với chẳng cỏ, đúng là đồ của nợ, nó nghĩ.