CHƯƠNG 9
Một đêm xuân năm 1896, đứa con lỗi lạc của vùng đất Pennsylvania - Hamilton Disston - tự sát trong bồn tắm với phát đạn xuyên đầu. Trước đó, ông đã sa vào trầm cảm sau khi đốt hết toàn bộ tài sản vào một dự án không tưởng: tháo nước cho bốn triệu hecta đầm lầy ở Florida, còn được biết với cái tên Everglades.
Dù đã chọn cách xuống mồ như một kẻ bại trận, nhưng về sau Disston lại được hậu thế xem là một nhà tiên phong, một nguồn cảm hứng to lớn. Nhiều năm sau đó, một binh đoàn những kẻ hám lợi, đầu cơ tích trữ đã đuổi theo đủ loại kế hoạch điên rồ khác nhau lấy cảm hứng từ giấc mơ không tưởng của ông. Lũ kền kền ấy đến từ mọi ngành nghề có thể: phát triển dự án, ngân hàng, giao thông công chánh, chủ đầu tư bất động sản, địa chủ cây ăn trái, kinh doanh nông trại, tập đoàn cá mập… Và sau cùng nhưng không kém phần quan trọng: các chính trị gia được điều khiển bởi cái lũ vừa kể.
Vùng đầm lầy không cách nào khô ráo kia sau cùng được chắn đê, đắp hào để trở thành bể chứa nước khổng lồ trực thuộc Công Binh Lục Quân Hoa Kỳ. Hàng tỷ khối nước sạch bao nhiêu năm nay vẫn chảy thẳng ra vịnh Florida giờ đã bị giữ lại trong khu vực làm nguồn cung cấp nước cho công nông nghiệp và các tiểu khu đô thị đang nổi lên. Ống dẫn nước đầu tiên đặt ngang qua cao tốc, đường dẫn thứ hai cắt thẳng khu vực hình ngón tay cái của bán đảo, làm gián đoạn nghiêm trọng dòng chảy nhỏ về phía nam từ Hồ Okeechobee. Hậu quả là nguồn nước quý báu của đầm lầy khi chảy về đến nơi chỉ còn là dòng nước nhiễm độc bởi thuốc trừ sâu, phân bón và thủy ngân.
Nhằm bảo vệ đồn điền và các khu đô thị khỏi tình trạng ngập lụt - hậu quả dễ lường trước của việc chiếm dụng đầm lầy - hàng trăm dặm kênh đào đã được dựng lên để dẫn nước lụt ra biển trong mấy tháng mưa mùa hè. Các kỹ sư sử dụng một chuỗi các trạm bơm nhằm điều khiển mực nước theo ý muốn cũng như thời tiết, không ai đoái hoài gì đến lịch sử vận hành các dòng nước tự nhiên. Vậy là Everglades cùng với đời sống thiên nhiên hoang sơ trù phú của nó bắt đầu bị hủy diệt, nhưng không một ai, từ cá nhân đến tập thể lên tiếng cả.
Trong mắt họ, nó chỉ là một cái đầm lầy khổng lồ vô dụng mà thôi.
Những năm cuối của thế kỷ 20, mấy trận hạn hán kéo dài đã đập tan giả định kiêu căng hợm hĩnh của loài người về sự vô hạn của nước nguồn. Những kẻ kiếm lời từ việc khuyến dụ đầu tư nhà đất và kinh doanh du lịch tại miền Nam Florida bắt đầu suy nghĩ: hay là bọn hoạt động môi trường nhiễu sự đã cảnh báo đúng? Nếu Everglades cạn nguồn nước hoặc quy hàng trước mức độ ô nhiễm của sự phát triển thì nguồn nước ngầm tự nhiên cung cấp nước uống từ Palm Beach đến Keys đều bị ảnh hưởng. Sự sống sẽ bị bóp nghẹt còn những mối hời áp phe tan biến như bong bóng xà phòng.
Thảm cảnh diệt chủng đặt ra trước mắt các vị chính trị gia của Florida. Tất cả bọn họ, ngay cả những tên bẩn thỉu hám lợi nhất, cũng trở giọng tán dương giá trị của Everglades như di sản thiên nhiên cần được bảo tồn bằng mọi giá. Các quan chức địa phương mới thập kỷ trước còn cổ động cho hoạt động hủy hoại khu vực này thì nay bắt đầu đọc diễn văn ai oán hùng hồn than khóc cho sự kiệt quệ của vùng đất. Cả lũ còn mặt dày đưa Everglades vào các hoạt động tranh cử của mình, từ dàn cảnh chụp hình trên kayak vòng quanh East Cape cho đến đi bộ leo núi ở Shark Valley, phía sau là lũ cá sấu đang lờ đờ ngủ và những con cò trắng như tuyết. Giải cứu Everglades trở thành “sứ mệnh” béo bở, một miếng bánh ngon mà tất cả các phe phái chính trị hăng hái tranh giành, còn những người bỏ phiếu thì đồng lòng hưởng ứng.
Nhưng sự thật đau lòng là thiên nhiên ở đây đâu còn lại gì nhiều để giải cứu. Chín mươi phần trăm vùng đầm lầy đã thành dự án phát triển nông nghiệp hoặc sân chơi của bọn trọc phú. Khu vực duy nhất xem ra chưa bị giày xéo, chút tàn dư chưa kịp đưa vào guồng máy sinh tiền là Công viên quốc gia, nơi vẫn còn nguồn nước thiên nhiên được đánh giá là tinh khiết dù thiếu kết quả kiểm chứng thuyết phục. Dù sao chăng nữa, cuối thập niên 90, Quốc hội Mỹ và Pháp chế Florida đã đồng ý chi tám tỷ đô la cho việc cải tạo hệ sinh thái thiên nhiên, đồng thời giảm ô nhiễm môi trường cho dòng sông huyền thoại. Rất nhiều người đàng hoàng tin đây là một sứ mệnh cao cả.
Nhưng cũng có những kẻ như Samuel Johnson Hammernut, chỉ quan tâm đến việc cứu sống Everglades vì lý do duy nhất: mười ba ngàn hecta rau diếp, bắp cải, ngô ngọt, cà chua, củ cải, rau diếp mạ và rau mùi tây của lão sẽ có được nguồn tưới tiêu rẻ bèo và không giới hạn. Red Hammernut quan tâm đến đời sống hoang dã cũng nhiều ngang ngửa đội nhân công làm việc quần quật bằng mức lương chết đói trên nông trại của lão. Họ là những con người bị cầm tù trong một món nợ vô hình mà đám đốc công bạo lực giáng xuống đầu.
Bất chấp những cảnh báo về môi trường, Red Hammernut vẫn tiếp tục sử dụng đầm lầy khổng lồ ấy như cái nhà xí và kệ bà luật pháp. Vốn có đầu óc thực tế, hắn quan sát rất kỹ các quan chức tham gia dự án cải tạo Everglades và quyết định hành động nhằm bảo đảm quyền lợi của mình. Tám tỷ đô là cả núi tiền. Theo tính toán của Red Hammernut thì hơn một phần ba đã vô túi những tên vận động hành lang, luật sư, tư vấn, đại gia, mấy thằng được ưu ái bởi các vị chính trị gia “gà nhà”. Phần còn lại được các đoàn thể liên quan trong hội đồng thành phố, tiểu bang và tổ chức liên bang sử dụng, không ít thì nhiều cũng đúng mục đích, nhưng hiệu quả thì rất ít. Những cơ quan tổ chức năm thì mười họa mới hợp tác với nhau.
Đơn vị nổi bật nhất của mớ đoàn thể kia là Sở Quản lý chất lượng nước Nam Florida. Họ thuê các nhà sinh vật học ra thực địa kiểm tra độ nguy hại của nước thải từ nông trại. Đây là một nhiệm vụ khá đặc biệt, có khả năng làm đổ nồi cơm của Red Hammernut.
May thay nhân sự của sở được chỉ định bởi Thống đốc, vốn là “người quen” của Red. Vị chính khách này đã tái đắc cử nhờ cả mớ tiền quyên góp từ Red và cả chiếc máy bay phản lực Cessna Citation mà lão cho mượn. Chẳng có gì ngạc nhiên khi cuộc điện thoại gửi gắm của Red, ấy là giới thiệu một ứng viên trẻ vào làm việc, nhanh chóng được giải quyết.
Vào được sở rồi, nhà sinh vật học trẻ tuổi kia lập tức được điều đi kiểm tra chất lượng nước thải từ các nông trại.
Về mặt giấy tờ, Tiến sĩ Charles R. Perrone là một cái tên sáng giá, được đặt đúng nghề đúng việc.
Và Red Hammernut cũng có đúng người ở nơi mình cần.
“Ông buộc mình phải bận rộn là phải lắm,” Karl Rolvaag nói.
Chaz Perrone gật đầu miễn cưỡng.
“Tôi có nói chuyện với giám sát của ông ở sở. Bà ấy bảo ông cứ nghỉ ngơi thêm một tuần, thậm chí lâu hơn nữa nếu cần mà.”
Chaz nhăn nhó: “Ông nói chuyện với Marta rồi à? Chi vậy?”
“Vẫn là thủ tục ấy mà,” thanh tra nói.“Nhưng bà ấy bảo ông vẫn khăng khăng đến sở làm. Và tôi nói với bà ấy: Ông làm vậy là phải.”
“Vâng, chứ tôi còn biết làm gì nữa đây? Lang thang trong nhà để trầm cảm luôn hay sao?”
Hai người đang đứng nói chuyện trong bếp. Chaz cầm chai Budweiser trong khi Rolvaag nhấp ngụm Sprite. Chaz vừa đi làm về được năm phút thì vị thanh tra này xuất hiện.
“Tôi thật sự mệt quá,” Chaz nói câu này lần thứ ba rồi.
“Cũng phải, ngày hôm nay nóng như cái lò ấy,” Rolvaag vừa đọc thấy trên bản tin thời tiết là một cơn bão tuyết đầu xuân đã tràn vào Twin Cities. Vậy mà giờ vẫn phải ngồi đây, giữa Florida, với máy lạnh bật phà phà. Có quái đản không chứ.
Anh nói: “Marta có giải thích sơ cho tôi về công việc của ông, nghe có vẻ thú vị đấy. Tôi cá là trong lúc vào đầm lầy, ông thường đụng phải lũ rắn nhỉ?”
“Không đụng phải mà là cán ngang qua bằng xe tải.” Chaz không thể kiềm nổi giọng mỉa mai. “Tôi chẳng muốn thô lỗ đâu, nhưng hôm nay tôi quá mệt ông ạ!”
“Được rồi, tôi hiểu mà,” viên thanh tra đã uống xong chai nước ngọt và giơ cái chai rỗng lên. “Ông có phân loại rác không?”
Chaz làm động tác thảy vào thùng. “Hãy để Chúa phân loại chúng,” nó nói.
Rolvaag không ném vào thùng mà để cái chai lên bàn. “Có một điểm về buổi tối trên tàu Sun Duchess mà tôi cần phải làm rõ.”
“Ông biết mình giống ai không? Y hệt cái ông cảnh sát trên TV, cái ông Columbo ấy. Cứ hỏi, hỏi, hỏi hoài.” Chaz nói. “Tôi cá là ông mê cái show đó dữ.”
“Nói thiệt với ông là tôi chưa coi tập nào.”
“Nhưng người ta hẳn phải nói với ông điều tương tự đúng không? Là ông giống y hệt Columbo. Không phải giống ngoại hình, mà giống cái cách làm việc liên tục ấy. Tôi nói theo ý tốt nhen.”
Rolvaag nói: “Ồ, phim chiếu mấy giờ tối vậy? Để tôi canh xem thử.”
Chaz lắc đầu. Má cái thằng đúng vô vọng. “Phim hết chiếu cả trăm năm rồi ông ơi. Nhưng ông muốn hỏi gì thì hỏi đi.”
Viên thanh tra trông dễ chịu hẳn khi được trở lại chuyên môn. “Chỉ một chi tiết nữa thôi. Ông có chắc chắn về thời điểm bà nhà ra khỏi phòng không?”
Chaz tự dưng thấy ruột quặn lên. “3 giờ rưỡi sáng, tôi đã nói rồi mà. Tôi nhớ vì lúc đó có nhìn đồng hồ.”
“Có khi nào đồng hồ của ông bị hư không?” Rolvaag đã trở lại cái giọng nói vô hồn hờ hững. “Tôi phải hỏi lại vì chúng tôi tìm thấy một bằng chứng cho thấy vợ ông có khi đã rớt xuống biển vài tiếng trước thời điểm mà ông khai.”
Viên thanh tra tựa người vào bếp, hai tay lãnh đạm bỏ vào túi quần.
Chaz đáp: “Không thể có chuyện đó được!”
“Tôi cá là ông sẽ giải thích.”
“Vậy chứng cứ ông tìm thấy là cái gì mới được?”
Rolvaag cau mày ngại ngần. “Thứ lỗi, cái này tôi không tiết lộ được.”
Trong ngăn kéo bàn làm việc của Rolvaag là kết quả kiểm tra mẫu móng tay trên kiện cần sa. Và nó là của Joey Perrone.
Chaz nói: “Ông ơi, mình đang thảo luận về vợ của tôi đó. Và ông bảo là có gì đó không thể nói với tôi ư?” Chaz thấy gò má mình đang nóng lên, nhưng vậy thực ra cũng tốt, vì nó là biểu lộ của sự giận dữ. “Ông tìm thấy xác của cổ rồi ư? Bà mẹ, tôi có quyền được biết!”
Rolvaag nói: “Không đâu thưa ông, chúng tôi chưa tìm thấy xác. Đấy là sự thật. Một phần cơ thể cũng không tìm được nốt.”
“Vậy thì nó là cái quái gì chứ?”
Chaz suy nghĩ muốn nát óc. Joey đâu có mang theo ví, vậy có thể là một mảnh vải được sóng đánh vào bờ, mà chỗ ấy thì không khớp với tính toán của máy tính về vị trí của cái xác, tính cả yếu tố dòng chảy những và sức gió.
“Bởi vậy ông mới muốn có mẫu thử DNA đúng không?” Chaz gặng hỏi.
“Chúng tôi gọi đó là điều tra chủ động. Nhiều chi tiết cần được giữ kín vào thời điểm này thưa ông,” Rolvaag nói. “Tôi xin lỗi, Chaz.”
Lần đầu tiên thanh tra gọi nó bằng biệt hiệu. Cái thái độ gần gũi đột ngột này chỉ càng làm cho thằng Chaz thêm lo. Nó xem phim điều tra án mạng trên TV quá nhiều. Trong mấy cái phim ấy, mỗi lần cảnh sát giở giọng thân mật là nghi phạm chuẩn bị lên đường.
“Tôi mất vợ mà ông lại ở đây chơi trò tâm lý với tôi,” Chaz nói, diễn cảm xúc tổn thương và thất vọng. “Cứ nói huỵch toẹt ra là ông nghĩ tôi khai man đi!”
“Tôi chỉ nghĩ đôi khi người ta nhớ nhầm.”
“Lần này thì không có đâu.”
“Nhưng lúc đó ông cũng uống kha khá rượu rồi, chính ông nói thế. Rượu hay làm người ta nhớ lộn,” Rolvaag nói.
Chaz mở nắp chai bia thứ hai, chầm chậm uống, chờ cảm xúc của mình bình ổn trở lại. Dường như thanh tra đang mở đường cho nó thoát khỏi vụ này. Đội Tuần duyên đã ngưng cuộc tìm kiếm, vậy thì gã còn ở đây thảo luận về thời điểm Joey rớt xuống biển làm gì nhỉ? Nếu người ta vớt được cái gì của cổ, chuyện gần như không thể sau bốn ngày trôi dạt trên biển, thì việc cổ đã trôi xuống phía nam bao xa còn có ý nghĩa gì đâu! Cá mập, hoặc mấy loài ăn thịt dưới biển hoàn toàn có thể tha một phần xác của Joey đi chệch khỏi quỹ đạo dự báo mà.
Chaz ôm đầu: “Bữa đó đúng là tôi khá say. Có thể tôi hơi nhầm lẫn về thời gian Joey đi ra ngoài. Hoặc có khi tôi nhìn lộn giờ cũng nên.” Để tăng thêm sự thuyết phục, nó gõ cái mặt đồng hồ Timex rẻ tiền, thứ nó chỉ đeo trong những ngày phải đi lấy mẫu thử ở Everglades.
Như thường lệ, biểu hiện trên mặt Rolvaag thật khó diễn tả.
“Có hai khả năng ở đây,” thanh tra nói. “Và chúng ta sẽ phải suy nghĩ về nó. Cám ơn vì lon pop nhé.”
“Cái gì cơ?” Chaz cười to.
“Nước giải khát,” Rolvaag nói lại. “Nhân tiện cũng phải báo cho ông biết: có người dòm ngó nhà ông, một gã to cao lông lá lái con tải nhỏ, đậu ở góc phố. Tôi thử ngó qua biển số thì biết đó là xe thuê.”
“Thiệt?” Chaz nghĩ: để coi Red nói gì về vụ này.
“Ông có nghi đó là ai không?”
Chaz thò đầu ra khỏi ngưỡng cửa và nhìn xuống đường. “Tôi không biết người đó có thể là ai đây,” nó nói láo. “Mà làm sao ông biết được là nó đang theo tôi?”
“Chỉ là phỏng đoán,” Rolvaag cười. “Ông có danh thiếp của tôi. Cần gì cứ gọi nhe.”
“Được,” Chaz nói, lầm bầm trong đầu: Tao sẽ gọi chừng nào mặt trời mọc đằng tây nhé.
Nó đứng ở bục cửa sổ, nhìn chiếc xe của thằng thanh tra tọc mạch xa dần. Khi điện thoại đổ chuông, nó thiếu điều giật ống nghe muốn văng khỏi bức tường.
Đù má cái cuộc đời này, nó than thân. Lẽ ra giờ này bố mày phải được tự do mới phải.
Biến khỏi cái mảnh đất chết tiệt này.
Chu du đâu đó trên biển.
Vậy mà thằng thanh tra chó chết cứ lởn vởn làm phiền hoài, còn một thằng điên nào đó lẻn vào nhà, lôi đồ của Joey ra giỡn. Và bây giờ có thêm một thằng vệ sĩ dở hơi cám lợn do Red đào ở đâu đó lên nữa.
Khi Chaz bốc máy, đầu dây bên kia là thằng Tool.
“Ủa thằng nào mới trong nhà ra vậy?”
“Thằng đó thì sao?” Chaz hỏi lại.
“Mày muốn tao theo nó không?”
“Theo chi ông nội?”
Tool gầm gừ: “Ai biết. Đập cho nó… dập lá lách luôn.”
Chaz thở dài: “Cớm đó.”
“Cớm… thì sao?”
Đéo thể tin được, Chaz nghĩ: “Mày tha nó đi, làm ơn!”
“Ờ, mày nói sao thì sẽ như vậy,” Tool nói. “Nhưng mà giờ tao mắc ỉa. Trong lúc tao đi ỉa thì mày sẽ ổn chớ?”
“Tao lo được.”
Chaz gác máy, lột đồ nhảy vô vòi sen, xả nước nóng lên người suốt 20 phút. Suy nghĩ muốn bể đầu, vậy mà nó vẫn không nhìn ra nổi lỗ hổng nào trong kế hoạch giết vợ. Không thể được, kế hoạch đã hoàn hảo rồi.
Nếu có gì đó sai, thì đó chỉ là cái thế giới chết tiệt xung quanh nó sai mà thôi.
“Tôi đã nói dối,” Joey Perrone cất tiếng.
Cô mở miệng sau một ngày dài chẳng làm gì, ngoài bơi lội, tắm nắng, rồi thả hồn vào quyển sách của John D. MacDonald tìm được trong hộp đồ nghề của Mick Stranahan.
“Tôi đã nói dối anh,” cô nói lại lần nữa.
Stranahan vẫn không ngẩng đầu lên. Anh vẫn đang xử bọn cua đá với cái muỗng. Quan trọng là phải dùng lực ở cổ tay, anh giải thích. Mảnh vỡ vỏ cua bay tứ tung như mảnh đạn.
“Nói dối vụ gì?” Anh hỏi.
“Về việc không động vào thứ gì trong nhà nữa khi vào nhà đi tè. Trong cái tủ đứng có một mớ hình.”
“Kiểu hình cưới chứ gì?”
“Hình cưới, hình trăng mật, hình đi du lịch chung. Đủ thứ hình ảnh cái thời còn hạnh phúc.”
“Ủa rồi sao tụi nó ở trong tủ?”
“Thằng chó chồng tôi tháo xuống hết rồi nhét vào tủ chứ sao. Tôi đoán nó chỉ vừa về nhà năm phút là tháo xuống sạch. Chắc là sau khi gây tội, nó không dám nhìn mặt tôi.”
Stranahan phủi miếng vỏ cua màu cam dính trên gò má cô. “Rồi cô làm gì?”
Joey xoay người xa ra: “Cho tôi thêm ly rượu được không, quý ông?”
“Cô làm gì với đống hình, nói đi!”
“Không phải với cả đống, mà chỉ một tấm,” Joey nói. “Tôi tháo ra khỏi khung rồi nhét xuống gối nó.”
“Chúa ơi!” Stranahan nói.
“Nhưng trước hết tôi lấy cây kéo…”
“Và cắt hình cô ra khỏi đó?”
Joey chớp mắt ngạc nhiên: “Sao anh biết hay vậy?”
“Không nói đâu!”
“Kinh nghiệm cá nhân chớ gì. Vợ hay bạn gái?”
“Vợ ba, nếu trí nhớ còn ngon.”
Joey thở dài: “Lần sau mình phải sáng tạo hơn.”
Họ ăn ở trong nhà. Đầu Đất tru lên đòi vào chung. Stranahan thì im lặng và Joey bắt đầu lo là mình đã đi hơi xa, có khi làm hỏng cả một kế hoạch.
Cô đặt ly rượu xuống bàn: “Anh muốn mắng tôi vì đã cắt tấm hình ấy thì mắng đi. Hãy nhớ đấy cũng là nhà của tôi nhé. Đồ vật của tôi thì nó ném đi hết cả.”
Stranahan nói: “Không có tai nạn nào ở Tampa giữa Chaz và gã tài xế say xỉn cả.”
“Sao anh biết vụ đó?”
“Tôi đã kiểm tra với bên Tuần tra Cao tốc. Không có hồ sơ nào về vụ đó luôn,” anh nói. “Nên vụ bồi thường là xạo, rõ ràng.”
“Nghĩa là nó không hề có của chìm của nổi nào cả,” Joey nói khẽ.
“Gần như chắc chắn. Muốn nghe kế hoạch của chúng ta không?”
“Nếu nó giúp tôi đỡ buồn thì muốn.”
“Mình sẽ tống tiền chồng cô,” Stranahan nói.
“Hiểu rồi.”
“Nói cho đúng là mình sẽ làm cho nó nghĩ là nó đang bị tống tiền.” Stranahan chấm càng cua vào chén bơ chảy.
“Nhưng tống tiền bởi ai mới được chứ?” Joey hỏi.
“Bởi người nào biết Chaz giết cô ấy,” Stranahan mỉm cười và làm thêm miếng cua nữa. “Mình sẽ phải bịa ra cái người ấy.”
Joey thích thú với kế hoạch dù chưa hiểu hết ý của Stranahan.
“Đánh lạc hướng nó,” anh giải thích thêm. “Chaz giờ đang sợ phát rét vì biết mình bị theo dõi. Tôi cá là cô không muốn nó phát hiện ra chính cô là đứa theo dõi, chí ít là chưa muốn, đúng không?”
Joey gật đầu đồng tình.
Stranahan nói: “Không có ý công kích gì đâu, nhưng mấy cái thông điệp ngầm mà cô để lại - cái đầm trong tủ, cây son trong ngăn kéo, tấm hình dưới gối - đều là trò của người vợ đau khổ hết. Quá nhiều thứ để nó có thể liên kết lại.”
“Ừ. Anh đúng rồi!”
“Vì vậy mình phải đánh lạc hướng nó, phải vờ là ai đó muốn làm cho nó phát điên lên.”
“Thí dụ như một người vô tình thấy nó xô tôi khỏi tàu thì sao nhỉ?”
“Giờ thì cô bắt đầu hiểu rồi đó.”
“Một nhân chứng bí mật bỗng động lòng tham,” Joey hăng hái. “Kế hoạch này hay đó. Nhưng chúng ta có thể dựng lên ai đây, Mick? Và làm sao cái người tưởng tượng này biết được thân thế của Chaz? Khoan khoan, ừ, làm sao nó vào nhà được nếu không có chìa khóa nữa?”
“Nào, chậm lại thôi,” Stranahan nói với cô. “Tôi có một ý này.”
“Tôi biết anh có mà!” Joey Perrone bỗng cảm thấy khá hơn những ngày qua, tất nhiên là không chỉ vì rượu.
“Nhưng trước hết, mình vẫn cần phải biết vì sao Chaz muốn cô phải chết. Biết càng nhiều thì càng dễ sáng tạo, tống tiền càng chân thật hơn.”
Joey rụt vai, coi vẻ khó quá. “Tôi nghĩ suốt ấy chứ, mà có biết đâu!”
“Đừng lo. Chúng ta sẽ sớm biết thôi,” anh nói kèm một cái nháy mắt. “Và sẽ vui đấy!”