← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 12

Trên đường quay lại Miami, Joey bắt đầu nghĩ về lần làm tình cuối cùng trong cabin của tàu Sun Duchess, chưa đến năm tiếng trước khi thằng chồng hất cô xuống biển. Cô không nhớ bất kỳ biểu hiện nào khác thường của Chaz, nó vẫn giữ nguyên phong cách trâu nước hùng hục quen thuộc. Càng nghĩ càng tức, nó đã quyết tâm giết mình, vậy mà còn ráng hốt cú chót!

“Là đàn ông, anh phải giải thích cho tôi nghe, Mick, vì tôi nghĩ nát óc cũng không cách chi hiểu được.”

“Vụ gì nào?”

“Chaz và tôi đã làm chuyện ấy trên thuyền trong lúc chờ ăn tối. Đấy là cái đêm nó quyết định ra tay.”

“Như thể mọi chuyện vẫn bình thường, cuộc đời vẫn đẹp sao?”

“Chính xác,” Joey nói. “Làm sao nó… lên được ta?”

“Tôi nghĩ thuật ngữ họ gọi là chia thành ngăn .”

“Nghĩa là anh cũng từng làm được như thế?”

“Hiếm, nhưng cũng có,” Stranahan nói.

“Làm ơn ví dụ cụ thể đi.”

Hơi dè dặt, anh trả lời: “À ừ… thì cũng có một lần, tôi làm tình với một cô chỉ 45 phút trước khi dọn ra khỏi nhà.”

“Anh biết chắc chắn sẽ chia tay?”

“Ừa. Tôi đã thuê chỗ ở riêng luôn rồi.”

“Và cổ thì không biết gì?”

“Ừ, rõ ràng là vậy,” Stranahan nói. “Nếu dựa trên phản ứng của cổ.”

Joey vẫn đang chăm chú nhìn anh. “Ồ, kể tiếp đi chứ. Chuyện làm tình là chủ ý của anh hay của cổ?”

“Người ta bảo tình dục sẽ làm dịu căng thẳng, mà bữa đó tôi cực kỳ stress.”

“Thôi đừng có xạo,” cô nói. “Anh chỉ muốn hốt cú chót.”

“Thì… cũng đúng.”

“Đàn ông các anh rặt một lũ vô lại.”

Stranahan vẫn tập trung lái xe. “Nhưng nói gì thì tôi cũng không bao giờ ném một người phụ nữ xuống biển sau khi có một màn làm tình thật oách với cổ. Mà ngay cả khi cú ấy… không oách thì tôi cũng không ném.”

“Chà, như một người đàn ông chân chính.”

“Và để tôi nhắc cho cô nhớ là thằng chồng…”

“Đừng gọi nó bằng từ ấy nữa. Làm ơn.”

“Được rồi,” Stranahan nói. “Để tôi nhắc cho cô nhớ là thằng Chaz còn lâu mới xứng đáng được gọi là vô lại. Nó là một thằng sát nhân máu lạnh bẩn thỉu.”

Joey mệt mỏi dựa vào ghế ngồi: “Cái cảm giác chán ghét bản thân gọi là gì nhỉ?”

“Thừa hơi.”

“Không. Tự nhục, tôi nghĩ vậy. Những câu hỏi ấy cứ văng vẳng trong đầu tôi hoài. Mày nghĩ cái đếch gì vậy Joey? Sao mày không nhìn ra con người đó? Sao mày có thể chịu đựng được cái thằng điếm đàng như vậy? Mick, ngồi cạnh anh là một con người đã hoàn toàn đánh mất tự tôn của mình.”

Cô cảm thấy một bàn tay đang vuốt nhẹ lên hai gò má mình. Anh đang kiểm tra coi cô có khóc không. “Đừng lo,” cô nói. “Tôi đã khóc chán rồi.”

“Vậy giữa hai chúng ta chỉ còn lại một cái tôi lành mạnh. Thế cũng đủ rồi.”

“Sao anh lại giúp tôi?” Joey hỏi.

“Vì tôi nhớ cảm giác được truy đuổi mấy đứa như Chaz. Đấy là phần vui nhất trong nghề của tôi mà, cho lũ khốn nạn lên thớt.”

“Không phải vì anh muốn ngủ với tôi đó chớ?”

Stranahan gõ ngón tay liên hồi lên bánh lái. “Nói nghe nè, mình đừng đề cập đến chuyện này nữa được không?”

“Trời ơi tôi đói quá. Kiếm gì ăn đi.”

“Một tiếng nữa là về nhà rồi,” anh nói.

Joey không nói thêm nữa. Cô biết Mick ghét thành phố này nhường nào.

“Thỉnh thoảng tôi có nghĩ đến việc giết thằng Chaz. Nghiêm túc đó,” cô thừa nhận. “Mới tối qua hôm, tôi chiêm bao thấy mình lấy cây dù đánh nó đến chết. Nghe điên không?”

Stranahan bảo cảm giác uất ức không có gì là điên cả. “Nhưng chúng ta đang có một cách hay hơn để báo thù. Nếu mọi thứ cứ trót lọt thì tụi mình sẽ không bị truy cứu gì cả.”

“Hôm nay chúng ta có thu hoạch được gì không? Ý tôi là ngoài chuyện tưới cái vườn cho nó.”

“Có chứ,” Stranahan lấy tay vỗ vào túi áo. “Cái biểu đồ mà tôi lấy trong cái ba lô thằng Chaz dùng để ghi lại mức độ nhiễm phốt pho ở các khu vực đặt máy kiểm tra. Nó nổi điên với cô trong lúc viết xuống những con số này.”

“Phốt pho? Kiểu phân lân trong nông nghiệp ấy hả?” Joey hỏi.

“Chính xác.”

“Rất hại cho Everglades.”

“Theo những con số hiện có thì chưa đâu,” Stranahan nói.

Joey vật lộn kết nối những dữ kiện lại với nhau. “OK, vậy nhé: thằng Chaz không thích làm việc. Thay vì ra thực địa, nó lẻn đi đánh golf. Sau đó nó ngồi bịa ra những con số để qua mặt sếp.”

“Đúng kiểu của chàng rồi đấy.”

“Rồi tôi bất thình lình về nhà, hỏi một câu vu vơ,” Joey nói. “Và nó nổi điên lên vì nghĩ là tôi đã phát hiện ra trò ma của nó. Nên nó xấu hổ, nó nhục nhã.”

“Và vì thế nó mất bình tĩnh.”

“Đúng rồi. Nhưng khoan đã. Không lẽ anh nghĩ chỉ vậy mà nó quyết phải giết tôi cho được? Chỉ vì… phân bón?”

“Nào, tôi không nói mình đã tìm ra câu trả lời. Nhưng chúng ta vừa có một mảnh ghép của câu đố.”

Joey hoài nghi điều anh vừa nói. Bởi vì cô không thấy cơn điên của Chaz liên quan gì đến những gì diễn ra trên thuyền hai tháng sau đó. Ngay cả khi nó đang viết khống những dữ kiện khoa học thì chuyện cũng không có gì quá ầm ĩ. Có phải bí mật hạt nhân đâu chứ.

Cô nói: “Trước khi mọi chuyện kết thúc, tôi muốn mặt đối mặt với nó. Anh có thể giúp tôi không?”

“Joey, còn tùy tình hình đã.”

Khi về tới Dinner Keys, Stranahan đậu con Suburban kế con Cordoba cổ lỗ sĩ dưới gốc cây si. Một cơn mưa lạnh đổ xuống khi họ đến được chỗ chiếc tàu đang neo. Hai người đã che chung một cái áo mưa trên đường trở lại đảo.

Khi Karl Rolvaag lái xe về phía bắc trên đại lộ U.S. 27, màu xanh long lanh của những cây sậy ở Everglades nhường chỗ cho những cánh đồng mía trải dài đến hút tầm mắt. Tại hồ Okeechobee, viên thanh tra rẽ sang hướng tây vào đại lộ State Road 80, rồi chạy thẳng về thị trấn LaBelle. Anh đang tranh thủ thời gian để thưởng ngoạn cảnh vật trên đại lộ. Những cánh đồng bát ngát phân thành những ô vuông xanh làm anh nhớ đến mùa hè của miền tây Minnesota.

Địa chỉ Cơ sở thu mua cà chua của Red hóa ra cùng chỗ với Nông trại Hammernut. Rolvaag tiếp tục đi thẳng thêm nửa dặm đường sỏi trước khi đến đích là một khu phức hợp hiện đại trực thuộc văn phòng thành phố. Người tiếp tân liếc nhìn thấy phù hiệu cảnh sát của Rolvaag, lặng lẽ bốc điện thoại gọi một cuộc, rồi hỏi anh dùng cà phê, soda hay nước chanh.

Một người phụ nữ tự giới thiệu mình là “trợ lý điều hành” của ông Hammernut xuất hiện, mời Rolvaag vào phòng họp nhìn ra một cái ao nước tròn vành vạnh. Tường phòng họp treo đầy ảnh đóng khung của các vị chính khách, nghị sĩ quốc hội, Norman Schwarzkopf, Nancy Reagan, Bill Clinton, ba đời nhà Bush, thậm chí cả Jess Helms, ai nấy đều đứng cạnh một nhân vật lùn hơn, tóc đỏ. Rolvaag đoán hẳn đó phải là Samuel Johnson Hammernut. Mấy bức hình này chắc chắc không phải để trang trí tường trống mà nhằm nhắc khéo khách đến thăm, là họ đang chuẩn bị đụng độ một đối thủ nặng ký. Sau khi tìm kiếm qua loa thông tin trên mạng, Rolvaag biết đế chế Hammernut đã bành trướng ra ngoài lãnh địa Florida, nào là trang trại đậu nành ở Arkansas, đậu phộng ở Georgia, bông vải ở Nam Carolina. Rõ ràng lão này toàn chọn bạn tai to mặt lớn để phục vụ cho việc làm ăn. Lão có vướng vào vài vụ bê bối liên quan đến bạc đãi người lao động hay vi phạm chính sách môi trường. Việc lão chỉ bị đóng phạt những khoản tiền ít đến nực cười không làm Rolvaag ngạc nhiên, cứ nhìn những mối quan hệ sâu sắc với cả hai đảng phái chính trị thì biết.

“Cứ gọi tôi là Red,” lão khịt khịt mũi nói, sau một màn xuất hiện không mấy ấn tượng. “Xin lỗi ông, cứ mùa xuân là tôi lại lên cơn dị ứng. Tôi giúp được gì cho ông đây?”

Viên thanh tra vào đề ngay, anh kể về người đàn ông đáng nghi lái chiếc tải nhỏ ở dự án Đồi cát Tây Boca Giai đoạn II. “Biển số xe đưa tôi đến một đại lý của Hertz. Nơi này báo xe được thuê bằng thẻ tín dụng doanh nghiệp và đấy chính là Cơ sở thu mua cà chua của Red .”

Hammernut gật đầu. “Công ty ấy đúng là của tôi, cùng với nửa tá công ty khác nữa.”

“Vậy ông có biết một người tên Earl Edward O’Toole không?”

“Không chút ấn tượng nào. Anh ta khai là làm việc cho tôi à?”

“Tôi chưa nói chuyện, nhưng đã kịp nhìn thấy anh ta. Vẻ ngoài của anh ấy rất khác biệt,” Rolvaag nói.

“Khác sao?”

“Kích thước.”

“Chúng tôi thuê toàn nhân viên cao to thôi. Để tôi hỏi Lisbeth xem sao,” Hammernut rướn người tới cái bàn và bấm nút bật loa ngoài: “Lisbeth, kiểm tra xem trong đám nhân viên của mình có ai tên Earl Edward…” rồi quay sang Rolvaag “… gì nữa ấy nhỉ?”

“O’Toole. Tên ấy có trên hợp đồng thuê xe.”

“O’Toole,” Hammernut lặp lại, Lisbeth bảo sẽ kiểm tra ngay. Chưa đầy một phút sau chuông đã đổ, Hammernut không bật loa ngoài mà bốc máy.

“Ừ hử. À à, tôi nhớ anh ta rồi. Cám ơn nha cục cưng.”

Thanh tra mở cuốn sổ tay và chờ đợi.

Hammernut cúp máy rồi nói: “À, cái anh chàng bự con ấy từng làm giám sát cho tôi, nhưng cũng lâu rồi. Tôi không biết anh ta vẫn còn giữ thẻ tín dụng của công ty, nhưng tôi sẽ sớm tìm hiểu ngay.”

“Ông có biết giờ anh ta làm việc ở đâu không?”

“Chịu chết. Lisbeth bảo anh ta nghỉ việc vì lý do sức khỏe,” Hammernut nói. “Khó mà quản hết nổi nhân sự ông à. Có khi anh ta nghỉ do kiệt sức và mệt mỏi.”

Rolvaag hí hoáy viết gì đó trên sổ. “Ông có biết vì sao ông O’Toole xuất hiện ở khu Boca không? Anh ta chẳng làm hại ai cả, nhưng cũng khiến cư dân ở đó một phen lo âu, ông hiểu mà, đúng không?”

“Ồ, hiểu chứ. Nếu đúng là người mà tôi đang nghĩ đến, thì bề ngoài của nó dễ làm người ta sợ vỡ mật ấy.”

Rolvaag tặc lưỡi: “Tôi có thể ngó qua hồ sơ việc làm của anh ta được không?”

“Hồ sơ gì trời?” Hammernut lên giọng. “Chúng tôi chỉ có thẻ nhân viên. Người vào đây làm việc, hết phân nửa là dùng tên giả rồi. Đấy là vấn đề của việc dùng lao động thời vụ đó ông.”

Viên thanh tra gật đầu xã giao. “Nếu như hồ sơ của ông O’Toole có ghi nhận bạo lực hoặc vấn đề thần kinh thì ông sẽ cho tôi biết chứ?”

Hammernut khịt mũi, thò tay vào túi lấy ra cái khăn tay. “Tâm lý yếu thì không thể trụ được trên nông trại của tôi đâu. Ai mà có vấn đề thì chúng tôi tiễn ngay.”

“Nhưng nhân công thời vụ thì đủ loại người, tôi cá là vậy,” Rolvaag nói.

“Ông bảo nó không làm ai bị thương mà, đúng không? Tôi tò mò là sao ông vượt đường xa từ tận Quận Broward đến đây chỉ để kiểm tra thông tin về nó. Cái này trong ngành của ông gọi là dưới dạng tình nghi đúng không?”

Viên thanh tra không định kể cho Red Hammernut sự thật, rằng anh đang mò mẫm tìm đầu mối cho một vụ án mạng tiềm năng, rằng anh chẳng còn gì khác để làm ngoài việc lần theo một gã to con cục súc có vẻ đang theo dõi nghi phạm chính của anh; rằng anh chỉ tìm cớ để phắn đi thật nhanh trước khi ông sếp Gallo ném cho một vụ án mới.

“Nhưng mà ông nói đúng rồi đó. Thông thường chỉ cần một cuộc gọi là được,” Rolvaag nói. “Thậm chí fax thôi cũng xong. Nhưng một vài người sống trong khu Boca, nơi ông O’Toole lởn vởn ấy mà… nói thế nào nhỉ? Họ rất là mê ông sếp của tôi…”

“Ý là họ đang rót tiền cho chiến dịch tái tranh cử của ổng,” Hammernut chen vô. “Nên khi họ gặp vấn đề thì đó lập tức thành vấn đề của sếp ông, đúng không?”

“Ông hiểu thế tôi mừng quá,” Rolvaag đưa ánh mắt ngưỡng mộ lên mấy bức ảnh trên tường. “Tôi biết là ông hiểu chuyện mà.”

Hammernut nở một nụ cười ra vẻ uyên bác. “Công việc ấy mà, ở đâu cũng thế. Nhất là chính trị nữa.”

Viên thanh tra mỉm cười lại: “Dù sao tôi cũng cần phải viết báo cáo, tôi muốn chắc chắn ông O’Toole của chúng ta không thuộc nhóm giết người hàng loạt, đang me mấy bà nội trợ của đảng Cộng hòa.”

Hammernut hắt hơi một phát muốn rung bàn, rồi lại lấy khăn chùi mũi. “Ông cứ đi về và nói ngài cảnh sát trưởng chớ có lo về Earl Edward. Nó sẽ chẳng làm hại ai đâu, tôi sẽ coi chừng nó cho các ông.”

Rolvaag cất sổ, nhổm dậy đi về. Nãy giờ anh vẫn suy nghĩ xem có nên ném cái tên Charles Perrone vào cuộc nói chuyện để xem người đối diện phản ứng thế nào hay không. Nhưng giờ anh quyết không hỏi. Red Hammernut quá cứng, quá sắc sảo, lão sẽ không đời nào thừa nhận mối liên hệ với thằng nghiên cứu khoa học, nếu giữa tụi nó thật sự có gì.

Viên thanh tra nói: “Ông có thể kiện ông O’Toole vì dùng thẻ tín dụng của công ty trái phép được đấy.”

“Tất nhiên là tôi làm được. Nhưng tôi cũng có thể cho nó một màn, gọi là gì ấy nhỉ, nói chuyện phải quấy.” Red Hammernut nháy mắt. “Nó to con và nhiều lông, thì tôi sẽ cử mấy đứa to hơn và nhiều lông hơn. Ông hiểu ý tôi chớ?”

Thanh tra chưa từng để lộ ra việc O’Toole là một đứa rậm lông. Như vậy rõ ràng Hammernut nhớ nhiều về thằng nhân viên cũ hơn là lão cố tỏ ra nãy giờ. Ở ngưỡng cửa, lão tài phiệt lùn vỗ vai Rolvaag, hỏi ông có muốn mang về một sọt rau diếp tươi vừa hái không. Rolvaag bảo mình ăn rau xanh khó tiêu, nhưng cũng lịch sự cảm ơn Hammernut.

Khi lái xe ngược lại hướng cao tốc, thanh tra suýt nữa cán ngang qua một con rắn nhỏ đang tắm nắng trên đường sỏi. Đấy là một con rắn vua có đốm, to chỉ bằng vòng cổ trẻ con, vừa nhìn là anh đã nhận ra nó có bệnh bẩm sinh. Con vật chỉ có một mắt, xương chóp mũi lại nổi lên một cục to như hạt dẻ. Rolvaag biết nó sẽ chẳng sống được bao lâu, nhưng anh vẫn xuống xe, cầm nó ra khỏi đường và thả nó gần lùm cây.

Thầm nghĩ: tội nghiệp thằng nhỏ. Sao mà kém may mắn thế hả con!

Red Hammernut làm sao quên được lần đầu tiên gặp Charles Perrone. Lisbeth bối rối đi vào văn phòng, bảo bên ngoài có một thanh niên muốn gặp riêng để xin việc, một thanh niên rất kiên trì, cô nói, nhất định phải đích thân nói chuyện với ông chủ. Thoạt đầu, Red Hammernut muốn bốc máy lên gọi bảo vệ đá đít thằng nhãi ranh ra khỏi tòa nhà, nhưng khi ngó sơ qua hồ sơ xin việc, lão buột miệng “thế đéo nào” rồi đồng ý cho Chaz năm phút. Red Hammernut tò mò vì sao một thằng thạc sĩ ngành sinh vật biển lại muốn làm việc cho một nông trại rau quả.

Chaz Perrone bước vào, mặc áo vest xanh, quần tây màu kem và cái nơ bướm. Nó chồm đến bắt tay Red, ngồi xuống phía đối diện và bắt đầu nói không ngừng, cứ như muốn tận dụng tối đa thời gian ít ỏi. Vẻ tự mãn của thằng nhóc khiến Red khó chịu, thỉnh thoảng còn khiếm nhã tặng cho mấy cái ợ. Nhưng sau một chốc, những lời láu táu của thằng bé bắt đầu nghe lọt tai.

Perrone mở một tập hồ sơ, lấy ra một mẩu báo mà Red nhận ra ngay, nhan đề ám chỉ các nông trại địa phương là những kẻ hủy hoại môi trường. Bài viết nằm trong một chuyên mục điều tra dài kỳ về mẫu nước lấy được từ nguồn nước thải gần nông trại cây xanh do Red Hammernut sở hữu. Lượng phốt pho tìm thấy đã lên đến con số 302 ppb, cao hơn gần ba mươi lần so với mức quy định chính phủ về nước thải chảy vào Everglades. Tỷ lệ phân lân hóa học thải xuống nguồn nước Nam Florida từ nông trại của Red Hammernut nhiều hơn cả trang trại lớn nhất của liên bang và đồn điền mía gộp lại. Mức độ gây ô nhiễm nặng nề đến độ cả những mối quan hệ chính trị của Red Hammernut tại Washington cũng chẳng can thiệp nổi.

Chaz Perrone cảnh báo mấy cái nông trại của Hammernut sẽ còn bị theo dõi sát sao, không chỉ là truyền thông mà cả chính quyền. Thế nên nó đến đây, vì tin có thể vào làm với chức danh tư vấn viên môi trường. Red Hammernut bảo chuyên ngành của Chaz đâu có liên quan gì đến xử lý chất thải nông nghiệp, Chaz độp ngay “tôi học hỏi nhanh lắm”. Nó bảo mình từng làm cho một doanh nghiệp sản xuất mỹ phẩm danh tiếng, chuyên xử lý đơn kiện liên quan đến các thành tố hóa học có thể gây ung thư hoặc các bệnh khác trong sản phẩm. Có con bé kia kiện công ty vì mỹ phẩm của hãng khiến nó bị tróc da gò má. Thằng Chaz vận dụng kiến thức khoa học thế nào mà tòa nghi ngược lại con nhỏ luôn. Chaz nhấn mạnh cho Red thấy: doanh nghiệp lớn phải có chuyên viên uy tín để đứng ra chống lại mấy lời buộc tội, thông qua luận cứ khoa học rõ ràng, hoặc ít ra cũng biết cách quậy cho đục nước.

Red Hammernut thích thái độ của Chaz Perrone. Thiệt thoải mái khi được gặp một nhà sinh vật học trẻ tuổi nhưng đã sớm chà đạp lên mấy cái lý tưởng môi trường cũ rích để đứng về phía những doanh nghiệp tư. Hơn thế nữa, Chaz đâu có giống mấy đứa mọt sách, ẽo ợt như mấy tên làm khoa học mà Red từng thuê trước đây. Nó bảnh trai, sáng sủa, nói chuyện hoạt bát, lên TV chắc chắn sẽ gây thiện cảm. Chỉ xui một cái: bằng cấp của nó lại chẳng ăn nhập gì. Red nói với Chaz: “Chú mày cần một cái bằng Tiến sĩ chuyên về nghiên cứu đầm lầy hay đại loại thế, không thì cái lũ làm môi trường nó sẽ ăn thịt chú mày thay cho bữa sáng.”

Và từ đó câu chuyện mở ra. Charles Regis Perrone theo học chương trình Tiến sĩ tại Đại học Duke chuyên ngành đất ngập nước. Sở dĩ nó được nhập học là vì tổ chức uy tín này từng nhận số tiền đóng góp rộng rãi của ngài S. J. Hammernut, cũng là người sẽ trả học phí cho Chaz. Red Hammernut đã đoán đúng, vốn là trung tâm nghiên cứu của các công ty sản xuất thuốc lá toàn quốc gia, Duke không ngại nhận đầu tư từ một trang trại gây ô nhiễm môi trường.

Không giống thời gian ở Đại học Miami, Chaz Perrone không cần tạo ra bất kỳ xáo động nào trên đường chinh phục cái bằng Tiến sĩ. Mặc dù chẳng học hành quá tử tế, nó cũng không làm mình xấu mặt. Lần này nó quyết tâm thật, lần này nó ngửi thấy mùi tiền tươi thóc thật. Tốt nghiệp xong nó hy vọng sẽ được hứa hẹn một bản hợp đồng béo bở với nông trại của Hammernut. Nhưng rồi Red có những kế hoạch khác. Sau khi đi đêm với vài vị, Red đã đưa được Chaz vào làm nhà nước, phụ trách kiểm tra chất lượng ô nhiễm của nước thải, đặc biệt tại khu vực trang trại trực thuộc Everglades. Thanh niên sinh vật học kia bày tỏ sự thất vọng tràn trề trước kế hoạch nhưng Red hứa hẹn nó sẽ nhận được mức lương sáu con số (đi kèm văn phòng làm việc riêng trang bị máy lạnh), nếu như chứng minh được đóng góp của mình.

Và đó là những gì Chaz làm. Chưa đầy sáu tuần sau khi Chaz nhận việc, mức phốt pho của nước thải từ nông trang Hammernut đã ghi nhận chỉ còn 150 ppb, giảm hơn năm mươi phần trăm. Hai tháng sau, con số rớt xuống còn 77 ppb. Sáu tháng tiếp, kết quả thực địa cho thấy độ nhiễm phốt pho bình ổn ở mức 9 ppb. Một mức thấp đến độ chính quyền đã bỏ nông trang Hammernut ra khỏi danh sách doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường. CLB Sierra địa phương còn tặng kỷ niệm chương cho Red, trồng luôn một cây bách để vinh danh lão.

Red rất khoái mấy màn vinh danh này. Lão còn hài lòng hơn nữa khi đám môi trường chết tiệt đã ngưng theo dõi đơn vị kinh doanh của lão. Và quan trọng hơn hết, Red Hammernut đã thoát khỏi khoản chi phí lớn mà mấy khu lân cận đang phải gánh chịu để tổ chức cải tạo đầm lầy. Nông trang của lão cũng không bị buộc phải cắt giảm phân bón hóa học sử dụng trên nông phẩm hoặc phải chi cả triệu đô để xây dựng bể lọc nhằm giảm mức độ nhiễm phốt pho cho nước thải trước khi đổ ra ngoài. Nhờ đóng góp tận tụy của chàng Tiến sĩ trẻ Charles Perrone mà nông trại Hammernut được tiếp tục sử dụng Everglades làm hố phân.

Tất nhiên là để cho kế hoạch thành công mỹ mãn, mấu chốt là phải giữ bí mật mối liên hệ giữa Chaz và Red. Điều đó khiến cho cái tính hoang đàng chi địa của Chaz, đính kèm là một danh sách bồ bịch dài như cái sớ kia trở thành mối lo ngại sâu sắc. Biết bao lần, Red Hammernut nhắc cho Chaz nhớ: tiền đồ của nó sẽ tối thui nếu nó dám khai ra cho mấy con ghệ biết ai mới là người trả lương thực sự cho mình. Thật mỉa mai, người phụ nữ mà Red ít lo nhất lại chính là con vợ thằng Chaz, vì thằng này gần như chẳng tâm sự bất cứ chuyện gì với vợ cả.

Một ngày Red nhận điện thoại, thằng Chaz lải nhải vụ bị con vợ bắt gặp khi đang bịa đám số liệu. Red hỏi đi hỏi lại con kia có biết gì chưa. Chaz không chắc lắm, vì con vợ sau đó chẳng thèm đoái hoài thêm về chủ đề này. Nghe giọng qua điện thoại, Red thấy thằng lính bấn lên thấy rõ. Red bảo nó phải lập tức trấn tĩnh lại. “Đừng có kết luận gì vội, cứ chờ xem vợ chú mày nói gì tiếp đã.”

Kết quả là Joey Perrone không nói gì cả, một chữ cũng không. Nhưng thằng Chaz vẫn căng thẳng quá, rồi nó làm cho Red cũng lo theo. Lỡ con nhỏ biết hết nhưng giả vờ ngậm tăm chờ thời cơ chơi một cú lớn thì sao? Bom nổ chậm chứ đùa. Lỡ một hôm con vợ phát hiện thằng Chaz dan díu với gái, nộ khí xung thiên nổi lên thì nó khai cho bằng sạch chuyện làm ăn gian trá của chồng, cố gắng mua chuộc con vợ cũng vô ích, theo lời thằng Chaz thì gia tài của Joey trị giá hàng triệu đô.

Ngày qua tháng đến, Chaz có vẻ đã bình tĩnh lại. Nó không còn nói nhiều về vợ mình hay chuyện bị con vợ nghi ngờ. Nên Red Hammernut đinh ninh là nó đã giải quyết êm đẹp mọi chuyện. Đang yên đang lành thì tự dưng Joey Perrone ngủm củ toi, rồi có đứa nào đó tìm cách tống tiền thằng Chaz, hoặc ít ra là nó kể thế. Red Hammernut không thể không nghĩ đến khả năng Chaz bày trò để vòi thêm tiền, thằng này cũng lưu manh lắm chứ có phải dạng vừa đâu.

“Mày chắc nó là thằng thanh tra chứ?” Red hỏi.

“Còn ma nào vào đây nữa? Nó là thằng duy nhất hoạnh họe em về Joey,” Chaz vung tay đầy kích động. “Nó cố giả giọng trong điện thoại, nhại theo Charlton Heston!”

Tool gầm gừ ra chiều bối rối, làm Red phải thuyết minh: “Thằng cha NRA, bị bệnh già lão đó.”

Chaz thuyết minh thêm: “Thằng chả cũng lên phim nữa.”

Red lại nói: “Chú biết ai nhại theo Heston đỉnh nhất không? Chính là Robin Williams…”

“Trời ơi Red, anh có nghe tôi nói không vậy?”

“Có chớ, con trai. Thằng thanh tra nhại giọng ngôi sao điện ảnh, chú mày nghĩ nó cũng là thằng lẻn vào nhà.”

“Chính xác. Với cảnh sát thì trò đó dễ ợt,” Chaz nói. “Anh biết hôm nay nó làm gì không? Bật vòi nước tự động trong vườn nhà tôi. Lúc tôi về thì nó phun ào ào đéo khác gì thác Niagara. Mấy cái trò bứt gân kiểu đó dễ làm mình thần kinh lắm nha.”

Red Hammernut trầm ngâm suy nghĩ: hình như nó đọc được suy nghĩ của mình.

Ba người đang ngồi chen chúc như cá mòi trong chiếc Cadillac màu xám. Người Red ám mùi xì gà Montecristo khét lẹt, Tool thì vẫn ướt nhẹp như trâu nước còn Chaz Perrone đầy mùi bãi rác thành phố, nơi nó ném đi mấy thùng đồ của vợ.

Red Hammernut đã cử thằng tài xế đi mua bánh donut vì sợ thằng Chaz lên cơn phun ra điều gì ngu ngốc. Đây là một cuộc đối thoại mà Red phải hết sức thận trọng, kẻo kéo theo những rắc rối không cần thiết, cần phải rạch ròi: chuyện của Chaz và Joey trên tàu hoàn toàn là chuyện riêng, không dính dáng gì đến làm ăn.

Nhìn thằng Chaz lúc này, Red không thể tin nổi nó có gan đẩy ai đó xuống biển, đặc biệt khi người đó là Joey, một con phụ nữ to khỏe. Tool có thể xử con nhỏ, chứ Chaz sao đủ sức!

Hay nó cứng hơn mình tưởng ta, Red vẫn miên man nghĩ.

Rồi lão nói: “Con trai, muốn nghe chuyện lạ bốn phương không? Sáng nay tao đã gặp nó, thằng cớm của mày ấy.”

“Rolvaag!” Chaz quay phắt lại. “Chúa ơi. Gặp sao?”

“Nó lái xe xuống tận nông trại của tạo chỉ để hỏi về một chiếc xe thuê, một chiếc xe tải nhỏ,” Red liếc nhìn Tool vẫn đang vô tư gãi ghẻ trên cổ.

“Nó có nhắc tên em không?” Chaz hồi hộp hỏi.

“Không. Nó đến để nói một câu chuyện tào lao, dẫu lúc đó tao cũng tin. Nó bảo ngoại hình của thằng Tool đáng sợ quá, nên bạn bè bồ bịch của ngài cảnh sát trưởng đâm sợ. Lúc đó thì tao không biết nó cũng chính là thằng thanh tra bữa giờ chọc đít mày.”

Tool chõ mỏ vô: “Red. Để tui xử đẹp nó. Thằng con trai của ông cứ cản tui hoài.”

“Nó cản là phải,” Red Hammernut. “Mày đâu thể xử đám cảnh sát như xử bọn du thủ du thực, ủa chuyện đó cũng chờ tao nói hả?”

Chaz thở dài sườn sượt. Tool bẻ tay răng rắc và nói: “Tui đéo hiểu nó đe dọa thằng đệ ông kiểu gì nếu nó không phạm tội gì đó.”

Red cười thầm. Một lần nữa, thằng này lại đi thẳng vào trọng tâm vấn đề.

Chaz nói: “Cái thằng gọi điện bảo nó thấy tao ném Joey xuống biển. Tất nhiên là đéo có vụ đó rồi.”

Tool nhướn mày: “Cái gì đéo có? Mày đéo có làm, hay mày làm mà đéo có đứa nào thấy?”

Chaz mở miệng định sủa vào mặt thằng Tool, nhưng nó thấy mình tự dưng ú ớ.

Red Hammernut nhanh chóng chuyển đề tài. “Cái thằng Rolvaag này không phải kiểu chơi núp lùm như mày nghĩ đâu. Tao đủ từng trải để nhận ra điều đó.”

“Nhưng nói thật với anh, nó là thằng duy nhất tôi nghi,” Chaz nói, nhưng giọng không còn cả quyết như ban đầu nữa.

Nếu thực sự Chaz đã ném vợ xuống biển, thì có người vô tình thấy là hoàn toàn khả dĩ. Một nhân viên trên tàu, hay bất kỳ ai!

“Mình cần phải xác định rõ cái thằng khủng bố này là ai và nó muốn bao nhiêu,” Red nói với Chaz. “Cũng có thể nó chẳng thấy gì, chỉ xem qua TV, nhưng nảy ra ý hù mày một phen, nếu hên còn kiếm đậm. Nếu nó là dạng này thì mình xử tốt,” Red vừa nói vừa nhìn thằng Tool. “Nhưng nếu nó là cảnh sát, như mày quả quyết, thì mình phải hết sức cẩn trọng. Không khéo là thúi um, là bung bét hết, ngay cả khi chú mày đéo làm gì sai.”

Qua hai hàm răng nghiến chặt, Chaz nói: “Em không làm gì hết, Red. Em đã nói rồi: chỉ là tai nạn.”

“Bình tĩnh, con trai. Tao tin chú mày mà.”

Tool lúc này đang khạy móng tay với một cái lưỡi câu gỉ sét, khịt mũi không mấy tin tưởng.

“Lần sau thằng chó đó gọi, mày ráng thu xếp một bữa gặp coi sao,” Red Hammernut nói.

“Lạy Chúa, Red, gặp mặt trực tiếp ấy hả?” Chaz rên. “Nhưng tại sao? Rồi tụi mình làm cái giống gì với nó?”

“Nhã nhặn nghe coi nó muốn gì,” Red nói. “Và con trai, tao nhắc cho mày nhớ: chủ thể gặp đéo phải tụi mình , mà là mày !”