← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 13

Mới 5 giờ 42 phút sáng, Mick Stranahan đã gọi Charles Perrone.

“Chào buổi sáng, biến thái,” anh nói. Lần này anh nhại theo giọng Jerry Lewis. Văn sĩ người Mexico, chủ trước của hòn đảo, rất mê *The Nutty Professor*. Stranahan đã xem đi xem lại phim này trên đầu video. Vào mùa áp thấp nhiệt đới, người ta đâu có nhiều lựa chọn.

Ở đầu dây bên kia, thằng chồng của Joey phải mất một lúc mới trấn tĩnh được: “Mày là cái thằng hôm qua gọi phải không?”

“Chính xaaaaaác.”

“Tụi mình nên gặp nhau, tao và mày.”

“Tại sao?”

“Để nói chuyện.”

“Chứ mình đang làm gì đây,” Stranahan nói. “Tao thật sự rất tò mò vì sao mày lại ném vợ yêu xuống Đại Tây Dương.”

“Tao không có ném, là cổ tự té.”

“Tao thấy khác à nha.”

“Hãy nghe tao nói,” Perrone nài nỉ, nhưng giọng của nó yếu hẳn.

“Nói gì dzạ? Chaz?”

“Chúng ta cần nói chuyện ngoài đời, mặt đối mặt.”

“Đối mặt chi? Sổ tiết kiệm của mày chỉ có một ngàn tám trăm đô,” Stranahan nói. “Sao mà thảm vậy?”

“Tao có thể lấy thêm,” Perrone buột miệng, nhưng nó khựng lại. “Sao mày biết tao có bao nhiêu trong nhà băng?”

“Biết chớ, biết mới thấy tội mày chớ.”

“Đừng cúp máy. Đừng!”

“Chứ mày đào đâu ra tiền để mua chuộc tao câm miệng?”

“Tao sẽ đòi tiền người ta nợ tao.”

Stranahan phá ra cười: “Ủa mày là nhà sinh vật học hay dân cho vay nặng lãi?”

“Okay, Rolvaag. Cứ nói con số mày muốn đi.”

Nó lại nhắc đến “Rolvaag” kìa, Stranahan để ý. “Tao chưa biết sẽ đòi bao nhiêu nữa,” anh nói.

“Vậy bao giờ thì mình gặp nhau được? Tao nghiêm túc đó.”

“Bái bai, Chaz.”

“Khoan đã,” Perrone nói. “Tao phải hỏi cái này, cái giọng của mày…”

“Sao?”

“Mày nhái Jim Carrey phải không?”

Stranahan: “Thưa ngài, giá đã tăng gấp đôi.”

Thằng Tool đứng choán hết cửa phòng ngủ, thò mỏ hỏi thằng chó nào mới sớm tinh mơ đã gọi điện. Khi Chaz Perrone trả lời chính là thằng tống tiền, Tool lẩm bẩm chửi thề rồi loạng choạng trở lại giường. Nó vừa trải qua một đêm quá dài và khổ sở, mấy miếng dán đã hết thuốc, khô queo và rụng lả tả như hoa héo. Vậy mà cái thằng đốc-tờ chết tiệt kia một mực bàng quan. Chaz khó chịu ra mặt khi có người lạ ở trong nhà, mà chính thằng Tool cũng có thoải mái gì cho cam. Nhưng Red mới là ông chủ. Và ông chủ không muốn nó lởn vởn ngoài đường, kẻo lại hù đám hàng xóm chết khiếp. Thế là nó đành phải dọn vào ở luôn nhà thằng đốc-tờ với nhiệm vụ không cho đứa nào đột nhập. Sau khi dọn vào phòng ngủ, thằng Tool trưng dụng tiếp phòng tắm. Chỉ sau năm phút, mớ lông lá của nó đã làm nghẹt luôn cái cống. Chaz phải dùng móc áo để xử lý. Miệng Chaz ngậm tăm, nhưng Tool biết thằng chủ nhà đang sôi gan.

Đến tiết mục ăn sáng, Tool tự túc làm món ốp lết. Nó xài hết chín quả trứng, một muỗng to kem béo, hai trăm gram phô mai cheddar, tiêu, một mớ ô liu hảo hạng đã tách hột và hơn một lạng Tabasco. Trong lúc Tool xử lý sản phẩm nặng mùi của mình, thằng đốc-tờ đã phải té khỏi nhà bếp trong sự kinh tởm.

Sau khi ăn xong, Tool thông báo nó sẽ ra đường để tìm thuốc.

“Bệnh viện gần nhất ở đâu mạy?” Nó hỏi Chaz.

“Mày bị điên hả? Định lẻn vô bệnh viện ăn trộm thuốc hay gì?”

“Cứ chỗ nào có bệnh viện là gần đó có nhà thuốc. Hoặc cái chỗ đéo gì ấy nhỉ, cái chỗ gì mà họ để mấy đứa ngáp ngáp ấy.”

“Nhà an dưỡng cuối đời.”

“Đấy,” Tool nói. “Ở đó bọn bệnh nhân oải đến mức chẳng làm ì xèo được.”

“Thì sao?”

“Thì tao cứ rảo ở trong cho đến khi tìm thấy mấy miếng dán chứ sao?”

“Chúa ơi,” ông đốc-tờ đột nhiên trầm ngâm.

“Ý mày là sao?” Tool vặn lại.

“Ông Hammernut biết mày làm việc này không?”

“Red đâu có tò mò chuyện của tao.”

“Ông khôn ghê,” Charles Perrone vớ lấy cây bút. “Bệnh viện gần nhất là Cypress Creek. Tao sẽ vẽ đường đi cho mày.”

“Vẽ tọa độ cho tao đi.”

“Bản đồ, ý mày là bản đồ hả?”

Tool cười: “Ờ, bản đồ cũng được.”

Nó đã ném con tải nhỏ ở Hertz và đi thẳng tới Avis để thuê một con Grand Marquis đen. Chỗ ngồi rộng, tha hồ mà duỗi chân, đã vậy máy lạnh còn chạy phà phà nữa chứ. Xác định được vị trí bệnh viện rồi, nó lập tức sục sạo khu vực lân cận để tìm thứ mình cần. Điểm đầu tiên nó nghía là biệt thự An Bình, nhưng ngay khi nhận ra đó chỉ là một trung tâm hỗ trợ phục hồi, nó rút liền. Bởi vì mấy ông già bà lão trong đó sức khỏe còn ngon và theo kinh nghiệm thì họ sẽ đấu tới cùng nếu có đứa nào giành giật thuốc men với mình.

Điểm dừng chân thứ hai là Ấp Thiên Đường, một khu nghỉ dưỡng do nhà thờ địa phương điều hành. Tool khoác cái áo trắng bác sĩ cỡ XXXL vẫn luôn mang theo bên người và đi vào theo lối cửa sau. Tuy to xác nhưng nó di chuyển rất nhanh nhẹn, đến kiểm tra từng giường một. Một vài bệnh nhân yếu đuối như những chú sẻ non đang thiếp ngủ. Tool lật họ lên coi có miếng dán nào không. Những người còn tỉnh cũng chẳng kháng cự gì, trừ một người đang nói mớ gì đó mà Tool không nghe ra nổi. Cái gì mà cháy hàng ở Yalta hay đại loại thế.

Sở dĩ Tool thích đến trung tâm an dưỡng thay vì bệnh viện, vì mấy nơi này chẳng có ai buồn đến thăm nuôi người thân. Nó không rõ vì sao người ta lại dành quá ít thời gian chăm nom cha mẹ già yếu, nhưng đấy là thực tế. Chỉ duy nhất một phòng ở Ấp Thiên Đường có sự xuất hiện của người thân. Tool vẫy tay chào và đi xuống sảnh. Các nhân viên y tế ở đây chẳng mảy may đặt câu hỏi về sự xuất hiện của nó, họ đinh ninh nó là người mới vào vì ở mấy cơ sở như thế này, nhân sự thay đổi như cơm bữa.

Tool trúng mánh khi bước vào phòng số 33, một phòng riêng. Bệnh nhân duy nhất trong ấy là người phụ nữ mảnh khảnh với xương vai nhô cao và mái tóc bạc được uốn lọn. Bà đang cuộn người, ngủ xoay mặt vào tường. Cái áo bệnh nhân chưa kéo khóa hết sau lưng, để lộ miếng dán thuốc “phê” mới cứng trên phần da xanh xám. Tool bò về phía trước, lặng lẽ tiến hành quy trình chôm chỉa quen thuộc. Đột nhiên bà bệnh nhân vung tay chống đối kịch liệt. Cùi chỏ tay phải đập vào giữa hai mắt nó như một cái dùi cui loại bự. Tool văng ra phía sau, phải ôm lấy thành giường mới không bị té.

“Cậu đang làm cái gì thế?” Đôi mắt xanh đáng sợ của người phụ nữ nhìn nó cảnh giác.

“Tôi thay băng cho bà,” Tool lầm bầm.

“Mới thay một tiếng đồng hồ trước thôi mà.”

“Bà ơi, người ta bảo sao tôi làm vậy thôi à.”

“Ta thấy có gì man trá ở đây.”

Chết mẹ rồi, Tool nghĩ thầm. Bà này phiền chết bỏ.

“Họ muốn cho bà thêm đó mà,” nó nói. “Thôi nào, quay lưng lại đây.”

“Cậu cũng bệnh phải không con trai? Nhìn là biết. Ung thư à?”

Tool sờ cục sưng trên trán. “Tôi không có bệnh,” nó nói, liếc nhìn cánh cửa, đề phòng có ai đi ngang qua.

“Ta tên Maureen,” bà bệnh nhân chỉ tay vào chiếc ghế có lưng tựa, đặt ở góc phòng. “Kéo cái ghế lại đây ngồi. Cậu tên gì?”

Tool nói: “Giờ bà dễ chịu lại rồi nè. Để tôi tháo miếng dán cũ ra, rồi bà ngủ lại cho ngon nhé.”

Maureen ngồi dậy, để một cái gối ra sau đầu. “Nhìn ta tệ quá hả?” Bà nói, vuốt lại mái tóc. “Ta không ngủ được, nói để cậu biết. Ở vào tình cảnh của ta, ai mà ngủ được chứ? Thôi kéo cái ghế lại đây, ta sẽ cho cậu cái cậu muốn.”

Tất cả những gì Tool muốn lúc này chính là sự ấm áp, thấm sâu và ngon lành của thuốc phiện. Nó làm theo lời Maureen, kéo ghế đến sát giường và ngồi xuống.

“Đau lắm phải không?” Bà hỏi.

“Đau gần chết. Tôi còn nguyên một viên đạn trong đít.”

“Ôi thôi.”

“Bởi vậy tôi mới cần thuốc chớ. Sao, bà có cho không?”

Nó không muốn dùng vũ lực. Mụ này có vẻ cứng và nếu phải động tay chân thì e sẽ vất vả, có khi nó phải siết cổ mụ…

“Làm sao mà bị bắn?” Bà hỏi.

“Tai nạn săn bắn thôi.”

“Người ta không mổ để lấy ra được à?”

“Có lẽ là không.”

“Chồng quá cố của ta từng là cảnh sát ở Chicago, Illinois. Ông cũng từng phải bắn một người.”

“Viên đạn trong đít tôi không phải của ổng đâu.”

“Tất nhiên, ổng bắn vô vai mà,” Maureen nói. “Người bị bắn là tội phạm, nó chôm một chiếc taxi dù. Mà cậu cũng là tội phạm à?”

“Đứng từ quan điểm của tôi thì không,” mồ hôi thằng Tool đang rỉ ra và thấm ướt cái áo trắng nó đang mặc. Nó đang hết sức kiềm chế để không nhào tới trấn lột mấy miếng dán của bà già rồi phi ra ngoài.

Maureen nói: “Thôi được. Ta biết cậu cần mấy miếng dán này hơn ta.” Bà quay lại và đưa lưng về phía thằng Tool, quay đầu nhìn nó qua vai, bà nói: “Lấy đi, nhưng cẩn thận nhé. Da ta dạo này dễ xuất huyết.”

Tool thò tay tới mép trên miếng dán, cẩn thận lột y như đang tháo miếng đề can.

“Họ sẽ mang cho bà những miếng khác,” nó trấn an Maureen. “Nói với họ là nó rơi ra trong lúc bà tắm bồn nhen.”

“Ta không tắm bồn, chàng trai trẻ ạ. Họ chỉ lau mình cho ta thôi.”

“Tại giường luôn hả? Gớm chết.”

Maureen nói: “Ta cũng nhớ sự riêng tư của mình lắm chớ.”

Sau khi Tool tháo xong, bà quay người lại nhìn nó lần nữa. “Ta mới có tám mươi mốt, mà cứ như là đã một trăm mười rồi. Làm ơn cho ta biết tên cậu đi.”

“Earl,” Tool suýt nữa không nhận ra giọng nói của chính mình. Không còn ai trên đời gọi nó là Earl nữa.

“Mẹ của cậu còn sống không?” Maureen hỏi.

“Không. Cha tôi cũng chết rồi.”

“Rất tiếc, Earl. Ta hy vọng không phải tại vì bệnh ung thư.”

“Bà bị ung thư hả?”

Maureen gật đầu.

“Nhưng có những ngày ta cảm thấy mình tràn đầy sức sống. Có những ngày ta ngạc nhiên vì thấy mình còn sống.”

Tool nhìn miếng dán màu da trên tay mình, thầm nghĩ: Sao bà ta lại không thể ngủ được? Vì đau quá ư?

“Không, cậu giữ nó đi,” Maureen nói, vỗ nhẹ vào cánh tay nó. “Ta muốn con bớt đau.”

“Hẳn thế rồi.”

Rồi nó bước ra cửa, đi được ba bước thì nghe: “Earl, sau này thỉnh thoảng lại vào thăm ta nhé.”

Tool dừng bước và quay lại: “Bà ơi, tôi… tôi không có làm việc ở đây.”

“Ta biết mà,” đôi mắt xanh của bà long lanh. “Nhìn ta giống một bà già ngớ ngẩn lắm sao?”

Rolvaag đang viết cho xong lá đơn từ chức thì sếp Gallo bước vô và nói: “Mai là hạn chót để đóng vụ Perrone lại nhé.”

“Vâng, tôi nhớ mà sếp,” Rolvaag nói.

“Sở dĩ tôi nói thế là vì tôi mới nhận được cuộc gọi từ người ấy .”

“Đừng giỡn nha sếp.”

Gallo luôn gọi cảnh sát trưởng là “người ấy”.

“Ông hỏi hôm qua cậu làm cái quái gì ở LaBelle. Và tôi không biết trả lời sao cho đúng,” Gallo nói. “Suốt 30 năm ở Florida, tôi đếch bao giờ bén mảng tới đó luôn.”

Rolvaag giải thích là mình đang theo một dấu vết của vụ Perrone.

“Và dấu vết ấy đem cậu tới thẳng văn phòng của ông Samuel Johnson Hammernut,” Gallo nói. “Tôi hy vọng cậu biết ông ta là ai.”

“Một nông dân,” thanh tra nói.

“Cứt, một sếp sòng nông trại tai to mặt lớn. Cậu vừa rời khỏi, Hammernut bốc máy gọi ngay cho thằng chiến hữu, chính là cảnh sát trưởng của quận Hendry, rồi thằng cha ấy gọi ngay cảnh sát trưởng quận Broward - ông này tình cờ là sếp của cả tôi lẫn cậu. Sếp hỏi Karl Rolvaag là thằng tào lao nào? Hóa ra sếp gọi để chất vấn sao cậu dám làm phiền một công dân mẫu mực như Red Hammernut,” Gallo giơ hai tay ra như đang chờ bị đóng đinh. “Tôi còn biết phản ứng thế nào, hả Karl, ngoài việc nói lắp như một thằng thiểu năng? Cậu bảo xem tôi phải nói gì với sếp?”

Rolvaag đóng nắp bút lại và dựa vào lưng ghế: “Ồ, hóa ra ông Hammernut gọi điện méc à? Phải có tật mới giật mình đúng không?”

“Anh giỡn mặt với tôi chắc?”

“Không có. Tôi chỉ đang cố viết cho xong cái đơn từ chức.”

Gallo: “Nữa hả, dẹp mẹ nó đi.”

“Tôi hoàn toàn nghiêm túc về việc chuyển đến Minnesota.”

“Rồi, sao cũng được,” sếp Gallo nói. “Chỉ cần cho tôi biết tại sao một thằng cha tài phiệt xa lắc như Hammernut lại dính vô vụ điều tra của cậu?”

Rolvaag kể cho Gallo nghe về người đàn ông rình mò trước nhà Perrone. “Nó sử dụng thẻ tín dụng của Hammernut để thuê chiếc tải nhỏ.”

“Vậy thôi hả?”

“Đến giờ thì chỉ có thế. Nhưng vụ này rất lạ. Tại sao lại đi theo dõi một người vừa góa vợ?”

“Karl, chúng ta đâu có mang mấy cái rất lạ ra mà nói với bồi thẩm đoàn. Bởi vì toàn bộ sự tồn tại của nhân loại đã rất kỳ lạ rồi,” Gallo nói. “Cậu cũng lạ, đám bạn cùng phòng của cậu lạ nốt.”

Rolvaag chen vào: “Nhiều người vẫn nuôi rắn đó sếp.”

“Tôi sẽ nói với người ấy chuyến đi của cậu chỉ là điều tra hú họa.”

“Được mà. Nếu sếp thấy vậy dễ xử hơn cho sếp.”

“Còn cậu thì sao? Đừng có ì xèo về chuyện nghỉ việc nữa,” Gallo nói. “Cứ nói tôi nghe coi cậu muốn cái gì, Karl. Tăng lương? Được nghỉ cuối tuần? Tôi không dám hứa gì hết, nhưng thỉnh thoảng cuộc đời vẫn có phép màu mà.”

Thanh tra nói: “Tôi nghĩ ông Perrone đã ném vợ khỏi tàu. Trước mắt thì tôi chưa thể chứng minh được điều này được, trước khi tôi rời khỏi đây, nhưng tôi có niềm tin như vậy. Ông có thể cho tôi thêm vài ngày để theo vụ này không?”

Điều khiến Rolvaag bận tâm nhất chính là những mẩu móng tay trên bó cần sa. Anh không thể ngưng suy nghĩ về Joey Perrone, tuyệt vọng và sợ hãi, cố bám víu lấy hy vọng giữa từng đợt sóng, cùng cơn khủng hoảng vì việc làm khủng khiếp của chính chồng mình. Anh không thể không nghĩ đến hai cánh tay đã cố bám víu cho đến khi chúng tê dại và chìm xuống biển.

“Không được,” Gallo nói. “Xin lỗi, Karl. Tôi đang đóng hồ sơ lại rồi.”

“Nếu tôi tìm được động cơ gây án thì sao?”

“Chỉ trong hai mươi bốn giờ tới?”

“Đúng.”

“Vậy thì tôi sẽ xem xét lại. Chắc chắn,” Gallo nói. “Nhưng nó phải là thứ động cơ cực kỳ thuyết phục.”

“Thi thoảng đời vẫn có phép màu,” Rolvaag cất giọng nói tự tin, tự tin hơn suy nghĩ của chính mình. Vì hiện tại anh chưa có một giả thiết nào, dù là một suy đoán hoang đường nhất về việc tại sao Chaz Perrone lại giết vợ.

Máy phát điện giở chứng trước khi Stranahan kịp ăn sáng. Anh còn đang vật lộn với nó thì Joey Perrone đã thức dậy và bước ra ngoài.

“Thú vui của cuộc sống trên hoang đảo,” cô nhận xét.

“Già Neil nói đúng. Thời gian ăn mòn mọi thứ.”

Stranahan đang mặc mỗi chiếc quần jean cộc, người ngợm mướt mồ hôi, lấm lem dầu máy. Joey bảo cho mình giúp với, anh nói giờ có thuốc nổ thì họa may.

“Tệ dữ vậy hả?”

“Rồi tôi cũng sửa được thôi,” anh nói, xoay cái búa trên tay. “Trong lúc chờ đợi thì cô có thể vào chạn bếp lấy ngũ cốc ăn sáng đi.”

Joey hỏi mượn điện thoại. Anh chỉ về hướng con thuyền, nó đang cắm sạc, rồi quay lại hì hụi sửa tiếp. Hai mươi phút sau, Joey trở lại với một ấm trà và một tô trái cây tươi lấy trong bếp. Họ xuống bến tàu và ngồi cạnh nhau. Joey nghịch nước dưới chân mình. Đầu Đất liếc nhìn hai người từ chỗ nằm quen thuộc, dưới bóng râm của cây cọ ưa thích.

“Tôi hơi lo vì lỡ dùng thẻ tín dụng,” Joey nói.

Stranahan cam đoan là ngân hàng American Express không hề biết cô đang mất tích, tài khoản cứ thanh toán đúng hạn là được. “Họ chẳng buồn đọc báo đâu. Trừ phi có ai đó gọi lên và hủy thẻ, không thì nó cứ hoạt động vậy thôi,” anh nói.

“Thẻ của tôi tự động khấu trừ từ một tài khoản riêng, nhưng hóa đơn hằng tháng thì nó chuyển thẳng về nhà. Tôi sợ Chaz nó nghi.”

“Vậy thì chúng ta có thêm lý do để hành động thật nhanh,” Stranahan nói. “Trước khi ngân hàng gửi cái bill tiếp theo về nhà. Có thể nó sẽ ném thư vào thùng rác, nhưng nếu nó tò mò mở ra thì mình mệt. Nó sẽ biết là cô vẫn đang xài tiền.”

“Phải. Mà người chết ai lại đi xài tiền,” Joey ngẩng mặt lên và dụi mắt. “Mặt trời vẫn còn làm mắt tôi rát quá.”

“Từ bữa tỉnh dậy đến giờ đã đến một tuần đâu. Lần sau vào đất liền, mình sẽ đi mua một cặp kính mát.”

“Tối qua tôi lại mơ thấy thằng Chaz.”

“Cô lại giết nó à?”

“Còn gớm hơn nữa,” Joey đảo mắt. “Chắc anh không tin được đâu, Mick. Sau tất cả những gì nó làm, tôi vẫn làm tình với nó trong giấc ngủ.”

“Đó là biểu hiện cảm xúc bình thường. Giống như khi cô ráng cai caffein thì cả thế giới bỗng nhiên đượm mùi Folger vậy đó.”

Joey bặm môi: “Cũng có thể là tôi vẫn còn yêu thằng khốn nạn ấy đến tận lúc ấy. Có khi nó không chỉ là chuyện sinh lý thông thường, tôi cũng không biết nữa.”

Stranahan nhún vai: “Đừng nhìn tôi, tôi là trùm suy nghĩ lệch lạc mà. Nhưng cô nên xác định rõ cảm xúc của mình, trước khi quyết định hành động tiếp theo.”

Con chó đã rảo bước đến và duỗi chân thoải mái cạnh Joey.

“Hồi nãy tôi lấy máy gọi cho anh trai,” cô nói. “Người phụ trách tiền bạc của tôi liên lạc với ảnh vì có người đọc được bài báo tôi rơi xuống biển. Corbett bảo họ đừng làm gì vội. Mà họ cũng chưa thể làm gì nếu chưa có giấy báo tử.”

“Chaz chẳng bao giờ hỏi han hay rình mò tài sản ủy thác của cô à?”

“Không. Anh trai tôi cũng ngạc nhiên,” Joey cười thảm não. “Không biết sao tôi cứ ước gì Chaz giết tôi vì tiền. Thế thì tôi có thể hiểu được. Nhưng giết người chỉ để họ không còn tồn tại trong đời mình nữa, sao mà tôi không thể nuốt nổi việc này.”

“Không phải vì thế đâu, Joey. Tin tôi đi.” Stranahan vòng tay qua ôm cô, cô để đầu mình tựa nhẹ lên vai anh. “Corbett có khuyên cô làm gì không?”

“Ảnh thích ý tưởng quậy cho Chaz điên lên,” cô nói. “Ảnh nói cứ lởn vởn quanh nó như hồn ma, cho đến khi thằng chó đẻ đó quẫn trí thì thôi.”

“Nó có thể phát điên thật ấy.”

“À, còn chuyện này nữa,” Joey ngẩng đầu lên. “Một thanh tra đã liên tục gọi điện cho Corbett để hỏi về Chaz. Đây chính là người đã nói chuyện với Corbett hồi thứ Hai tuần trước. Giờ anh ta lại gọi tiếp và để lại nhiều lời nhắn.”

Stranahan: “Chà, mọi thứ đã nóng lên rồi đó, đúng như cô mong.”

“Nghĩ tới thấy vui anh ha.”

Vui, nhưng lại càng phải thận trọng, Stranahan nghĩ. Làm sao để dẫn dụ vị thanh tra vào cuộc mà không cần phải lộ mình.

“Anh trai cô có nói tên của vị thanh tra ấy không?”

“Rolvaag. Karl Rolvaag,” cô nói. “K chứ không phải C.”

“Ôi trời.”

“Tôi có lưu lại số của anh ta,” cô nói. “Tôi viết bằng son, thông cảm vì lúc ấy chẳng có cái bút nào trên thuyền của anh.”

“Không sao, khà khà,” Stranahan giọng vui thấy rõ.

“Có chuyện gì mà anh phấn khích vậy?”

“Chaz. Nó nghĩ cảnh sát chính là kẻ tống tiền. Sáng nay khi điện thoại cho nó, nó gọi tôi là Rolvaag.”

Joey ngạc nhiên thích thú, nhưng vặn lại ngay: “Khoan. Sao anh gọi cho Chaz mà không cho tôi biết?”

“Lúc đó cô đang ngủ mà,” Stranahan nói.

“Thì sao?”

“Ngủ hơi thiếu vải nữa. Nói thiệt là tôi cũng rung rinh đó.”

“Mick.”

“Đó là lời khen mà.”

“Tôi có ngáy không?”

“Chỉ rên thôi. Nếu tôi biết cô đang mơ về thằng Chaz thì đã đi lấy nước lạnh tạt vào mặt cô rồi.”

Joey giơ tay vờ đánh anh, anh chụp tay cô lại: “Đi tắm đi. Tôi làm người cô dính đầy dầu nhớt không à.”

Cô nói: “Anh đó nha, liệu hồn…”

Cô trao cho Stranahan ánh nhìn gợi anh nhớ đến mối tình đầu Andrea Krumholtz. Nhớ về cái đêm anh mượn xe của bố chở bồ đi chơi, cô bé đã cởi phăng áo ngực, rồi ném ra ngoài cửa sổ. Ở tuổi 16, hành động đó mang tính dẫn hướng vô cùng hiệu quả.

Còn với Joey, anh nói: “Thôi, tôi quay lại làm việc đây.”

“Thật ư?”

“Có hai ký tôm hùm trong ngăn đá ấy, nó mà hư thì phí của giời.”

Cô nói: “Okay, đi sửa cái máy ngu ngốc của anh đi.”

Stranahan sửa xong cái máy hai tiếng sau đó, hai cánh tay đau muốn trật khớp. Anh tìm Joey để báo tin, nhưng chẳng thấy cô nàng đâu. Không có trong giường đọc sách, không tắm nắng mà cũng không xuống biển bơi, không chạy giỡn với con chó nốt. Nói cách khác, cô đã biến mất khỏi đảo.

Đầu Đất giương cái mặt hóng chuyện, nhưng nó chẳng cung cấp thông tin nào. Chiếc thuyền vẫn đang neo ngoài bến, nên Stranahan không ngạc nhiên lắm khi phát hiện chiếc kayak màu vàng đã biết mất. Đến lúc ấy thì Joey đã đi xa đến mức ống nhòm cũng trở nên vô dụng. Anh leo lên nóc nhà nhìn dáo dác cầu may, nhưng chỉ nhìn thấy những làn sóng bạc, những chiếc thuyền buồm và ca nô trượt nước. Anh đã định lên tàu để đuổi theo cô, nhưng cơ thể của anh đang rã rời và một chai bia lạnh sẽ có lý hơn.

Ngay khi anh tuột xuống từ mái nhà, con Doberman chạy đến chân anh, rên rỉ trách móc. Nó theo sát gót anh vào bếp.

“Thôi im đi,” Stranahan nói. “Cổ sẽ quay lại thôi.”