← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 16

Thằng Tool coi bộ hoạt bát hẳn sau khi tạt qua thăm một người nào đó tên Maureen ở trung tâm dưỡng bệnh. Chaz Perrone phỏng đoán “con nhỏ” này là nguồn cung miếng dán giảm đau mới của nó, có lẽ là một con y tá gu “mặn”. Coi kìa, nó còn đang chỉnh lại mấy miếng dán trên vai cho ngay ngắn, đẹp đẽ nữa chứ.

“Kể tao nghe về vợ mày coi,” Tool gợi chuyện để nói trong chuyến đi dài về hướng tây.

“Kể gì giờ?” Chaz cảnh giác.

“Lúc còn sống thì nó thế nào?” Tool hỏi.

“Xinh đẹp. Tóc vàng. Thông minh. Hài hước.”

Riêng đoạn này thì Chaz không cần phải gạo bài, vì đó là sự thật. Dẫu vậy, nó vẫn thấy khó chịu khi nói ra điều đó, những lời ấy dường như gợi nhắc cái phần yếu đuối và đa cảm trong người nó những gì đã đánh mất. Nó chán nản thấy thằng cu vô dụng, cứng đầu vẫn phồng lên trong quần.

“Vậy sao cổ chết mà mày tỉnh bơ vậy, không buồn khổ chi hết?” Tool hỏi.

“Ai nói mày là tao không buồn?”

Tool đột nhiên bật cười ha hả: “Buồn chịch thì có. Mới có nhiêu, một tuần hả? Vậy mà mày đã phang gái ầm ầm rồi.”

“Mày nói về con nhỏ vô nhà hôm qua đó hả?” Chaz nói. “Nó là dân mát-xa chuyên nghiệp đó.”

“Vậy tao là phi hành gia chuyên nghiệp nè. Bớt xạo đi, ông đốc-tờ. Kể tao nghe chuyện của mày và vợ đi.”

“Đéo phải chuyện của mày.”

“Ê, bình tĩnh nào.”

Chaz rất phiền vì cái thói tò mò của thằng Tool. Nhưng nó cũng hiểu: làm sao đòi hỏi sự tinh tế ở một thằng du côn làm đốc công trên nông trại. Mà thực ra, những đứa bạn đánh golf với Chaz cũng sẽ hỏi mấy câu tương tự và câu trả lời - dù nó chưa bao giờ mở miệng với ai - kỳ thực rất đơn giản: vì Joey biết nhiều quá. Dù chưa biết đi nữa, thì cô ta rõ ràng đã nghi ngờ.

Ngoài giết cổ, Chaz còn lựa chọn nào khác đâu? Nếu vụ Everglades mà vỡ lở, truyền thông sẽ ăn thịt nó, chân dung nhà sinh vật học bị mua chuộc sẽ lên trang nhất các báo, dù Nam Florida có nổi tiếng là rặt bọn ăn hối lộ đi chăng nữa. Khi ấy Chaz hoặc là vào tù, hoặc bị Red Hammernut xử đẹp, mà cũng có thể là cả hai.

Và điều trớ trêu là nếu vụ giết vợ vỡ lở, người duy nhất trân trọng dũng khí giết người của nó không ai khác ngoài thằng Tool.

Khi đến gần trạm bơm, Chaz cho xe dừng trên sườn dốc, vẫn để máy chạy. Trước mắt nó là đầm lầy, lung linh dưới bầu trời xanh trải dài đến tận chân trời, nhưng Chaz thích đứng ở bãi đậu xe của trung tâm thương mại hơn là ở đó. Nó sợ phát ốm khi nghĩ đến cảnh bộ khung thép xịn xò của con Hummer vấy bẩn vì thứ bùn lầy đầy vi khuẩn.

Tool nói: “Chà, cảnh ở đây đẹp và yên bình quá.”

“Ừ. Thiên đường đó. Tận hưởng đi.”

“Vậy mà mày lại thích ngồi ê mông trên đường I-95. Mày bị bệnh hay gì?”

Chaz bấm còi inh ỏi để đuổi mấy con báo tưởng tượng. Mặc kệ tiếng càu nhàu của Tool, nó nói: “OK, làm cho xong nào.”

Rồi nó bước xuống khỏi con Hummer, bắt đầu thay bộ đồ lội nước chuyên dụng. Tool kiểm tra cái tem mới tinh còn nằm trên lốp trái. Sáng nay, nó bước ra khỏi nhà và thấy một cái lốp xẹp lép. Nguyên con dao thái thịt bò trong bếp đã cắm thẳng vô bánh con xe cưng. Chaz đinh ninh thủ phạm không ai khác ngoài thằng khốn đã đột nhập vào nhà và đánh nhau với Tool.

“Ê, coi con cá sấu kìa,” Tool chỉ vào con vật bốn chân vừa trườn khỏi bụi cỏ.

“Đáng yêu ha,” Chaz mỉa mai.

“Con quỷ ú núc dễ thương gì đâu.”

“Ừ, thương lắm,” Chaz nghĩ: có lẽ mình đã chết và vừa bị đầu thai vào cái show của Discovery Channel .

Nó đang rút cây gậy đánh golf ra khỏi vỏ thì nghe tiếng súng nổ. Giật mình sợ hãi, nó nằm rạp xuống sàn con Hummer. Hé mắt nhìn lên, nó thấy thằng Tool đang từ bụi cỏ trèo ngược lên bờ kè, tay nắm đuôi con cá sấu. Khẩu.38 Chaz mua hôm nọ đang nằm trong túi yếm phía trước của thằng cô hồn.

Hoàn hảo, Chaz chán chường nghĩ. Trong đầu nó hiện ra hàng tít “NHÀ SINH VẬT HỌC EVERGLADES BỊ BẮT VÌ SĂN TRỘM ĐỘNG VẬT HOANG DÔ.

“Ê, mày ăn thử thịt cá sấu chưa,” Tool cười đến mang tai khi nó khoe chiến lợi phẩm. “Lăn bột, rồi chiên trong dầu phộng là ngon nhức nách.”

Hồi trước thì Chaz đã phun cho thằng Tool một bài vì cái sự ngu si có đẳng cấp này, nhưng giờ thì nó đành chấp nhận sự thật là đời mà, đâu thể lúc nào cũng theo ý muốn của mình được. Nở một nụ cười trống rỗng, nó cố giải thích cho thằng Tool hiểu là sát hại động vật hiện được luật liên bang bảo vệ sẽ bị khép tội rất nặng và còn phải vào tù bóc lịch nữa. Tool cười nắc nẻ, bảo chớ lo, bằng chứng phạm tội sẽ biến mất sau buổi ăn khuya ấy mà.

Tool khệ nệ khiêng xác con cá sấu lên phía sau con xe Hummer, Chaz đứng sang một bên, không phản ứng gì. Việc này thực sự đã vượt ngưỡng sốc, hoảng hốt lẫn giận dữ của nó. Nó nhặt cây gậy golf lên, cho lọ đựng mẫu nước thử vào túi áo, lãnh đạm bước vào vùng nước màu nâu.

“Cần tao giúp không?” Tool nói vọng từ bờ đê.

“Dạ khỏi,” Chaz nói.

Niềm tin của Chaz vào khả năng bảo kê của Tool đã suy giảm nghiêm trọng sau màn thể hiện hôm qua. Nó đã bị kẻ lạ mặt cho đo ván hoàn toàn. Tool biện hộ: đối thủ của nó nhẹ hơn nó phải 30 kí và già hơn nó những 20 tuổi. Chuyện kẻ đột nhập đã rời khỏi nhà thằng Chaz mà không một vết trầy xước cũng không ê chề bằng cảnh thằng Tool nằm ngay đơ cán cuốc. “Giang hồ nhà nuôi” rên rỉ cả đêm, cổ quấn khăn chườm nước đá. Mô tả của nó về kẻ đột nhập không giống bất kỳ ai mà thằng Chaz biết. Nên Chaz mặc định kẻ ấy là do gã thanh tra Rolvaag cử đến như một phần của kế hoạch tống tiền. Khi thằng Tool bảo lần sau mà gặp lại kiểu gì nó cũng sẽ bẻ lọi giò đối thủ, Chaz phải kếm chế dữ lắm mới không buông ra mấy lời mai mỉa.

“Mày cần súng không?” Tool lại rống họng lên từ trên bờ.

“Khỏi mà,” Chaz bực bội trả lời.

Với cây gậy golf trong tay, Chaz đánh bạt mấy cây đuôi mèo, dọn dẹp lối đi. So với lần lấy mẫu trước cùng vị trí này, bọn cây cỏ đã kịp kéo nhau mọc lên dày đặc. Đây thật ra là một dấu hiệu không hay, chứng tỏ đã có lượng lớn phân bón hóa học chảy vào đất. Những nhà sinh vật học chân chính gọi đó là hiện tượng “mất đi lớp vỏ sinh vật bám chứa đá vôi đặc trưng”. Diễn dịch ra là nông trại của Red Hammernut đã thải một lượng lớn phân bón hóa học vào nước nguồn khiến thiên nhiên ở Everglades bị bội thực đến chết.

Chỉ cần bất kỳ đồng nghiệp nào của Tiến sĩ Charles Perrone vô tình đi ngang qua và nhìn thấy sự tăng trưởng quá mức của mấy bụi cỏ đuôi mèo, họ sẽ biết ngay số liệu mà Chaz cung cấp về tỷ lệ phốt pho là hoàn toàn bịa đặt. Đó là lý do bình thường nó tốn cả buổi để nhổ sạch gốc bọn cỏ khỏi khu vực này. Nhưng hôm nay thì không, vì chúng nhiều như điên và Chaz lại có cả đống thứ để bận tâm.

Chaz thò tay rờ háng, thằng nhỏ vẫn đang cứng đờ bên trong chiếc quần xà cạp cao su dày cộp. Nó thầm nghĩ: bây giờ mình mà chết thì tụi nhà đòn khỏi đóng nắp hòm.

Mười sáu tiếng đồng hồ đã qua từ khi nó nuốt mấy viên thuốc màu xanh, vậy mà của quý của nó vẫn sừng sững trong quần như cây ba toong. Chẳng sướng chút nào, chỉ thấy cộm, tê cứng, mệt mỏi, khó chịu. Nó đã thử đủ cách, kể cả ngâm vào trong nước đá, nhưng cũng chẳng ăn thua. Với Chaz, đấy là một hình phạt kinh khủng, vì súng đã lên nòng mà không cách chi bắn được.

Nó nhanh chóng lấy nước cho vào lọ mẫu rồi lọ mọ trở lại bờ đê. Tool giương đôi mắt “say thuốc” kết luận: đây là công việc ngớ ngẩn nhất trên đời mà nó từng thấy - múc nước đầm lầy cho vào lọ.

“Tiền lương khá không mày?” Tool hỏi. “Sao tao muốn làm đồng nghiệp mày ghê.”

“Mày giúp tao cởi đống đồ cao su này ra coi,” Chaz nói.

Đám ruồi muỗi ở khu đầm lầy đang bâu lấy người nó dường như chẳng thèm đếm xỉa gì tới thằng Tool, cái thảm lông tự nhiên của nó trở thành mành lưới chống côn trùng hữu hiệu nhất.

“Nhanh lên coi,” Chaz giục. Tool vẫn miệt mài kéo cái xà cạp nặng trịch.

Thấy mình đang quá xui, Chaz quyết định không đổ mẫu thử nước ngay tại đây như thỉnh thoảng nó vẫn làm, ngộ nhỡ nước rỉ ra bộ da xịn sò của con Hummer.

Hóa ra đó là một quyết định sáng suốt. Bởi vì mẫu thử trong lọ hiệu Algine đang nằm ngay ghế đầu khi tụi nó bất ngờ gặp Marta, sếp của Chaz. Bà đang lái chiếc xe tải của bang Florida chạy ngược chiều, hướng về phía cái đập tràn mà hai đứa nó vừa rời đi. Chaz quẫn trí đến mức tự hỏi tại sao bà ta lại xuất hiện ở đây, quên mất đây là lộ trình kiểm tra bình thường trong công việc.

“Cậu vừa làm xong rồi hả?” Bà ta hỏi.

Chaz gật đầu và cầm mẫu thử lên.

“Muốn tôi mang về văn phòng giùm không? Vì tôi chuẩn bị lái ngược về đó đây,” Marta đề nghị.

“Dạ, thôi khỏi ạ,” Chaz giữ chặt mấy lọ thử bằng cả hai tay, sợ Marta sẽ với tới lấy mất. Chỉ cần bà ta hoặc bất kỳ nhà khoa học nào mang mấy mẫu này đi thử phốt pho, đời Chaz sẽ bế mạc. Red Hammernut cũng bế mạc theo.

Không ngoài dự đoán, Marta giật mình khi thấy thằng Tool ngồi ở ghế phụ.

“Sinh viên mới tốt nghiệp,” Chaz bịa. “Nó xin đi theo để học hỏi. Em thấy cũng không ảnh hưởng gì đến công việc.”

Marta nhìn thằng Tool như thể nó đang mặc một chiếc áo dạ hội hở vai. Bà lên tiếng hỏi: “Thế cậu học trường nào thế?”

Thằng Tool mặt đần thối đâu biết trả lời, quay sang cầu cứu Chaz. Chaz nói: “Đại học Florida Atlantic.”

“Phải phải,” Tool làu bàu. “Floor Dilantic.”

Marta cười mạo hiểm: “Chà, chương trình tốt đấy. Nhưng cậu phải ký giấy cam kết khi đưa ai đó đi thực địa chứ. Lỡ gặp tai nạn hay gì đó thì sao?”

“Xin lỗi sếp, em quên mất,” Chaz nói ngay, thầm nghĩ: Ơn Chúa, mình đã kịp giấu con cá sấu chết phía dưới đống đồ lội nước. Marta trở đầu xe tải, trước khi về còn vẫy tay chào. Xe tụi nó đi theo chiếc xe tải dọc đường đê cho đến khi ra cao tốc. Lúc này thằng Tool mới mở miệng nói: “Coi mày kìa, sao tay run dữ vậy?”

“Mày có biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu như bả thấy…” Chaz vừa nói vừa hất cằm ra phía ghế sau, “cái đó không?”

“Tưởng gì, tao đã có sẵn một kịch bản trong đầu luôn.”

“Ờ, kịch bản,” Chaz nói.

“Thì mình bảo là tìm thấy con vật tội nghiệp này bị bắn dưới đầm, xong mình thương quá phải bồng nó đi bác sĩ thú y.”

Thiên tài thiệt, Chaz thầm nghĩ. Dịch vụ xe cấp cứu cho cá sấu!

“Bao tử tao khó chịu quá,” Tool than. “À, có con đỉa dính trên mặt mày kìa.”

“Đéo có vui nhe.”

“Con đỉa bé như con muỗi ấy mà,” Tool kéo nó ra rồi búng ra ngoài cửa sổ. “Trời ơi, chưa gì mà mặt cắt không còn hột máu. Tao nghĩ mày nên kiếm việc khác hợp hơn ấy. Nghiêm túc.”

Nếu đơn giản thế thì còn gì là đời nữa, Chaz nghĩ. Nó rờ tay lên gò má chỗ con đỉa bám, thầm lo không biết cái con chết tiệt ấy có độc không. Rồi điện thoại di động kêu, nhưng nó chẳng buồn nhấc máy. Tool nhìn coi ai gọi và bảo người gọi đã giấu số.

Khi Chaz bắt máy, bên kia đầu dây vang lên giọng kẻ tống tiền: “Tao nghĩ kỹ rồi. Mình nên gặp nhau thiệt.”

Lần này lại là giọng của Chuck Heston, thôi cũng được, vẫn dễ nghe hơn giọng Jerry Lewis.

“Bất kỳ lúc nào,” Chaz nói. “Chỉ cần cho tao thời gian và địa điểm.”

“Nửa đêm nay. Bến tàu, mạn dưới Flamingo.”

“Tao quên chỗ đó ở đâu rồi.”

“Đầu tư cái bản đồ đi,” kẻ tống tiền nói cộc lốc. “Và đừng có xách thằng người rừng theo.”

“Tối hôm qua mày đột nhập nhà tao đấy à?”

“Ừ. Con bồ ngon chớ?”

“Hài hước đấy.”

“Nói gì thì tao cũng rất phục khả năng vượt qua nỗi buồn mất vợ của mày đấy.”

“Khuya nay gặp,” Chaz Perrone nói.

Joey đứng một mình trước gương trong nhà tắm, lẩm bẩm: “Này, con kia, mày lại thế nữa rồi.”

Cô đã cố hết sức kiềm chế bản thân rồi đó chứ, thậm chí còn lên cả một cái sớ:

Ảnh quá già với mình.

Mình quá trẻ với ảnh.

Ảnh có quá khứ tình trường phức tạp.

Mình có quá khứ tình trường phức tạp.

Anh hỏng thích Alicia Keyes.

Mình chưa từng nghe Karla Bonoff.

Ảnh sống trên đảo và bắn người lạ vì chúng tấn công chó của ảnh.

Mình sống…

Joey chỉ nghĩ được đến đó, trong danh sách “Mười lý do hợp lý để không ngủ với Mick Stranahan”. Danh sách này tất nhiên dư sức dài hơn bảy điều, nhưng thay vì viết nốt những điều còn lại, Joey trót… ngủ béng với anh rồi.

“Mày mất hết tỉnh táo rồi,” cô tự nói với mình trước gương. Đã vậy cô còn là người chủ động nữa chứ. 3 giờ sáng, cô vẫn nằm một mình trên giường, cửa sổ mở toang, mùi mặn của gió biển thấm trên đầu lưỡi. Mỗi khi nhắm mắt, cô lại nghe thấy một âm thanh dội liên tục vào tai: két, két, két - nhưng mở mắt ra thì lại chẳng nghe thấy tiếng gì nữa. Đột nhiên cô vỡ lẽ cái âm thanh như đóng đinh vào óc ấy chính là từ cái nệm lò xo, trong lúc Chaz chịch con nhỏ hippy khí thế ở trên thì cô phải gồng cứng người ở dưới.

Làm sao quên được cái cảnh ê chề, cô rúm ró như một kẻ trộm, trong phòng ngủ từng là của mình, buộc phải nghe những tiếng rên đầy nhục dục của gã đàn ông mà mới một tuần trước còn là chồng cô. Sao mà hèn mọn, sao mà cô đơn, sao mà thảm hại thế này. Cô bèn thức dậy, im lặng đi đến phòng khách, Mick Stranahan vẫn đang ngủ trên ghế dài. Cô nhẹ nhàng chui vào nằm cạnh anh, bảo rằng tôi cần một vòng tay cảm thông quá, một ai đó đủ mạnh để ghì xiết tôi, dẫu chỉ trong giây lát.

Khi cô đã ngả vào người anh, nghe tiếng thở nhịp nhàng đều đặn, cô chợt nhận ra một chiếc ôm dẫu có ngọt ngào mấy vẫn là chưa đủ. Cô muốn…

“Mình thật thảm hại,” cô nói rồi lấy nước lạnh hất vào mặt mình.

Khi bước ra ngoài, cô thấy anh đang ngồi bên bờ biển, gọi điện thoại di động. Sau khi gác máy, anh bảo cô ngồi cạnh mình.

“Sáng nay, trông em như gái mười tám ấy,” anh nói.

“Biết đùa đấy, Mick.”

“Anh nói thật,” Mick huýt sáo gọi con Đầu Đất, nó đang dí sát mũi vào một con bồ nông gắt gỏng.

“Mình nên nói về chuyện đêm qua,” Joey nói.

“Anh mệt như chó. Anh đã làm hết sức rồi.”

“Ý em không phải thế. Anh… tuyệt lắm,” cô nói. “Nhưng em nghĩ mình nên làm rõ vài điều.”

Anh cầm lấy tay cô: “Đấy là điều cuối cùng mình nên làm đó. Tin anh đi.”

Joey giật tay ra: “Em không có giỡn. Em nghiêm túc đấy.”

“Anh cũng nghiêm túc mà,” anh nói. “Anh đã có nhiều buổi sáng mình cần làm rõ kiểu này hơn em. Và rốt cục thì chẳng có gì rõ ràng, cũng chẳng có sự thấu hiểu giữa đôi bên. Thôi, mình ăn sáng đi.”

“Nhưng em sợ đấy chỉ là một cuộc làm tình phẫn uất,” Joey nói. “Rose nó gọi vậy đó.”

“À. Lại là những câu từ khôn ngoan từ CLB sách vở.”

“Chứ anh không buồn sao, nếu em làm việc ấy chỉ vì em giận thằng Chaz.”

“Vậy coi như anh nợ nó đi,” Stranahan nói. “Cám ơn vì đã lừa dối, đã giết người, đã gian trá, đã thiêu rụi một linh hồn. Em không đói thật à?”

“Không!”

Anh kéo cô lại gần, rồi ôm lấy cô, Đầu Đất đã đến từ phía sau và liếm vào ót cô. “Đêm qua em đã rất là hả hê, nhớ không? Em kể chuyện thằng Chaz bị kẹt đạn, súng ống không cách chi bắn được chỉ vì nó nghe thấy mùi nước hoa của em. Em bảo đấy là một chiến thắng vô giá. Vô giá, khi biết nó hoàn toàn bị kiềm tỏa bởi suy nghĩ về em.”

Joey buộc phải mỉm cười: “Lúc ấy hả hê thiệt đó anh. Em nghe nó nói với con nhỏ kia là nó chẳng cảm thấy gì cả. Nó đã bị tê từ eo xuống chân.”

“Đó, thấy chưa. Cái cảm giác ấy phải sướng gấp trăm lần một cuộc làm tình phẫn uất, ngay cả bà bạn Rose ngộ nghĩnh của em cũng sẽ tán thành thôi. Giờ thì làm ơn cho anh nạp cà phê vào máu nhe…”

“Coi nào, Mick.”

“Suỵt,” anh đưa ngón tay lên môi cô. “Thật lòng anh không cần bất kỳ lời giải thích nào cho tối qua đâu. Hãy để cho anh ôm ảo tưởng của một gã đàn ông trung niên, là em đã vượt qua cú sốc đời mình nhờ vào sự quyến rũ mạnh mẽ và khắc kỷ của anh.”

Joey ngả đầu tinh nghịch trên vai anh: “OK, chàng cao bồi, em thua.”

“Vậy mới ngoan.”

“Hồi nãy anh gọi cho Chaz hả?”

“Ừa,” Stranahan nói. “Tụi anh bàn chuyện sẽ gặp vào đêm nay.”

“Anh định đòi cái gì?”

“Hỏi hay lắm. Để coi trong danh sách của em có những mục nào,” anh nói. “À, anh nghĩ Thanh tra Rolvaag cũng sẽ viếng thăm chàng trai góa vợ của chúng ta sớm thôi. Công tác điều tra vừa có tiến triển bất ngờ.”

“Kể em nghe đi.”

“Anh chỉ có thể nói là sốc,” Stranahan nói. “Rất sốc luôn.”

Karl Rolvaag xới tung cái nhà lên.

Hai con trăn, mỗi con dài phải bốn mét rưỡi, làm sao có thể biến mất không thấy tăm hơi trong căn hộ nhỏ như lỗ mũi của mình được?

Không thể tin nổi, Rolvaag nghĩ. Tụi nó ở đâu ta?

Tối hôm trước anh đã quên đóng nắp chuồng sau khi châm nước uống cho chúng. Trước đây Rolvaag cũng quên như thế hai lần rồi, nhưng hai con thú cưng chẳng buồn để ý. Bây giờ đang là mùa xuân, mùa năng động của lũ bò sát, có lẽ tụi nó đã tận dụng sự bất cẩn của anh để bò ra.

Rolvaag sục sạo dưới gầm bàn gầm ghế, trèo lên kiểm tra kệ sách, đằng sau và cả bên trong mấy vật dụng gia đình - không một dấu vết. Khi vào phòng ngủ, Rolvaag ớn lạnh khi nhìn thấy cửa sổ mở toang. Hai con trăn đã bò ra ngoài rồi ư? Viên thanh tra nhìn trân trối xuống bảy tầng nhà phía dưới, xuống sân chơi shuffleboard vốn thuộc về phòng sinh hoạt cộng đồng của chung cư Sawgrass Grove. Dọc theo lối đi trồng hoa dâm bụt ẩm ướt bẩn thỉu, bà già Nelie Shulman đang dẫn cục cưng Petunia đi dạo, trông cứ như con lai giữa chó sói và sóc Nam Mỹ. Mấy người hàng xóm của bà cũng đang dẫn thú cưng ra ngoài, thú trước người sau, nối nhau bởi mấy sợi dây. Từ góc nhìn của mình, Rolvaag đếm thấy năm con chó, vừa vặn cho bao tử của trăn nhà mình. Anh biết là mình phải mau chóng tìm thấy hai con trăn, trước khi tụi nó đói bụng.

Nhưng trước hết phải tóm thằng Charles Perrone.

Trên đường đi làm, anh đã gọi cho người quen tại công ty điện thoại, người này sau chút làu bàu cũng chịu giúp đỡ. Thời gian đang cạn dần, Rolvaag cần phải có bằng chứng là Perrone nói dối. Nhưng đây phải là một lời nói dối nghiêm trọng hơn vụ nêu sai giờ hoặc các tiểu tiết tương tự. Người quen của Rolvaag tại công ty điện thoại đưa cho anh danh sách những cái tên và những số điện thoại mà Chaz đã gọi mấy ngày qua. Trong số này chỉ có duy nhất một cái tên có ý nghĩa với viên thanh tra.

Ricca Spillman mở cửa và nhìn thấy huy hiệu cảnh sát. Con nhỏ nhìn xơ xác như vừa mới ngủ trong cốp xe dậy.

“Cô ổn không vậy?” Rolvaag hỏi.

“Phải làm ly cà phê mới ổn.”

Rolvaag để ý thấy có cả nửa tá lon bia rỗng trong thùng rác, nhưng không có dấu vết gì của khách đến nhà.

“Tôi đang điều tra một vụ mất tích, hẳn là cô biết bà Joey Perrone?”

Cô nàng xem ra hơi loạng choạng. Rolvaag phải hướng cô về phía ghế ngồi.

“Lúc đó tôi đâu có ở trển đâu,” cô nói.

“Ở đâu?”

“Trên du thuyền.”

“Tôi biết cô không có trên đó chứ,” Rolvaag bối rối.

“Vậy ông tới đây chi?” Con nhỏ cười khổ sở. “Ai đó dán mặt tôi lên thùng sữa hay gì? Tự dưng tôi thành người nổi tiếng vậy?”

Thanh tra bảo mình đang theo dõi Charles Perrone, thấy gã gọi điện từ buồng điện thoại trả tiền ở khách sạn Fort Lauderdale. “Hôm ấy là tối thứ Bảy, chỉ một ngày sau khi bà Perrone bị mất tích, số điện thoại mà ông ta gọi là của cô. Khi tôi hỏi thì thì ông ấy bảo mình vừa gọi cho Ricca.”

Con nhỏ chùng giọng: “Rồi nó còn nói gì nữa? Mà khoan, tôi muốn gọi luật sư.”

Rolvaag kéo thêm một cái ghế: “Cô không cần đến luật sư đâu, thưa cô Spillman. Tôi chỉ nhờ cô đưa ra nhận xét của mình về mối quan hệ giữa ông Perrone và vợ ông ấy, dựa trên quan sát của cô thôi.”

“Quan sát?”

“Đúng rồi. Họ có hạnh phúc không? Họ có cãi nhau nhiều không?”

Ricca nhìn anh sưng sỉa: “Ông Perrone và tôi không có tâm sự gì về cô ta hết.”

“Nhưng hẳn là cô phải để ý thấy gì đó chứ… những dấu hiệu căng thẳng của cả hai chẳng hạn?”

“Tôi chưa bao giờ thấy hai người cùng lúc hết.” Ricca nói chắc nịch. “Tôi chỉ gặp riêng Chaz thôi.”

“Lúc cô đến nhà, chưa bao giờ có Joey ở đó à?”

Lúc này thì Ricca có cảm giác bị xúc phạm: “Tôi không biết Chaz nói gì với ông, nhưng tôi không phải phường chơi ba, được chưa? Tôi không ưa mấy trò tập thể.”

Thanh tra cau mày: “Tôi xin lỗi. Tôi tin là ông Perrone đã diễn dịch sai về mối quan hệ thực sự của hai người.”

“Gã nói cái gì?”

“Ông ta bảo cô là người dọn dẹp nhà của họ.”

“Cái gì cơ?” Ricca ngồi xích lên.

“Hôm ở sảnh khách sạn, ông ấy bảo gọi cho cô để đưa mã số báo động, để cô còn vào nhà dọn dẹp.”

“Trời ơi. Ô sin dọn nhà!” giọng Ricca đứt quãng.

Rolvaag lật ra mấy trang sau cuốn sổ: “Đây, ông Perrone bảo cô là người dọn nhà và tôi có thể tự mình kiểm tra. Ông ấy bảo cô tên là Ricca, nhưng không nhớ nổi cô họ gì cả.”

Ricca thấy mình nghẹn ở cổ họng.

“Bởi vậy tôi mới đi tìm số của cô ở công ty điện thoại đó chứ,” thanh tra nói.

Ricca đứng dậy, dụi mắt bằng tay áo pajama nhăn nhúm: “Tôi phải đi làm.”

“Cô còn gì khác để nói với tôi không?” Rolvaag hỏi.

“Có. Tôi không làm việc nhà, tôi làm tóc,” con nhỏ nói. “Cái hệ thống báo động của Chaz hư rồi, nên vụ mã số là xạo nốt. Ông có thể tự kiểm tra.”

Tình tiết này không đến mức chấn động, Rolvaag nghĩ, nhưng có còn hơn không.

Trở lại văn phòng, anh lao nhanh đến chỗ sếp Gallo để báo cáo lại những gì Ricca Spillman vừa nói. Gallo nhún vai: “Vậy là Perrone xạo.”

“Một lần nữa,” Rolvaag nói.

“Vậy cũng chỉ nói lên được một điều: nó có bí mật muốn giấu, chứ đâu có suy ra nó giết người được,” sếp nói. “Tất nhiên nó xạo vụ con bồ, nhưng anh trông đợi nó nói gì: Vâng thưa thanh tra, tôi vừa nói chuyện với con bồ. Nó hoảng lắm khi biết tin vợ tôi té xuống biển ngay trong chuyến du lịch kỷ niệm ngày cưới. Làm ơn đi Karl. Đôi khi một lời nói dối chẳng dẫn đến đâu cả. Nó chỉ là phản xạ thôi.”

Về việc này, Rolvaag không cãi Gallo được. Anh chỉ xin thêm vài ngày để dõi theo Ricca. “Cô ta có vẻ rất bực mình về thằng bồ. Cô ta có thể cung cấp vài thứ hữu ích.”

Gallo lắc đầu: “Nếu cô ta không đeo một chiếc nhẫn đính hôn kim cương từ kẻ tình nghi, thì tôi chẳng quan tâm nhân vật này. Chúng ta cần tìm ra động cơ Karl à. Một thứ gì đó đáng tin hơn là lời chua chát của một ả bồ nhí - trừ khi cô nàng cũng liên quan vụ đó.”

“Cô này chắc không liên quan đâu,” Rolvaag nói.

Một kiện hàng được gửi tới văn phòng: một bì thư, mặt trước trống trơn, để trong túi zip. Gallo tự động chồm tới lấy, nhưng người phát thư nói kiện hàng cho Rolvaag. Viên thanh tra ngạc nhiên, mở phong bì, lấy ra một tài liệu pháp lý.

Gallo cười hắt. “Gì đó, kiện tụng huyết thống à?”

Rolvaag quá tập trung vào nội dung tài liệu đến độ không nghe được gì.

“Sao? Đừng nói với tôi lại có thư mời làm việc chỗ khác nữa nhé.”

Viên thanh tra vẫn chăm chú, lật tiếp các trang tài liệu. “Không thể tin được,” anh lẩm bẩm một mình.

Gallo bắt đầu mất kiên nhẫn.

“Karl, đừng có chọc tôi nhé, cái gì đó hả?”

Rolvaag nhìn lên với ánh mắt sửng sốt.

“Di nguyện và di chúc của Joey Perrone, cô ta để lại mười ba triệu đô cho người chồng thương mến, tận tâm của mình.”