CHƯƠNG 17
Một chiếc xe tải, kéo sau lưng một con Cordoba rỉ sét, suýt nữa đã quẹt vào con sedan cáu cạnh của Karl Rolvaag khi viên thanh tra quẹo vào Đồi cát Tây Boca Giai đoạn II. Nhìn chiếc xe tả tơi đang được kéo đi, Karl nghĩ nó là xe chôm. Có lẽ bọn thanh niên du côn đã thó nó ở đâu rồi mang về khu nhà của Charles Perrone. Chứ cư dân ở khu sang trọng này mà lái đống đồng nát ấy kiểu gì cũng bị cười chết.
Rolvaag đậu xe kế con Hummer vàng chóe của Perrone, lưới tản nhiệt của con Hummer lốm đốm xác chết côn trùng. Đậu kế bên, trong góc tối là chiếc Grand Marquis mới cáu. Nhìn mã vạch, Rolvaag biết nó là xe thuê. Anh đặt tay lên mui, lạnh ngắt. Chợt có tiếng động thình thịch sau nhà, thanh tra đi vòng ra phía sân sau và nhìn thấy gã đàn ông. Quen quá, Earl Edward O’Toole đây mà. Gã đang hì hục đóng một cây thánh giá gỗ màu trắng xuống mặt cỏ.
Viên thanh tra đặt cặp táp xuống, tự giới thiệu mình rồi hỏi: “Anh là bạn của bà Perrone ư?”
Earl Edward O’Toole dường như khó chịu bởi câu hỏi. Gã lắc đầu rồi tiếp tục đóng đục.
“Cây thập giá này là cho bà ấy đúng không?” Rolvaag hỏi.
Earl Edward O’Toole lầm bầm gì đó nghe không rõ. Rolvaag bèn tiến lại gần hơn để đọc những dòng chữ được viết tay trên cây thánh giá.
Randolph Claude Gunther
Ngày sinh 2-24-57
Trở về trong vòng tay tha thứ của Chúa cứu rỗi vào ngày 8-17-02
Uống rượu khi điều khiển phương tiện giao thông là tội ác!
“Bạn của ông à?” Rolvaag hỏi.
“Con chó của tôi,” Earl Edward O’Toole đáp, tránh nhìn vào mắt thanh tra.
“Trời, tên con chó ngầu vậy. Randolph Claude Gunther.”
“Chúng tôi gọi nó là Rex cho thân mật.”
“Tôi chưa bao giờ nhìn thấy con chó nào sống tận 45 năm,” viên thanh tra nhận xét. “Bọn vẹt thì được, bọn rùa cũng sống dai, nhưng chó thì quả thật quá hiếm.”
Earl Edward O’Toole lại đóng đóng đục đục. “Ờ, giống tốt nó thế.”
“Còn lưng ông bị gì thế,” Rolvaag hỏi. “Mấy miếng dán này để làm gì?”
Earl Edward O’Toole ngập ngừng: “Thuốc đấy,” gã đáp đầy cảnh giác.
“Thuốc trị bệnh gì?”
“Say sóng.”
Thanh tra đếm tổng cộng có năm miếng dán, anh chu mỏ huýt sáo.
Earl Edward O’Toole nói: “Tôi chuẩn bị đi biển.”
“Vậy ư? Đi đâu?”
Earl Edward O’Toole lại ngập ngừng lần nữa trước khi trả lời: “Haiti. Tôi dẫn má đi tắm biển.”
“Một ý tưởng hay. Có lẽ nó sẽ giúp ông quên đi cái chết của Randolph già tội nghiệp,” Rolvaag đang cảm thấy khoái chí. Khi về lại Minnesota làm sao còn dịp nói chuyện với mấy nhân vật quái đản như vậy đây.
“Tôi có thể hỏi ông tại sao lại đi trồng mấy cây thánh giá ở đây không? Vì đây đâu có phải khu nghĩa trang.”
“À. Con chó của tôi nó bị… rơi máy bay,” Earl Edward O’Toole nói, “nên hỏng còn gì để chôn hết.”
“Tôi thấy trên cọc ghi uống rượu khi điều khiển giao thông mà.”
“À. Thì thằng phi công nó uống rượu khi lái máy bay.”
“À. Vậy mấy cây thánh giá kia thì sao?” Thanh tra chỉ vào ba cái thánh giá đang nằm xếp lớp trên mặt cỏ. “Họ là ai vậy, ông Earl?”
“Con của Rex. Tụi nó… bay chung chuyến,” Earl Edward O’Toole trả lời dằn hắt. “Ủa mà sao ông biết tên tôi vậy?”
“Nói chuyện với ông vui quá,” Rolvaag cầm cái cặp táp lên rồi đi thẳng vào nhà. Charles Regis Perrone đang ủ rũ chờ anh ở cửa sau.
Mấy cây thánh giá trắng vốn nằm dọc đường Glades, phía tây cao tốc thu phí. Có bốn cái nằm thành một cụm, để tưởng niệm một vụ tai nạn giao thông thương tâm. Chaz đã phải bất lực nhìn thằng đệ của Red Hammernut nhổ từng cây một, cho đến khi một chiếc xe rít lên và thắng gấp bên vệ đường cao tốc. Hai thanh niên từ xe bước xuống, tự nhận là anh em của người quá cố Randolph Claude Gunther. Hai người giận dữ truy vấn thằng Tool vì sao lại đi chôm cột tưởng niệm của người thân mình. Họ không chỉ cầm bó hoa hướng dương mới cắt mà còn mang cả cuốn Kinh Thánh để chuẩn bị đọc bên cột tưởng niệm người chết. Thấy Tool giả điếc, hai thanh niên bèn giận dữ rao giảng, lôi cả Satan và mấy nhân vật phản diện trong Kinh Thánh ra làm minh họa. Tool đáp lại bằng cách xô hai đứa xuống một con kênh gần lộ, xé toạc quyển Kinh Thánh và ăn luôn mấy bông hướng dương. Ở trong xe, Chaz nhìn toàn cảnh sự vụ mà rùng hết cả mình.
Lúc này thằng Tool đã quay trở lại con Hummer, xách bốn cái thánh giá trên vai, nói đầy tự hào: “Ở nhà tao có cả vườn thánh giá luôn.”
“Ờ ờ,” Chaz ậm ừ.
“Trồng trên đất đẹp vãi đái luôn, đã vậy còn không phải bón phân tưới nước như tụi cây cảnh.”
“Xuất sắc,” Chaz nói, sáng mai nhất định phải gọi ngay cho Red Hammernut để xin cấp một thằng bảo vệ mới.
Khi trở về nhà rồi, Tool mới mượn thằng Chaz cây búa để trồng tạm bốn cái cây thánh giá ở sân sau. Chaz đã làm dữ hơn nếu biết thanh tra Rolvaag ghé qua.
“Làm sao ông biết ông O’Toole?” Viên thanh tra hỏi ngay ngưỡng cửa.
Đấy là lần đầu tiên Chaz biết tên thật của thằng cô hồn.
“Là bạn chung với một người bạn.”
“Người bạn ấy tên Samuel Johnson Hammernut phải không?” Rolvaag hỏi.
“Ừ, thực ra thì ổng là bạn của vợ tôi. Tôi cũng không biết nhiều về ông ấy.”
“Ông nào? O’Toole hay Hammernut?”
“Cả hai luôn,” Chaz làm ra giọng ngây thơ.
Thanh tra rờ cằm: “Chà, lạ nhỉ?”
“Ý ông là sao? Lạ cái gì?” Chaz hỏi, sắp nổi cơn điên tới nơi. Lão thanh tra rõ ràng đang chơi trò mèo vờn chuột.
“Con Hummer của ông là do một trong những công ty của ông Hammernut đứng tên mua,” Rolvaag nói. “Chỗ bán xe còn lưu hồ sơ.”
Thôi chết mẹ rồi, Chaz than thầm.
“Ông không biết gì nhiều về ông Hammernut, vậy mà ông ta mua cho ông một con xe thể thao giá sáu mươi ngàn đô?” Rolvaag giờ chuyển từ gãi cằm sang gãi đầu, cứ như nhân vật thanh tra Columbo trên truyền hình. Chaz giờ bấn loạn rồi, nhưng vẫn ráng giữ mặt bình tĩnh.
“Để tôi giải thích,” nó nói với thanh tra. “Chiếc Hummer là quà sinh nhật của Joey. Red - ý là ông Hammernut - quen một người làm sale, nên người này bán lại cho ông ta với giá hời. Sau đó Joey lấy chiếc xe rồi trả tiền lại.”
“Ngân phiếu hả ông, hay chuyển qua ngân hàng? Thực ra nó cũng không quan trọng. Ngân hàng chắc họ còn lưu hồ sơ.”
Chaz Perrone rụt vai: “Tôi không biết cổ trả bằng gì nữa. Tiền của cổ mà.”
Giờ hai người đã vào nhà bếp, Chaz vẫn chưa động đến chai bia, trong khi thanh tra uống Sprite như thường lệ. Hai người nói chuyện giữa tiếng xèo xèo của cái chảo trên bếp.
Chaz nhướn người về phía trước và hạ giọng: “Mình dẹp hết mấy trò vờn nhau tào lao này được không? Cứ nói tôi nghe ông muốn bao nhiêu.”
Lần này thì Rolvaag hoang mang thật.
“Thôi nào,” Chaz nói. “Đừng làm mất thời gian của nhau nữa.”
“Tôi không hiểu ý ông.”
Không muốn làm cho thanh tra giật mình, Chaz đã cố né từ “tống tiền”.
Rolvaag nói: “Ông cần biết là tôi đã nói chuyện với ông Hammernut ở LaBelle. Ông ấy bảo ông O’Toole là một người làm cũ, chứ không phải bạn bè gì cả. Thậm chí ông ta còn không nhớ là mình từng thuê ông O’Toole nữa kìa.”
Chaz tựa lưng ra sau, khoanh tay lại. “OK. Vậy giờ mình chơi theo cách của ông đi.”
Làm như tao có lựa chọn khác ấy, Chaz rủa.
Đang mồ hôi nhễ nhại, thằng Tool vẫn vào bếp để kiểm tra thức ăn. “Ba phút là chín,” nó thông báo rồi lại ra ngoài sân.
“Ông ấy ở cùng với ông à?” Rolvaag hỏi.
“Vâng, cái nhà của nó đang phun thuốc diệt côn trùng.”
“Vậy cái đống thánh giá kia là gì?”
“Tôi không rành,” Chaz Perrone đáp, “nhưng nó có thể là minh chứng cho sự hâm hấp của nó.”
“Thật vậy.”
“Nó còn bảo trong đít nó có nguyên viên đạn chưa lấy ra.”
“Ai cũng có vấn đề của mình,” Rolvaag nói.
“Ủa mà ông đến đây chi vậy?” Chaz chất vấn, thầm nghĩ ngoài chuyện nắn gân bóp dái tao thì mày còn làm gì nè?
“Có việc mới đến chứ ông,” thanh tra đáp.
“Vậy mình vào luôn vấn đề được không? Tôi vừa mới lái xe ba tiếng đến giữa chốn đồng không mông quạnh, nhờ ông cả đấy.”
Rolvaag với lấy cái cặp, nhưng thằng Tool lại xuất hiện, lau cái thân hình nhễ nhại mồ hôi của nó. Với giọng quá khích bất thường, hỏi có ai thấy đói không.
“Giờ tôi có thể ăn nguyên chiếc xe bus cũng được,” gã nói, rồi lấy nĩa cắm phần đuôi cá sấu từ chảo cho lên đĩa.
Thôi xong, vậy là Rolvaag sẽ ở lại ăn tối rồi, Chaz nghĩ. Nó hy vọng tài nấu nướng của thằng Tool sẽ không làm thanh tra nhận ra mình đang ăn động vật quý hiếm.
“Tôi hy vọng ông thích thịt gà,” Chaz nói với thanh tra.
Tool không kiềm nổi một cái cười chế nhạo. “Ờ, gà bự chà bá. Gà đầm lầy nha.”
“Nghe mùi ngon quá,” Rolvaag nói. “Nhưng thôi, nhà tôi đang có món lasagna rồi.”
“Còn bụng của tôi cũng đang biểu tình nữa rồi,” Chaz tát nước theo mưa. Đuôi thằn lằn tiền sử áp chảo là trải nghiệm ẩm thực cuối cùng mà nó muốn thử. Nó hiểu rõ hơn ai hết cái đầm lấy ấy độc hại cỡ nào khi phải hứng chịu đống nước thải hóa chất từ nông trại Hammernut. Biểu nó ăn thứ gì từ chỗ ấy ư? Trừ phi nạn đói xảy ra.
Thế là thằng Tool chỉ chờ có thế: “Thế để tao tộng hết một mình vậy.”
Và gã đã ngồi vào bàn, tiếng nhai ngồm ngoàm thô tục từ miệng thằng Tool khiến Chaz Perrone và Karl Rolvaag phải chuyển ra phòng khách. Nhìn thấy cái hồ cá đã sinh động trở lại, thanh tra tỏ vẻ ngưỡng mộ:
“Mấy con cá sọc xanh dễ thương kia có phải cá hoàng đế không?”
“Tôi cũng nghĩ như ông vậy,” Chaz thầm nghĩ: bộ mày tưởng tao là Jacques Cousteau chắc.
“Mà hồi nãy ông định hỏi tôi cái gì mà,” Chaz chuyển hướng câu chuyện. “Trước khi mình bị tay đầu bếp kia nhảy vô.”
Rolvaag lúc này đã ngồi trên sofa và mở cặp ra. Lật tập tài liệu, anh nói: “Tôi cần mẫu chữ viết tay của vợ ông!”
“Để làm cái quái gì?” Chaz biết phản ứng của mình không khôn ngoan lắm, nhưng đề nghị của tay thanh tra đã làm nó mất bình tĩnh.
“Để đối chiếu ấy mà,” Rolvaag nói.
Chaz trợn mắt khịt mũi, phản ứng quen thuộc mỗi khi bị công vụ hỏi thăm. Thói quen này đã gây rắc rối cho nó không ít hồi còn đi học.
“Tôi đâu cần gì nhiều,” Rolvaag nói. “Một vài hàng chữ, viết chì hay viết mực đều được.”
Chaz đứng dậy khỏi chỗ ngồi, bảo để coi có tìm thấy được gì không và tất nhiên nó biết là sẽ không có gì rồi. Nó đã ném mọi thư từ Joey viết cho nó - thiệp sinh nhật, thư tình, mấy mảnh ghi chú… Viên thanh tra lởn vởn trong lúc Chaz giả vờ tìm kiếm.
“Tôi ném hết đồ của cổ rồi,” nó nói trong lúc lục cái kệ trong phòng ngủ.
“Tôi nhớ mà. Vậy ông cất mấy cái thùng đó ở đâu?” Rolvaag hỏi.
“Trong kho,” Chaz thầm nghĩ: dưới năm ngàn tấn rác.
“Một chữ ký cũng được nữa.”
“Chờ chút đi. Tôi vẫn đang tìm.”
“Sổ ngân hàng thì sao?”
Chaz lắc đầu là mở một ngăn kéo khác. Nó hoàn toàn không biết gã thanh tra định làm gì với chữ viết tay của vợ nó, nhưng rõ ràng là bất lợi rồi.
“Biên lai thẻ tín dụng thì sao?” Rolvaag lại hỏi.
“Có Chúa mới biết cổ cất mấy cái đó ở đâu.”
“Công thức nấu ăn? Một vài người hay ghi công thức nấu mấy món ưa thích trên phiếu ghi chú.”
“Joey là một cô gái tuyệt mỹ, nhưng không phải là nữ hoàng trong nhà bếp đâu,” Chaz cố nhồi sự luyến tiếc vào trong câu nói. “Lúc cổ còn sống, bọn tôi toàn ăn ngoài.”
Rolvaag đề nghị ra kiểm tra xe của Joey thử. “Biết đâu cổ làm rơi danh sách siêu thị trên sàn xe.”
“Có lý,” Chaz nói, biết thừa có tìm cũng vô ích. Rolvaag đảo mắt một vòng quanh ga-ra trong khi Chaz sục sạo con Camry vẫn còn thoảng mùi nước hoa thơm chết người của vợ. Chết mẹ, lỡ nó cương ẩu thì toi, Chaz bèn chuyển sang hít thở bằng miệng cho chắc ăn.
Cuối cùng, Rolvaag bèn nói: “Thôi, cám ơn ông vì đã thử tìm kiếm.”
Thằng cảnh sát này diễn giỏi thiệt chớ, Chaz phải thừa nhận. Gã không hề để lộ thân phận một chút nào. Chaz đã theo dõi từng li từng tí, xem thanh tra có đá lông nheo hay nháy mắt với nó không, nhưng khỏi có. Tên cớm khác một trời một vực với cái vai tống tiền diễn rất tốt qua điện thoại. Từ lúc đến đây, gã tuân thủ đúng kịch bản tìm chứng cứ. Một thằng tội phạm kém tinh ý hơn có lẽ đã phải gạt ngay viên thanh tra ra khỏi diện tình nghi tống tiền. Nhưng Chaz Perrone vẫn không nao núng. Càng nghĩ, nó càng không tin được có bất kỳ ai chứng kiến cảnh án mạng trên Sun Duchess. Nó biết mình đã cẩn trọng như thế nào trước khi hành động. Nó đã đợi cho đến khi không có một người nào khác trên boong. Nó còn đứng lại một mình trên boong thật lâu sau khi xong việc, chờ nghe tiếng rơi trên biển, nhưng đêm tối chỉ vọng lại âm thanh của động cơ. Không một tiếng nói, tiếng chân người càng không. Thằng thanh tra rõ ràng chỉ hù mình để tống tiền. Không ai khác có thể nhìn thấy cảnh nó hất Joey xuống biển.
Khi quay trở về phòng khách, Chaz rụt rè hỏi: “Diễn viên yêu thích của ông là ai?”
“Để tôi nghĩ xem,” Rolvaag bặm môi. “Frances McDormand.”
“Ai?”
“Cái cô đóng Fargo ấy.”
“Không. Ý tôi là diễn viên nam mà.”
“Tôi không biết mình thích ai nhất nữa. Chắc Jack Nicholson quá.”
“Vậy hả? Còn tôi chỉ thích Charlton Heston thôi,” Chaz cố quan sát từng chuyển động hoặc thay đổi sắc diện nhỏ nhất từ viên thanh tra.
Rolvaag nói: “Ừ, ông ấy cũng hay. Ben-Hur thì kinh điển rồi.”
Thế đấy, không chớp mắt ngạc nhiên, không nhếch mép mỉm cười. Chaz Perrone bực quá, buột miệng: “Có ai bảo với ông là đôi khi giọng ông giống Charlton Heston không?”
Thanh tra tỏ ra thích thú. “Giống Charlton Heston? Lần đầu tôi nghe luôn.”
Thằng cha này lạnh như băng, Chaz nghĩ.
Nó nói: “Xin lỗi vì không thể tìm thấy chữ viết tay của Joey. Tôi cũng không tin là đến giờ này, không còn thứ gì của cô ấy trong nhà nữa.”
“Không sao. Tôi sẽ gọi cho ngân hàng,” Rolvaag nói. “Chắc họ phải lưu chữ ký của cô ấy trên hệ thống.”
“Tôi có thể hỏi tại sao ông lại cần chữ viết tay của cổ không?”
“Được chứ.”
Thanh tra lấy ra một phong bì lớn từ trong cặp, rồi đưa cho Chaz Perrone. Ngón tay nó run lẩy bẩy khi mở phong bì. Chỉ vừa lướt nhanh mấy dòng đầu là nó hỏi liền: “Sao ông có cái này?”
“Cứ đọc tiếp đi,” Rolvaag nói và đi vào trong bếp.
Sau khi đọc xong, trái tim của Chaz như muốn chui ra khỏi lồng ngực, áo của nó đã ướt đẫm mồ hôi, đầu của nó kêu ruỳnh ruỳnh như bàn bi-lắc. Trước mặt nó là bản phô tô một tài liệu mang tên: “Di chúc và di nguyện cuối cùng của Joey Christina Perrone.” Với Chaz, những gì ghi trong đó là một tin tốt tuyệt đỉnh lẫn tin xấu cực đại.
Tin tốt: người vợ quá cố để lại cho nó 13 triệu đô.
Tin xấu: thằng thanh tra luôn rình bằng chứng giết vợ của nó đã tìm ra một thứ gọi là động cơ.
Chaz đặt đống tài liệu lên đùi, chùi hai bàn tay ướt sũng lên ghế. Nó lật nhanh đến trang cuối và nhìn vào chữ ký.
“Phải chữ ký của cổ không?” Rolvaag đã đứng ở ngưỡng cửa và đang uống một chai Sprite nữa.
“Tôi thề với ông là tôi không biết gì về tờ di chúc này,” Chaz nói. “Ông có thể dùng máy kiểm tra nói dối.”
“Ông nhìn vào cái ngày làm đơn đi, mới cách đây một tháng à,” Rolvaag nói.
“Joey không hé răng với tôi nửa lời về vụ này.”
“Thú vị nhỉ.”
“Chứ không thì tôi phải nói với ông rồi chứ. Lạy Chúa, tôi đâu có phải thằng đần,” Chaz cảm nhận mình càng lúc càng mất bình tĩnh. “Vụ này là thật, hay chỉ là một phần của kế hoạch chơi khăm? Và đừng có diễn tuồng như thể không biết tôi đang nói gì.”
Thanh tra nói: “Tôi không dám nói tài liệu này chính chủ hay không. Đấy là lý do tôi đến tìm ông, Chaz. Đó là lý do tôi muốn có mẫu chữ viết tay của bà Perrone.”
“Nghe tôi bảo nè, đừng vờ vịt nữa,” Chaz bốc hỏa. “Không giở trò nữa, được không? Ông là một tên thanh tra bẩn thỉu và tôi biết tỏng ông muốn cái gì. Cái này không phải di nguyện của Joey, nó là đồ giả! Ông đã chế ra nó vì đéo có cách nào truy tố tôi, nên ông gài bẫy tôi, ông buộc tôi phải xì tiền ra để thoát tội…”
Đến đây Chaz ngẫm nghĩ chuyện xé tan nát tờ di chúc để tạo hiệu ứng kịch tính. Nhưng trong thâm tâm, nó vẫn chừa lại một khả năng, dù rất mong manh: có khi nào mình đã đoán sai về lão Rolvaag và tài liệu này là thật? Chaz nhận ra hai tay mình đang bấu chặt lấy tờ giấy y như cách mà Moses bấu víu lấy mấy văn bản pháp chế (qua màn trình diễn của Chuck Heston).
Miễn nhiễm trước những lời chửi rủa, Rolvaag bình tĩnh đáp: “Ông cứ giữ nó đi Chaz. Tôi có bản photo khác rồi.”
Lúc này Tool đột ngột vào phòng, trên gò má vẫn còn dính chút mỡ cá sấu. Gã hỏi cái gì mà ồn vậy.
“Ông Perrone hơi giận tôi ấy mà,” thanh tra giải thích. “Nhưng giờ ổng bình tĩnh lại rồi.”
“Chưa bình tĩnh lắm đâu.”
Tool nói: “Này đốc-tờ, nhìn mày nhăn nhó như khỉ vậy.”
“Cám ơn vì đã chú ý. Giờ cho tôi và thanh tra nói chuyện tiếp được không?”
Khi chỉ còn lại hai người, Rolvaag nói: “Chữ ký là thật phải không?”
“Nhìn giống lắm. Gần như y chang,” Chaz nói. “Cái đứa mà ông nhờ nhái chữ ký vợ tôi tài thật.”
Rolvaag vẫn thế, lạnh lùng đến chai đá. “Để tôi làm rõ vấn đề nhé. Ông cáo buộc tôi ngụy tạo chữ ký để khởi tố ông về sự mất tích của vợ ông?”
“Chuẩn!”
“Nhưng ông có nhắc đến tống tiền. Tôi không hiểu.”
“Tra chữ tống tiền trên từ điển đi,” Chaz thầm nghĩ: mày muốn thấy tao lúng túng ư, khỏi nha.
Rolvaag trầm tư một lúc, rồi nói: “Nghĩa là giờ ông trả tiền cho tôi, tôi ném vụ 13 triệu đô sang một bên và bà Perrone tan biến.”
“Chính xác. Và đừng quên cái thằng nhân chứng tưởng tượng của ông.”
“Cái gì?” Thanh tra khẽ nghiêng đầu, như thể đang chăm chú lắng nghe tiếng hót của một loài chim quý. Đó là một phản ứng tinh tế đầy thuyết phục.
“Nhân chứng của việc gì?” Rolvaag lại hỏi.
Chaz thấy bụng quặn lên. Mẹ kiếp, thằng cảnh sát này hoặc là đặc biệt khéo lừa, hoặc mình vừa phạm sai lầm tồi tệ nhất trong đời.
“Nhân chứng của việc gì?” Rolvaag lại hỏi.
Chaz cười nhẹ. “Tôi giỡn mà,” đây là một câu thoại mà nó chưa từng tập trước.
“Nghe đâu có giống giỡn.”
“Tôi giỡn thiệt,” Chaz nói. “Người Scandinavia các ông nghiêm túc quá.”
Rolvaag nhẹ nhàng đóng cặp táp lại. “Tôi không có tống tiền, ông Perrone.”
“Tất nhiên là không.”
“Nhưng ông vẫn nên cẩn thận,” thanh tra nói và đứng dậy. “Cẩn thận hơn từ trước đến giờ.”